Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Nghiên cứu về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.11 KB, 18 trang )

Bài tập lớn: Luật tố tụng hình sự
LỜI MỞ ĐẦU
Thẩm quyền của tòa án là một trong chế định quan trọng tố tụng hình sự.
Thẩm quyền càng phân định rõ ràng và khoa học thì có tính khả thi và kết quả
xét xử của tòa án càng khả quan và chính xác bấy nhiêu.
BLTTHS 2003 quy định mở rộng thẩm quyền cho tòa án cấp huyện đồng
thời Quốc hội cũng có nghị quyết quy định lộ trình hoàn thiện quy định đó
trên thực tế. Pháp lệnh tổ chức quân sự năm 2003 cũng quy định phân biệt
thẩm quyền của tòa án quân sự và Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, trong qúa
trình áp dụng các quy định của pháp luật về lĩnh vực này cũng gặp nhiều
vướng mắc và bất cập nhất định.
Muốn xây dựng thẩm quyền của tòa án trước hết phải xây dựng thẩm quyền
xét xử sơ thẩm của tòa án. Thẩm xét xử sơ thẩm là là cơ sở để xây thẩm
quyền của tòa án các cấp. Cho nên, việc nghiên cứu các quy định của pháp
luật hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm, không những giúp ta thấy được
quá trình hoàn thiện các quy định về của pháp luật về chế định này theo lịch
sử phát triển của pháp luật tố tụng hình sự mà còn có ý nghĩa quan trọng để
tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án.

I.Khái quát chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án.
Quá trình tiến hành giải quyết một vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn
khác nhau, trong đó có thể nói việc xét xử vụ án hình sự đóng vai trò quan
trọng. Xét xử sơ thẩm là giai đoạn đầu tiên của xét xử. Theo Từ điển Luật
học: “Xét xử sơ thẩm một vụ án hình là giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó
1
Bài tập lớn: Luật tố tụng hình sự
tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết
định tố tụng theo quy định của pháp luật”
Quy định thẩm quyền xét xử của các Tòa án trong lĩnh vực hình sự ở mỗi
quốc gia là khác nhau, tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: hệ thống pháp luật,
cách thức tổ chức của các cơ quan tư pháp, trình độ năng lực thẩm phán, điều


kiện xét xử … mà quy định về thẩm quyền cũng khác nhau.
Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự, đại học Luật Hà Nội, Thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Tòa án bao gồm thẩm quyền về mặt hình thức và thẩm quyền
về mặt nội dung. Trong giới hạn của bài viết em xin đi sâu vào thẩm quyền về
mặt hình thức. Theo đó: Thẩm quyền xét xử vụ án sơ thẩm là quyền mà pháp
luật quy định cho phép tòa án được xét xử sở thẩm vụ án hình sự căn cứ vào
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội, nơi
thực hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của pháp luật.
Các căn cứ quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án:
- Đường lối chính sách của Đảng;
- Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự;
- Tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;
- Tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm;
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của thẩm phán cũng như Điều tra viên,
Kiểm sát viên; Biên chế cơ sở vật chất;
- Tình hình tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm;
Từ các căn cứ trên có thể chia thẩm quyền xét xử sơ thẩm làm ba: 1- Thẩm
quyền xét xử theo vụ việc; 2- Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ; 3- Thẩm
quyền xét xử theo đối tượng.
Giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn xét xử đầu tiên có ý nghĩa quan trọng
trong cả quá trình xét xử vụ án. Bởi vì, phạm vi xét xử sơ thẩm rộng, toàn bộ
nội dung vụ án sẽ được xem xét trong giai đoạn này. Do vậy việc xác định
đứng đắn thẩm quyền xét xử sơ thẩm không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà
còn có ý nghĩa sâu sắc về mặt chính trị xã hội:
- Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm;
- Đảm bảo được quyền tự do, dân chủ của nhân dân;
- Đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả của các hoạt động tố tụng;
2
Bài tập lớn: Luật tố tụng hình sự

- Là cơ sở để tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp;
- Là cơ sở cho cho việc xác định thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm;
- Đảm bảo cho việc xét xử chính xác, khách quan các vụ án hình sự.

