Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã suối bau, huyện phù yên, tỉnh sơn la giai đoạn 2015 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.9 KB, 48 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết xây dựng Đề án
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác phát triển
thế hệ cán bộ các cấp chính quyền đặc biệt là công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở. Người chỉ rõ: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ.
Người khẳng định “Chính quyền cơ sở là gốc của chính quyền cách mạng”.
Đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có vững mạnh thì chính quyền cơ sở mới vững
mạnh và Nhà nước mới phát triển.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi cán bộ là khâu
then chốt trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, là nguyên nhân thành
bại của cách mạng. Đảng đã khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cấp cơ sở, nơi trực tiếp tổ
chức triển khai và cụ thể các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở
Xã, phường, thị trấn (gọi tắt là cán bộ cấp xã) có đủ phẩm chất, năng lực
là nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trước mắt
cũng như lâu dài trong sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Chính quyền cơ sở (cấp xã, phường, thị trấn) là nơi trực tiếp giải quyết
công việc của người dân, là nơi thực hiện mọi chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và có vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương.
Đội ngũ cán bộ công chức cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng đối với chính
1
1
1
quyền cơ sở; chính quyền cơ sở có vai trò quyết định đến hệ thống chính trị
của nước ta.
Cán bộ cấp xã có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các


chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và là lực lượng
chiếm số lượng hết sức đông đảo trong tổng số biên chế hiện nay.Vì vậy, xây
dựng và không ngừng hoàn thiện đội ngũ cán bộ cấp xã là đòi hỏi khách quan
của chính sự nghiệp xây dựng CNXH, là điều kiện tất yếu đảm bảo cho sự
thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc chuẩn hóa và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã là đòi hỏi tất yếu, cấp thiết trong
giai đoạn hiện nay nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy
Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp xã.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ làm việc ở chính quyền cơ sở vẫn còn nhiều
bất cập: thiếu về số lượng, yếu về chất lượng đặc biệt là trình độ chuyên môn;
năng lực quản lý, điều hành chưa đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ
mới.
Hệ thống chính quyền cơ sở xã, thị trấn ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La
nói chung và xã Suối Bau nói riêng cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế. Một trong
những nguyên nhân cơ bản là do đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở đây chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn.
Nhận thức được yêu cầu quan trọng nói trên, là một cán bộ lãnh đạo tại
xã Suối Bau, huyện Phù Yên, Sơn La, qua thời gian được học tập và nghiên
cứu chương trình Cao cấp lý luận chính trị tại Học viện Chính trị khu vực I,
được tiếp thu hệ thống kiến thức lý luận, kết hợp với những kinh nghiệm trong
quá trình công tác thực tiễn ở cơ sở, em thấy rõ hơn về tầm quan trọng của
công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở xã Suối Bau hiện nay và trong
thời gian tới. Với những lý do trên em chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ xã Suối Bau, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La giai đoạn 2015 -
2
2
2
2020”, làm Đề án tốt nghiệp Lớp Cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung, khóa
học 2014 - 2015 của mình.
2. Mục tiêu của Đề án

2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của Đề án nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ ở xã Suối Bau có bản
lĩnh chính trị vững vàng, nghiệp vụ chuyên môn tốt, đảm bảo số lượng, chất
lượng, cơ cấu hợp lý, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của cấp ủy giao. Đồng
thời, đáp ứng yêu cầu xây dựng bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp xã
phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đề xuất giải
pháp, lộ trình thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ xã Suối Bau, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La giai đoạn 2015 - 2020.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu đến năm 2020, xã Suối Bau, huyện Phù Yên, Sơn La về công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đạt kết quả như sau:
- Cán bộ lãnh đạo chủ chốt: 03 đồng chí có trình độ chuyên môn: đại học
trở lên, 03 đồng chí có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên.
- Cán bộ lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể có trình độ chuyên môn
từ cao đẳng trở lên; 100% có trình độ trung cấp lý luận chính trị.
-Bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ: Phấn đấu 70% số cán bộ lãnh
đạo, quản lý được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ tự học, tự bồi dưỡng ngoại
ngữ, tin học. Phấn đấu 100% cán bộ sử dụng thành thạo máy vi tính trong công
việc.
- 100% cán bộ thấm nhuần đạo đức cách mạng; kiên định mục tiêu lý
tưởng của Đảng và sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
- Xây dựng được gương sáng về đạo đức trong đội ngũ cán bộ chủ chốt
của xã.
3
3
3
3. Giới hạn Đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng đội ngũ cán bộ xã
3.2.Không gian nghiên cứu: xã Suối Bau, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn

La.
3.3. Thời gian thực hiện: Đề án được thực hiện trong giai đoạn 2015-
2020.
4
4
4
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở/căn cứ xây dựng Đề án
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Chính quyền cấp cơ sở
Chính quyền: được hiểu là bộ máy điều khiển, quản lý công việc của
Nhà nước, hoạt động của nó mang tính chất quyền lực nhà nước.
Cấp cơ sở: là cấp hành chính thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4
cấp của Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng
ở cơ sở, thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn.
Cấp xã là gần dân nhất, là nơi chính quyền trong lòng dân. Cơ sở là
cấp thấp nhất trong các cấp độ quản lý của hệ thống chính quyền nhà nước
nhưng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội, là nơi thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp, đồng thời người dân cũng có
điều kiện hiểu rõ hơn về bộ máy nhà nước. Qua đó, có thể nhận biết được thái
độ của người dân đối với chế độ cũng như hiện trạng của chế độ nói chung.
Cơ sở là nơi thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, nơi thể hiện rõ nhất nghị quyết của Đảng được tổ chức ra sao và đi
vào cuộc sống như thế nào, mang lại những hiệu quả gì cho nhân dân.
Ở Việt Nam, chính quyền cơ sở có ba loại hình là xã, Phường và thị
trấn. Trong đó:
+ Xã: chính quyền cơ sở ở các khu vực nông thôn;
+ Phường: chính quyền cơ sở ở các khu đô thị;
+ Thị trấn: chính quyền cơ sở ở vùng nông thôn, nhưng là trung tâm

chính trị, kinh tế, văn hóa của một huyện.
5
5
5
Tóm lại, có thể khái quát chính quyền cấp cơ sở như sau: Chính quyền
cấp cơ sở, là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở Việt Nam,
thực hiện quyền lực nhà nước ở địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện
những vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng và đời sống của nhân dân địa phương, theo Hiến pháp, pháp luật
và quy định của cơ quan nhà nước cấp trên.
Chính quyền cấp cơ sở (cấp xã) là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu
nối trực tiếp giữa hệ thống chính quyền cấp trên với nhân dân, hàng ngày tiếp
xúc, nắm bắt và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Cấp cơ sở có
vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn
kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng
phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
1.1.2. Cán bộ
Theo Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm
2008. Tại khoản 1 Điều 4 quy định về cán bộ: “ Cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm
kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước”.
1.1.3. Chất lượng cán bộ
Chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã là sự thống nhất biện chứng giữa cơ
cấu, số lượng của đội ngũ và chất lượng của mỗi cá nhân cán bộ bảo đảm đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; là tổng hợp những chỉ báo đánh giá phẩm
6
6
6
chất đạo đức, trình độ, năng lực và khả năng thích ứng, thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ được giao của họ.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới công tác cán bộ. Người chỉ rõ, cán
bộ là dây chuyền của bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, “Cán bộ
là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì
động cơ dù có tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người
đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu
cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”, cán bộ “là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Như vậy, cán
bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí
lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước, đoàn thể phân công,
và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ là do nhân dân
giao cho.
Có thể khẳng định rằng, trong bất cứ giai đoạn nào của sự nghiệp cách
mạng, cán bộ và công tác cán bộ cũng đều giữ vị trí đặc biệt quan trọng, cán
bộ là một trong những nhân tố cơ bản quyết định thành công hay thất bại của
cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đại
hội X của Đảng cũng đã chỉ rõ: Một trong những giải pháp nhằm đổi mới,
chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phải
là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, nhất
là đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Có cơ chế, chính sách bảo đảm

phát hiện, đánh giá, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ
7
7
7
xứng đáng người có đức, có tài, dù là đảng viên hay người ngoài Đảng”. Trên
cơ sở những quan điểm về cán bộ, chính sách đối với cán bộ nói chung, Đảng
cũng đã đưa ra những quan điểm về đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở và vấn đề thu
hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở. Đảng ta
nhận định đó là những người trực tiếp tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết trung ương 5 (khóa
IX) chỉ rõ: Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm
thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không
ức hiếp dân; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết
hợp lý và đồng bộ chính sách đối với đội ngũ cán bộ cơ sở. Đội ngũ cán bộ ở
chính quyền cơ sở là những người làm việc trong bộ máy chính quyền và các
tổ chức đoàn thể quần chúng của hệ thống chính trị cấp cơ sở. Trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ này là thay mặt Đảng và Nhà nước trực tiếp lãnh đạo,
quản lý xã hội đến tận người dân. Họ trực tiếp phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, bảo đảm mọi quyền lợi của công dân, chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân ở cơ sở, động viên quần chúng làm tròn nghĩa vụ đối
với Nhà nước.
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII của Đảng Về chiến lược cán bộ trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định
sự thành công hay thất bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”.
Nước ta đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi phải trẻ hóa, chăm lo công tác đào
tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.
Mặt khác cần xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động

nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
8
8
8
công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham
nhũng, không ức hiếp dân.
1.2.2. Cơ sở pháp lý:
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI.
- Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 (Nghị quyết
TW5, khóa IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống
chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”
- Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của Chính
- Thông tư số 03/2004/TT-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ
Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10
năm 2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn;
- Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV ngày 16 tháng 01 năm 2004 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn.
- Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 ngày 13 tháng 11 năm 2008.
- Kết luận số 37-KL/TW ngày 02 tháng 02 năm 2009 Hội nghị lần thứ
9 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến
lược cán bộ từ nay đến năm 2020.
- Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính
phủ Về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ ở Xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và
Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2013 củ Chính phủ Về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP
- Quyết định số 10/2010/QĐ-UBND ngày 03/11/2010 của UBND tỉnh
Sơn La về việc giao số lượng, chức danh cán bộ, công chức ở xã, phường, thị
trấn thuộc tỉnh Sơn La;