II. Các quy định của luật TTHS các quy định này về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
1.Thẩm quyền xét xử theo vụ việc
Thẩm quyền xét xử theo vụ việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa tòa
án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất của tội phạm.
1.1.Thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực
(khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003)
Nếu thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu
vực được quy định hợp lý, chặt chẽ thì phần lớn tội phạm xảy ra sẽ được xử lý
kịp thời, phát huy được tác dụng giáo dục, răn đe và góp phần bảo vệ trật tự
xã hội.Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự ở nước ta cho thấy, thẩm quyền của
tòa án nhân dân cấp huyện và của Tòa án quân sự khu vực ngày càng được
mở rộng một cách hợp lý.
Khoản 1 Điều 170 quy định: “1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án
quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau
đây:
a)Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b)Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh ;
c) Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222,
223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322, và 323 của bộ luật hình sự”
Quy định trên cho thấy thẩm quyền xét xử vụ việc của Tòa án nhân dân cấp
huyện quy định tại BLTTHS năm 2003 bao gồm các loại tội phạm có mức
hình phạt có mức phạt cao nhất theo quy định của BLHS 1999 đến 15 năm tù,
trừ những tội phạm quy định tại tội phạm a, b, c Điều 170 BLTTHS. Nghị

quyết tại số 24/2003/ QH11 về việc thi hành BLTTHS năm 2003 đã ghi rõ
tại mục 3: “Kể từ ngày BLTTHS có hiệu lực, những tòa án nhân dân huyện,
3
Bài tập lớn: Luật tố tụng hình sự
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự có đủ điều kiện thực hiện
thì giao thẩm quyền xét xử mới quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS. Những
tòa án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự
khu vực chưa đủ điều kiện thì thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ
án hình sự về tội ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, trừ những tội quy
định điểm a, b và c khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự năm 2003 nhưng chậm
nhất đến ngày 01/7/2009, tất cả các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực thực hiện thống nhất thẩm
quyền mới quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS”
Như vậy thẩm quyền xét xử của tòa án nhân dân cấp huyện đã được tăng
cường, mở rộng. Việc mở rộng thẩm quyền xét xử vụ án cho Tòa án xuất phát
từ những lý do sau:
Thứ nhất, các Thẩm phán ở Tòa án cấp huyện đã được nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ so với trước đây, có khả năng xét xử các vụ án mà
mức phạt cao nhất của khung phạt đối với tội ấy là 15 năm tù trở xuống;
Thứ hai, việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án cấp huyện sẽ
tránh được viêc tồn đọng án ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh, giành thời gian cho
Tòa án cấp tỉnh tập trung giải quyết xét xử các vụ án phức tạp.
Thứ ba, cơ sở vật chất của tòa án cấp huyện đã phần nào được cải thiện
nâng cấp. Số lượng biên chế thẩm phán quy định cũng là lý do giúp cho cán
bộ ngành tòa án cấp huyện có điều kiện làm việc tốt hơn và yên tâm công tác;
Thứ tư, việc mở rộng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện giảm bớt được chi
phí và thời gian tiến hành tố tụng, tránh được việc trì hoãn phiên tòa do lý do
vắng mặt của những người tham gia tố tụng;
Thứ năm, một trong những mục đích của việc xét xử đó là giáo dục quần
chúng nhân dân chấp hành pháp luật và việc xét xử ở Tòa án cấp huyện có thể

thực hiện tốt nhất mục đích này.
1.2.Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án quân sự quân sự
cấp quân khu (khoản 2 Điều 170 BLTTHS 2003)
So với quy định trước đây, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu được quy định trong BLTTHS không
4
Bài tập lớn: Luật tố tụng hình sự
có gì khác nhau. Theo quy định tại khoản 2 Điều 170 –Tòa án nhân dân cấp
tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử hai vụ việc sau:
- Những vụ án hình sự về tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực;
- Những vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới mà mình lấy lên xét xử.
Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể những vụ án nào thuộc thẩm
quyền Tòa án cấp huyện nhưng Tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do đó,
chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và thủ trưởng cơ quan cấp tỉnh
cần căn cứ vào khả năng thực tế của các Thẩm phán, Kiểm sát viên và Điều
tra viên ở cấp huyện mà xác đinh những loại vụ án nào cần lấy lên điều tra,
truy tố và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra, Viện kiểm xát và Tòa án cấp
tỉnh lấy lên và để điều tra, truy tố xét xử các vụ án sau:
- Vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất vụ án
hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành).
- Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, sĩ quân công an, cán bộ lãnh
đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao
trong dân tộc ít người.
2. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ
vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết thúc điều tra. Thông thường, vụ
án hình sự được được xét xử ở tòa án ở tòa án nơi tôi phạm thực hiện.
Hiện nay, BLTTHS năm 2003 quy định tại khoản 1 Điều 171 như sau: Vụ
án hình sự được xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện và nơi kết