9
9
9
- Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12.8.2011 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai
đoạn 2011 – 2015;
- Quyết định số 11/2013/QĐ-UBND ngày 12/6/2013 của UBND tỉnh
Sơn La về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 10/2010/QĐ-UBND ngày
ngày 03/11/2010 của UBND tỉnh Sơn La về việc giao số lượng, chức danh
cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn thuộc tỉnh Sơn La;
- Quyết định số 10/2013/QĐ-UBND ngày 31/5/2013 của UBND tỉnh
Sơn La về việc ban hành Quy chế tổ chức tuyển dụng công chức xã, phường,
thị trấn trên địa bàn tỉnh Sơn La;
- Nghị quyết số 71/2014/NQ-HĐND ngày 03 tháng 4 năm 2014 của Hội
đồng nhân dân Tỉnh ủy Sơn La Về chức danh, số lượng, mức phụ cấp đối với
cán bộ không chuyên trách trên địa bàn tỉnh;
- Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND ngày 29 tháng 01 năm 2015 về việc
giao số lượng cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn thuộc tỉnh Sơn La
Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 01 tháng 01 năm 2015 của UBND tỉnh
Sơn La Về việc phân loại đơn vị hành chính Xã, phường, thị trấn trên địa bàn
tỉnh Sơn La
1.3. Cơ sở thực tiễn
Chính quyền xã là của chính quyền Nhà nước ở cơ sở, có vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng, là nền tảng của bộ máy Nhà nước, là chỗ dựa, là công cụ
sắc bén để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cơ sở cho
chiến lược ổn định và phát triển đất nước, là yếu tố chi phối mạnh mẽ đến đời
sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng dân cư trên địa bàn.
Đội ngũ cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực
hoá sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội ở cơ sở. Đội ngũ cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định

10
10
10
trong việc quán triệt, tổ chức thực hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên,
cấp uỷ cùng cấp và mọi chủ trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp
trên, cũng như mọi chương trình, kế hoạch của chính quyền xã. Cán bộ xã là
cầu nối quan trọng nhất giữa Đảng, nhà nước với nhân dân, giữ vai trò quyết
định trong việc xây dựng và thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng ở
cơ sở.
Trong giai đoạn đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay,
việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã theo hướng chuẩn hóa, trẻ hóa phù hợp
với tinh thần Nghị quyết hội nghị Trung ương sáu (khóa X) về xây dựng đội
ngũ cán bộ và hệ thống chính trị cơ sở đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa; từ thực trạng chất lượng cũng như bổ sung đội
ngũ cán bộ có trình độ đạt và trên chuẩn cho cấp xã là hết sức cần thiết.
Theo thống kê, đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp xã hiện nay có trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ ở bậc đại học, cao đẳng chiếm tỷ lệ tương đối thấp, là
một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng đến kết quả, quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức học tập, nâng cao năng lực công tác,
nhiệt tình, tận tụy với công việc, hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao,
quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng là một đòi hỏi cấp
thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Nội dung thực hiện Đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện Đề án
Suối Bau là một xã vùng cao, vùng sâu thuộc diện đặc biệt khó khăn
cuả huyện, cách trung tâm huyện 23km. Tổng diện tích tự nhiên của xã là
4.279ha; dân số: 563 hộ, 4982 khẩu, phân bố trên 10 bản; cơ cấu dân tộc, gồm
3 tộc người chủ yếu: Mông (99,9%), Thái, kinh (0.1%). Đất đai chủ yếu là đồi
núi, độ dốc lớn và bị chia cắt nhiều bởi các đồi, núi và khe suối lớn nhỏ. Khí

11
11
11
hậu là mùa đông và mùa hè, chịu ảnh hưởng lớn của gió Lào, thiên tai, lũ,
bão…
Địa giới hành chính cụ thể như sau:
Phía Bắc giáp với xã Hồng Ngài, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La;
Phía Nam Giáp xã Tường Thượng, xã Gia Phù, huyện Phù Yên, tỉnh
Sơn La;
Phía Tây giáp xã Sập Xa, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La;
Phía Đông giáp với xã Kim Bon, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.
Là xã vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn của huyện miền núi, với
100% là dân tộc Mông, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp canh tác trên đất dốc
theo mùa vụ; văn hóa mang đậm những phong tục tập quán địa phương với
cả những nét đặc sắc và lạc hậu. Con người nơi đây hồn hậu, sống hòa đồng
và thân thiện với thiên nhiên; tôn trọng tôn ty trật tự và yêu thương quý
trọng con người. Nơi đây còn lưu giữ được những nét văn hóa truyền thống
tích cực như hát đối, ném pa pao, khèn, sáo, đàn môi; đan lát, thêu Tuy
nhiên, bên cạnh những nét đặc sắc ấy, sự lạc hậu cũng trải dài theo bề dày
lịch sử và hiện nay đang gây cản trở cho quá trình phát triển của địa phương.
Đó là các hủ tục trong cưới hỏi, ma chay, là trình độ dân trí thấp (khoảng
40% là biết chữ và 75% nghe, hiểu được tiếng phổ thông). Hiện nay, trên địa
bàn xã có 03 trường học đặt tại trung tâm xã (mầm non, tiểu học, trung học
cơ sở) và 10 điểm trường cắm bản cơ bản đáp ứng việc dạy và học của thầy,
trò. Tuy nhiên, các điểm trường chưa được xây dựng kiên cố, chủ yếu là
nhân dân đóng góp xây dựng. Từ năm 2010 đến nay, trên địa bàn xã có nhiều
con em đã và đang theo học các trường trung cấp, cao đẳng, đại học tại các cơ
sở đào tạo ở trong và ngoài tỉnh. Xã Suối Bau là một xã miền núi đặc biệt khó
khăn, có các yếu tố đặc thù về phân loại khu vực thuộc nhóm khu vực III, 100%
cư dân địa phương là đồng bào dân tộc thiểu số (Mông chiếm 99.9%) hưởng

12
12
12
100% ngân sách nhà nước. không có nguồn thu khác trên địa bàn. Địa bàn rộng,
các bản phân bố không đều (bản cách xa trung tâm xã nhất là 18 km, bản cách
bản trung bình từ 3 đến 6km), đường giao thông đi lại là đường đất và dốc,
quanh co; 9/10 bản chưa có điện lưới quốc gia; sóng điện thoại chưa được phủ
khắp địa bàn…
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, sự
phối hợp tạo điều kiện của các phòng ban chức năng của huyện. Đảng bộ xã
Suối Bau từng bước lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm như: tập trung
tổ chức triển khai thực hiện toàn diện các nhiệm vụ của công tác xây dựng
Đảng. Trong đó, đặc biệt chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo
dục phẩm chất đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng và cấp uỷ các cấp đều được triển khai quán triệt đến Chi bộ và
Đảng viên trong toàn Đảng bộ. Do đó, mọi đảng viên trong Đảng bộ đều giữ
vững lập trường chính trị kiên định vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức,
có lối sống trong sạch lành mạnh.
2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết
2.2.1. Thực trạngchất lượng đội ngũ cán bộ xã Suối Bau
2.21.1. Về thực trạng dạo đức của đội ngũ cán bộ
Về phẩm chất chính trị: đội ngũ cán bộ xã Suối Bau có bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có ý thức
trách nhiệm, nhiệt tình trong công tác. Từng bước cải tiến lề lối làm việc, đưa hoạt
động quản lý điều hành ở cơ sở đi vào nề nếp, có kết quả tốt.
Tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đúng đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở. Cán bộ cấp cơ sở đa phần đã gần dân, sát
dân, thông thuộc địa bàn, hiểu rõ phong tục tập quán của dân, gương mẫu, được
nhân dân tín nhiệm. Nhiều cán bộ cơ sở đã biết làm giàu từ kinh tế trang trại, chăn
nuôi, đồng thời hướng dẫn nhân dân cùng phát triển kinh tế.

13
13
13
Về phẩm chất đạo đức, lối sống: đại đa số cán bộ xã Suối Bau có phẩm
chất đạo đức tốt, có lối sống giản dị, lành mạnh, mẫu mực, là những cán bộ
thật thà, chất phác, gần dân, được nhân dân tín nhiệm. Trong công việc họ
luôn hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích của
tập thể lên trên lợi ích của cá nhân. Bản thân mỗi cán bộ xã Suối Bau luôn
nỗ lực học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí
Minh, được nhân dân quý mến và kính trọng, xứng đáng là người cán bộ
theo các chuẩn mực mới, đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần rèn luyện, tu
dưỡng cho mình đạo đức lối sống cách mạng thường xuyên, liên tục, bền bỉ,
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Lắng nghe, tôn trọng ý kiến cán
bộ, đảng viên và nhân dân kịp thời điều chỉnh tác phong công tác; phương
pháp làm việc khoa học; có giải pháp, việc làm cụ thể để khắc phục kịp thời
những hạn chế, yếu kém của bản thân và cơ quan, đơn vị trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị được giao.
2.2.1.2. Về trình độ văn hóa, lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp
vụ của đội ngũ cán bộ.
Văn hóa: 8/10 cán bộ xã Suối Bau đã tốt nghiệp THPT. Trong thời gian
tới cần phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cấp xã, bởi văn hóa là gốc rễ, nền tảng,
tiền đề cho đào tạo, bồi dưỡng các trình độ khác.
Lý luận chính trị: 6/10 cán bộ xã Suối Bau đã được đào tạo trình độ sơ
cấp, trung cấp và cao cấp lý luận chính trị. Về cơ bản, tình hình an ninh, chính
trị của xã Suối Bau ổn định, cho thấy đội ngũ cán bộ xã đã vận dụng hiệu quả
trình độ lý luận chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng, áp dụng đúng đắn
vào nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Trong thời gian, tới cần nâng cao hơn
nữa trình độ lý luận chính trị cho cán bộ xã Suối Bau không còn cán bộ chưa
được đào tạo về lý luận chính trị.
Chuyên môn, nghiệp vụ: Về cơ bản đội ngũ cán bộ đã đảm bảo đúng tiêu

14
14
14
chuẩn, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết công việc tại cơ sở.
- Về trình độ chuyên môn: trình độ đại học: 02 người (đạt 20%), trung
cấp: 3 người (đạt 30%), chưa qua đào tạo: 5 người (đạt 50%).
- Về trình độ lý luận chính trị: Cao cấp: 01 người (đạt 10%); trung cấp:
4 người (đạt 40%), sơ cấp: 01 người (đạt 10%), chưa qua đào tạo: 4 người
(40%).
- Về trình độ học vấn: Tốt nghiệp Trung học phổ thông: 8 người (đạt
80%), Trung học cơ sở: 02 người (đạt 20%).
Đội ngũ cán bộ cấp xã hiện nay đang từng bước được chuẩn hóa, việc
đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, bố trí, sử dụng được đi vào nề nếp hơn.
Hàng năm, xã Suối Bau đã cử cán bộ tham gia đào tạo và bồi dưỡng nâng cao
trình độ cả về chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước… do tỉnh,
huyện tổ chức và các cơ sở đào tạo, liên kết đào tạo (hiện tại đang đào tạo về
chuyên môn: 01 đồng chí đại học, 02 đồng chí trung cấp; trung cấp lý luận
chính trị 02 đồng chí).
Đội ngũ cán bộ xã từng bước được trẻ hóa và xu thế tiếp tục đào tạo,
bồi dưỡng để chuẩn hóa, đảm bảo về số lượng và nâng cao chất lượng, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, đoàn kết giữ vững phẩm chất cách mạng, luôn tin
tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng; là tác nhân quan trọng góp phần lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc
phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của địa phương vững
mạnh.
2.2.1.3. Thực trạng số lượng cán bộ xã Suối Bau
Đối với cán bộ chuyên trách: Có 10 cán bộ chuyên trách, trong đó:
Nam: 09 người, chiếm 90%
Nữ: 01 người, chiếm 10%