thúc điều tra. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác
nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tôi phạm thì Tòa án có thẩm
quyền xét xử nơi xét xử là nơi kết thúc điều tra. Thông tư số 01/2005/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC- BQP- BCA ngày 18/4/2005 của Tòa án nhân dân tối
5
Bài tập lớn: Luật tố tụng hình sự
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng, Bộ công an hướng dẫn
về thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự như sau: Vụ án thuộc thẩm quyền
xét xử của tòa án quân sự cấp nào thì do Tòa án quân sự cấp đó xét xử. Việc
phân định địa bàn trong Quân đội để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự do Bộ quốc phòng quy định cụ thể. Trong hợp không xác định được
nơi thực hiện tội phạm hoặc trường hợp có nhiều tòa án quân sự khác nhau có
thẩm quyền xét xử do vụ án có nhiều người phạm tội thuộc nhiều đơn vị khác
nhau hoặc do người thực hiện tội phạm ở nhiều nơi, nếu viện kiểm sát quân
sự truy tố trước Tòa án quân sự nào thì Tòa án đó có quyền xét xử.
Khoản 2 Điều 171 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định đối với
trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài :
- Nếu bị cáo xét xử ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối
cùng của bị cáo ở trong nước có thẩm quyền xét xử.
- Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước có
thẩm quyền xét xử.
- Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước thì
từng trường hợp được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao
cho Tòa án nhân dân thành phố Hà nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh xét xử .
- Nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Quân sự thì do Tòa án quân
sự quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Tòa án quân sự trung ương.
- Nếu vụ án xảy ra trên tàu bay, tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hoặc hoạt động ở nước ngoài thì Tòa án Việt Nam nơi có sân bay
cảng mà tàu bay, tàu biển đó trở về đầu tiên ở trong nước hoặc nơi tàu bay,

tàu biển được đăng ký có thẩm quyền xét xử.
Điều 172 BLTTHS năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử những tội
phạm xảy ra trên tàu biển ,tàu bay của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đang hoạt động ngoài lãnh hải Việt Nam đang hoạt động không phận
hoặc lãnh hải Việt nam thuộc về Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay, bến cảng
trở về đầu tiên ở trong nước hoặc nơi máy bay, tàu biển được đăng ký.Theo
Luật quốc tế thì tàu bay, tàu biển mang quốc tịch. Vì vậy, tội phạm xảy ra trên
tàu bay đã rời khỏi không phận và lãnh hải của Việt Nam vẫn là tội phạm xảy
6
Bài tập lớn: Luật tố tụng hình sự
ra trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển trong
trường hợp này vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án Việt Nam.
3. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa
Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng
Bộ luật hình sự năm 2003 không có điều luật nào quy định cụ thể đối tượng
nào thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, đối tượng nào thuộc Tòa
án quân sự. Tuy nhiên Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002,
có quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự như sau:
1.Quân nhân tại ngũ, công nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời
gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu với
quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị
quân đội trực tiếp quản lý.
2.Những người không thuộc những quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm
tội liên quan đến bí mật quân sự chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự nếu phạm tội một trong các trường hợp sau:
-Tội phạm mà họ thực hiện có liên quan đến bí mật quân sự
-Tội phạm mà họ thực hiện gây thiệt hại cho quân đội.
Trường hợp trong cùng một vụ án, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm
thuộc thẩm thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự, vừa có người phạm tội

hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, trong trường
hợp này, Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.
Thông tư liên tịch 01/TTLT ngày 18/04/2005 của Tòa án tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ quốc phòng, Bộ công an “Hướng dẫn về
thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự” như sau :
- Quân nhân tại ngũ gồm hạ sĩ quan, hạ sĩ quân và quân nhân chuyên nghiệp
được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, luật sĩ quan quân đội nhân dân
Việt Nam.
- Công chức quốc phòng bao gồm những công dân đang được tuyển dụng
vào phục vụ trong quân đội trực tiếp quản lý theo quy định của pháp luật về
cán bộ, công chức và Luật quân đội nhân dân Việt Nam;
7

×