15
15
15
Độ tuổi: Dưới 30 tuổi: 01 đồng chí, chiếm 10%;
- Từ 31 đến 40 tuổi: 5 người, chiếm 50%;
- Từ 41 đến dưới 50 tuổi: 4 người, chiếm 40%.
Tôn giáo: không có người theo tôn giáo.
2.2.1.4.Thực trạnglãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ của địa phương
Thứ nhất: Lãnh đạo phát triển kinh tế
Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, được nhân dân
đồng tình hưởng ứng thực hiện và thu được những kết quả quan trọng: Thu
nhập bình quân 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/ tháng; cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực trong từng ngành, từng lĩnh vực, phù hợp với điều kiện
thực tế của địa phương. Nông nghiệp đạt sản lượng lương thực từ 2.782 tấn
năm 2012 tăng lên 3.927 tấn năm 2014, vượt 70,8% so với chỉ tiêu Đại hội
XIX của Đảng bộ xã đề ra. Chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng phát
triển, đã và đang trở thành ngành sản xuất chính. Đến nay, tổng đàn trâu có
288 con, đàn bò 1.121 con, đàn dê 1.396 con, đàn ngựa 49 con, đàn lợn trên 2
tháng tuổi trên 1.318 con, đàn gia cầm đạt trên 10.500 con, góp phần giải
quyết sức kéo và cung cấp phần lớn nguồn thực phẩm tươi sống trên địa bàn.
Là xã vùng cao, có gần 100 % diện tích là đồi núi, nhưng nhiều hộ dân
đã san ủi mặt bằng, cải tạo đất trồng rau xanh, tận dụng mặt nước ao, suối
nuôi thả cá, góp phần cải thiện bữa ăn, là mô hình tốt để cộng đồng dân cư
học tập, nhân rộng.
Công tác bảo vệ và phát triển vốn rừng được quan tâm chỉ đạo và tổ chức
thực hiện. Từ năm 2010 - 2014, toàn xã đã trồng mới được 253,12 ha rừng,
khoanh nuôi bảo vệ được 791,88 ha rừng, nâng độ che phủ 26,23%; chuyển
đổi 841 ha đất canh tác lương thực trên đất dốc sang trồng rừng kinh tế, trồng
cây ăn quả, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, phủ xanh đất trống, đồi
núi trọc.

16
16
16
Thứ hai: Lãnh đạo xây dựng văn hóa, xã hội
-Về Giáo dục đào tạo
Sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển cả về quy mô, số lượng và chất
lượng. Cơ sở vật chất trường, lớp học được quan tâm đầu tư xây dựng, nâng
cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu dạy và học của thầy và trò. Mối quan
hệ giữa cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể với đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên
ngày một bền chặt nhằm thực hiện tốt mục tiêu đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của địa phương.
-Về công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Luôn được quan tâm đúng mức, cơ sở vật chất, trang thiết bị tại trạm y tế
xã thường xuyên được bổ sung và nâng cấp, chương trình tư vấn cho bệnh
nhân và người nghèo theo Quyết định 139 được thực hiện nghiêm túc và có
hiệu quả, công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm như: chương trình
tiêm chủng mở rộng, phòng chống lao, chống suy dinh dưỡng trẻ em, không
để dịch bệnh xảy ra.
Công tác kế hoạch hóa gia đình - chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em
được quan tâm, giảm tỷ lệ tăng dân số xuống còn 3,1% xuống còn 2.3% năm
2014.
-về văn hóa, thông tin, thể thao.
Các hoạt động phong trào văn hóa, thể dục thể thao, thể thao quần chúng
được quan tâm chỉ đạo, phát triển cả về số lượng và chất lượng với nhiều nội
dung hình thức phong phú đa dạng: như bóng đa nam 10 đội, và 2 câu lạc bội
cầu lông, 10 đội văn nghệ.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư” được triển khai sâu rộng, đã phát huy tác dụng tích cực; đến nay toàn xã
có 7 Bản, 1 cơ quan UBND xã, 3 đơn vị nhà trường học được công nhận bản
17

17
17
văn hóa tiên tiến, 5 khu dân cư được công nhận khu dân cư văn hóa, với 163
số hộ được công nhận gia đình văn hóa 3 năm liền.
-Về công tác chính sách xã hội
Công tác giảm nghèo, tăng hộ khá, giải quyết nhà ở theo Nghị quyết 30
của chính phủ và đảm bảo an sinh xã hội: được cấp ủy đảng, chính quyền và
xã hội quan tâm thực hiện tốt với nhiều giải pháp hiệu quả, giải quyết một
phần khó khăn cho các đối tượng nghèo và các đối tượng cần được bảo trợ.
Hỗ trợ về nhà ở 174 nhà (theo quyết định 167), các chương trình khác 31nhà;
hỗ trợ con giống; bò 47 con, lợn 122 con, Ngô giống được cấp theo quyết
định 102 7.985 Kg; Dự án giảm nghèo giai đoạn II: trâu 05 con, Bò 06 con,
Dê 343 con, Lợn 98 con, gà 2.700 con, Ngan 750 con; mở đường vào khu sản
xuất và bê tông hóa đường nội bản 19,790km với tổng số vốn đầu tư
3.675.949.000 đồng; 99% được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo quyết định 139.
-Về giải quyết các vấn đề bức xúc xã hội
Công tác đấu tranh phòng chống ma túy kết hợp với nội dung bản cam kết
“5 có, 5 không” trong đồng bào dân tộc Mông được triển khai mạnh mẽ, có hiệu
quả. Năm 2010 đến nay, xã Suối Bau có 10/10 bản, 01 cơ quan xã, 01 trạm y tế
xã, 03 nhà trường được công nhận đạt “đơn vị không có ma túy”. Không có các
tệ nạn xã hội xảy ra…
Thứ ba: Lãnh đạo xây dựng quốc phòng, an ninh
-Về Công tác quốc phòng, an ninh
Công tác quốc phòng quân sự địa phương được quan tâm, chú trọng xây
dựng cơ sở vững mạnh toàn diện về chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo điều
kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến
thức quốc phòng - quân sự địa phương được nâng lên; lực lượng dân quân tự
vệ, dự bị động viên được rà soát, củng cố, kiện toàn và huấn luyện theo quy
18
18

18
định; công tác tuyển quân và giao quân được tiến hành nghiêm túc, có chất
lượng và hiệu quả.
Lực lượng công an xã được củng cố, kiện toàn, thực hiện tốt chế độ trực
ban, giao ban, thường xuyên triển khai công tác phòng ngừa, tấn công các loại
tội phạm, bài trừ tệ nạn xã hội, tập trung giải quyết có hiệu quả các vấn đề phát
sinh, không để xảy ra điểm nóng. Phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ an
ninh Tổ quốc” được đẩy mạnh; tinh thần cảnh giác phòng chống âm mưu “Diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch được chú trọng… đảm
bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.
2.2.2. Thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ xã Suối Bau
Trên cơ sở những văn bản chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh Sơn La,
của huyện Phù Yên, Đảng ủy đã ban hành nhiều văn bản về xây dựng đội ngũ
cán bộ gắn trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền với các đoàn thể nhân
dân trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát
triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương. Đặc biệt là công tác
quy hoạch và xây dựng quy hoạch cán bộ A1, A2, A3. Lựa chọn đội ngũ kế
cận để đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sắp xếp, sử dụng vào các chức danh chủ
chốt. Từng bước đáp ứng được yêu cầu về cơ cấu, số lượng và chất lượng đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Động viên đội ngũ cán bộ cấp xã yên tâm công tác, tạo điều kiện phát
huy năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tận tụy với công việc, nâng cao hiệu
quả, hiệu lực hoạt động của chính quyền. Khuyến khích, động viên cán bộ cấp
xã không ngừng học tập rèn luyện nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với từng vị trí, chức danh. Chất lượng đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở được nâng lên rõ rệt, có chuyển biến tốt về nhận thức và lề
lối làm việc. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã nhận thức sâu sắc, đúng đắn về vị
19
19

19
trí, yêu cầu của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
2.2.3. Một số hạn chế
Một là: Trình độ các mặt của một số cán bộ cấp xã còn thấp so với yêu
cầu, nhiệm vụ, nên mặc dù đã qua đào tạo, bồi dưỡng nhưng do đầu vào
không bảo đảm nên chất lượng sau đào tạo, bồi dưỡng không cao, các lớp bồi
dưỡng chủ yếu là ngắn hạn nên hiệu quả thấp dẫn đến cán bộ không biết việc
để làm hoặc không đủ khả năng để thực hiện nhiệm vụ.
Hai là: Một số chức danh cán bộ cấp xã tuy đã đạt tiêu chuẩn về trình
độ, nhưng do độ tuổi cao, năng lực hạn chế lại chưa đủ điều kiện nghỉ hưu,
chưa có chính sách hỗ trợ hợp lí nhằm động viên, khuyến khích các cán bộ
trên nghỉ việc nên chưa thể bố trí, bổ nhiệm được cán bộ trẻ để thay thế.
Ba là: chất lượng cán bộ cấp xã còn thấp so với yêu cầu nhiệm vụ, việc
tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của cấp trên
xuống cơ sở nhiều lúc không kịp thời, đầy đủ; việc triển khai thực hiện nhiệm
vụ của chính quyền cơ sở còn chậm; giải quyết công việc còn nhiều sai sót,
một số ít cán bộ ý thức trách nhiệm với công việc không cao, làm việc theo
kiểu cầm chừng, trông chờ, ỷ lại vào cấp trên.
Đội ngũ cán bộ hiện nay đã đủ về số lượng theo quy định song về trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước và
khả năng kỹ thuật sử dụng tin học ở một số bộ phận cán bộ chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn. Hiện nay, đội ngũ cán bộ chuyên trách xã còn có 20% chưa
qua đào tạo về chuyên môn; 60% chưa qua đào tạo kiến thức quản lư nhà nước,
đây là điểm yếu cơ bản nhất của đội ngũ cán bộ xã Suối Bau. Trong điều kiện
hiện nay, khi nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, nhiều địa phương trên cả nước đang tập trung thực hiện chương trình
xây dựng nông thôn mới; Đảng và Nhà nước ta đang đang thực hiện tăng
20
20

20
cường phân cấp và trao quyền tự chủ cho cơ sở, đầu tư nhiều vật lực, tài lực
và dành nhiều dự án, chương trình mục tiêu nhằm hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế- xã
hội nông thôn phát triển, đặc biệt là ở cấp xã, nơi mà kinh tế xã hội còn có
nhiều khó khăn, với đội ngũ cán bộ cơ sở hầu hết chưa được qua đào tạo cơ
bản là một trở ngại không nhỏ.
Do thiếu kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ cộng thêm sự non yếu về
trình độ lý luận và quản lý nhà nước đã dẫn tới sự hạn chế về năng lực quản
lý, điều hành công việc. Không ít cán bộ chưa nắm chắc chức năng nhiệm vụ,
thẩm quyền được giao nên giải quyết công việc còn mang tính chủ quan, tùy
tiện, xử lý các công việc không đúng pháp luật, vi phạm chính sách của Đảng
và Nhà nước; chấp hành công vụ chưa nghiêm, không chủ động, sáng tạo và
thiếu tinh thần, trách nhiệm trong lãnh đạo, điều hành, tổ chức triển khai thực
hiện. Việc cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước còn chưa sâu, sát và phù hợp thực tiễn…dẫn đến quá trình giải quyết, xử
lý công việc còn lúng túng, chưa kịp thời. Đôi khi do không nắm vững chức
năng nhiệm vụ, dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm hoặc lấn sang công việc khác
ngoài phạm vi phụ trách của mình.
Bốn là: Một số cán bộ, công chức cấp xã hoạt động chưa thực sự dựa
vào pháp luật, đôi khi còn giải quyết công việc theo ý muốn chủ quan, việc
ứng xử với nhân dân, với cộng đồng còn nặng về tập quán, thói quen, tình
cảm, một số ít cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm với nhân dân, chưa thật sự
tâm huyết với công việc, một số ít có biểu hiện suy thoái đạo đức, mất đoàn
kết, cơ hội, bè phái, cục bộ gia đình, dòng họ đã làm giảm lòng tin của cán bộ
và nhân dân.
Năm là: Một số cán bộ tuy có trình độ nhưng năng lực các mặt còn hạn
chế, đặc biệt là năng lực, kỹ năng hành chính (thể hiện qua việc ban hành,
tham mưu ban hành văn bản, xử lý tình huống hành chính, thực thi công
21
21

21
vụ…); một số làm việc thụ động, cầm chừng, trách nhiệm không cao, không
nắm rõ tình hình địa phương, tình hình công việc; một số ít có biểu hiện thiếu
trách nhiệm, chưa thật sự quan tâm đến cơ sở và kể cả công chức chuyên môn
cấp xã theo ngành, lĩnh vực phụ trách.
Sáu là: Một số cán bộ chưa sử dụng hiệu quả thời gian làm việc; việc
chấp hành kỷ cương, kỷ luật hành chính có phần chưa nghiêm; trách nhiệm,
tính tiên phong, gương mẫu của công chức là thủ trưởng cơ quan, đơn vị chưa
phát huy đúng mức nên có phần ảnh hưởng đến phong cách, tác phong, lề lối
làm việc của CBCC, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ
quan, đơn vị.
Bảy là: Về hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động thực tiễn điều hành, quản
lý kinh tế - xã hội của đội ngũ cán bộ còn yếu, chưa tương xứng và đáp ứng
yêu cầu xu thế phát triển hiện đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Tám là: Công tác lãnh đạo, điều hành, quản lý của đội ngũ cán bộ còn
hạn chế, một số lĩnh vực còn lúng túng; công tác phối hợp giữa các ngành còn
chưa thật sự hiệu quả, thiếu tính chủ động trong tổ chức triển khai thực hiện
nhiệm vụ.
Chín là: Bản lĩnh chính trị của một số ít cán bộ còn bị dao động, phai
nhạt lý tưởng, mờ nhạt trong quá trình đổi mới gắn với việc xây dựng và phát
triển đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2.4. Nguyên nhân của hạn chế
2.2.4.1.Nguyên khách quan
Là một xã vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn của huyện miền núi, điều
kiện kinh tế xã hội còn chậm phát triển, trình độ dân trí thấp. Chất lượng
nguồn nhân lực của địa phương còn thấp, vì vậy mà chất lượng nguồn tuyển
dụng, bố trí cán bộ bị ảnh hưởng. Đồng thời, địa bàn cấp xã không có sức hút
22
22
22

đối với những người có năng lực, có trình độ học vấn và nhất là đối với đội
ngũ sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác tại cấp xã.
Trước đây cán bộ, công chức cấp xã không được coi là công chức Nhà
nước. Một thời gian dài họ chỉ được hưởng phụ cấp được từ ngân sách địa
phương… Vị thế của người cán bộ công chức cấp xã một thời gian khá dài bị
xem nhẹ đã có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của đội ngũ cán bộ cấp
xã. Chế độ, chính sách và vị thế thấp của cán bộ, công chức cấp xã làm cho
đội ngũ này không an tâm trong công tác, không có lòng nhiệt tình đối với
công việc mà mình được giao, không có chí tiến thủ.
2.2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Do công tác cán bộ ở các giai đoạn trước chưa tốt; nguồn
nhân lực thiếu. Chưa bố trí, lựa chọn, sắp xếp các vị trí công tác phù hợp với
đặc thù về vùng, miền và yêu cầu thực tiễn; một số tổ chức đảng và cấp ủy,
chính quyền chưa nhận thức được tầm quan trọng về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn trong lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an
ninh quốc phòng;
Thứ hai, Cấp ủy cấp trên chưa coi trọng chiến lược về công tác đào tạo đội
ngũ cán bộ kế cận, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhiều năm qua còn mang tính
hình thức, tính tự phát của từng địa phương hoặc từng cá nhân là chủ yếu.
Đây là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến đội ngũ cán bộ cấp xã vừa ít được
đào tạo vừa có chất lượng thấp. Công tác quy hoạch cán bộ cấp xã chưa được
các cấp, các ngành quan tâm chú ý thực hiện thường xuyên, chưa thành quy
chế bắt buộc đối với cán bộ xã. Chưa mạnh dạn tiếp nhận và sử dụng cán bộ trẻ
hoặc thay thế cán bộ hạn chế về năng lực, chuyên môn. Tình trạng cục bộ trong
công tác cán bộ vẫn còn xảy ra.
23
23
23
Thứ ba: Một số cán bộ do chuyển từ cơ chế cũ, được hình thành từ
nhiều nguồn nên cơ cấu chưa đồng bộ, trình độ, phẩm chất, năng lực chưa đáp

ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Thứ tư: : Công tác cán bộ chưa được quan tâm đúng mức. Trước đây công
tác cán bộ ở cấp xã không thực sự được cấp ủy, chính quyền huyện nhận thức đầy
đủ, thiếu quan tâm đúng mức, để một thời gian quá dài không có chính sách
đồng bộ , thiếu chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở, không kịp
thời bàn và đưa ra những chính sách để củng cố và tăng cường cho cơ sở.
Công tác quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được thực hiện
bài bản. Việc bố trí sử dụng cán bộ còn thiên về tình cảm cá nhân, quá trình lựa
chọn, giới thiệu đề bạt, bổ nhiệm còn chứa đựng các yếu tố chủ quan, tùy tiện,
thích lựa chọn những người thân, quen, họ hàng, người dễ điều khiển.
Một số nơi vẫn còn tình trạng cán bộ đi học theo kiểu chạy bằng cấp,
để đủ tiêu chuẩn theo quy định; nhiều cán bộ dù đã đạt chuẩn nhưng chưa
được đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống; một số cán bộ chưa chịu khó học tập,
rèn luyện, tác phong công tác, nề nếp làm việc chuyển biến chậm, cán bộ còn
thiếu sáng tạo trong việc vận dụng đường lối, nghị quyết của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước để xây dựng nhiệm vụ chính trị của địa phương,
nên chưa có những giải pháp tốt, mang tính đột phá trong thực hiện nhiệm vụ.
Thứ năm: chưa cơ chế chính sách phù hợp để thu hút cán bộ có năng
lực, trình độ chuyên môn về công tác tại cơ sở.
Thứ sáu: Một số ít cán bộ còn suy thoái về đạo đức, lối sống; thiếu tinh
thần trách nhiệm trong công việc, chưa thường xuyên phấn đấu, rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức; tư duy nhiệm kỳ, bệnh kinh nghiệm, chủ quan duy ý chí.
Chưa thật sự làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng với nhân dân; sao nhãng trong
việc tiếp thu ý kiến của dân.
24
24
24
Thứ bẩy: vai trò giám sát của nhân dân đối với cấp ủy, chính quyền
chưa sâu, thường xuyên và liên tục.
2.3. Nội dung cụ thể cần thực hiện

2.3.1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ cấp xã
2.3.2. Sắp xếp kiện toàn bộ máy xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
2.3.3. Nâng cao khả năng thực thi pháp luật trong giải quyết công việc
2.3.4. Hình thành kỹ năng ban hành văn bản và xử lý tình huống cho
cán bộ
2.3.5.Nâng cao khả năng lãnh đạo, điều hành cho cán bộ
2.3.6. Nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ
2.4.Giải pháp thực hiện đề án.
2.4.1. Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với từng chức danh cán bộ xã
Suối Bau
Tiêu chuẩn cán bộ là cơ sở làm căn cứ đánh giá, quy hoạch, sắp xếp, bố
trí công tác, giao nhiệm vụ, giới thiệu, đề cử cán bộ, thực hiện đào tạo, bồi
dường, khen thưởng, kỷ luật và giải quyết chế độ chính sách đối với cán bộ.
Đồng thời, tiêu chuẩn cán bộ cũng là cơ sở để từng cán bộ phấn đấu, rèn
luyện nhằm hoàn thiện mình.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ của xã, cần quán triệt và vận dụng tiêu
chuẩn chung của cán bộ Xã, phường, thị trấn được quy định trong Nghị định
số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ Về cán bộ xã, phường,
thị trấn. Đó là:
- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức, vận động nhân dân thực hiện có kết
quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, công tâm, thạo việc, tận tụy với
nhân dân. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có
25
25
25

×