Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Vai trò, vị trí, chức năng quan trọng của mình trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.88 KB, 8 trang )

A.LỜI MỞ ĐẦU
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị.
Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi (vua, Hoàng đế, Tổng thống, Đoàn Chủ tịch
hội đồng liên bang, Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch nước), vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc
vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nhưng có một điểm chung là đều là người
đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ
quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992, riêng Hiến
pháp năm 1980 Chủ tịch nước tồn tại dưới hình thức là Hội đồng Nhà nước, là một chế định
nguyên thủ quốc gia tập thể.
B. NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN 1: CHẾ ĐỊNH CHỦ TICH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1980
Chủ tịch nước, theo quy định của Hiến pháp năm 1980, nằm trong hệ thống cơ quan
quyền lực Nhà nước ở trung ương với tên gọi là Hội đồng Nhà nước. Hiến pháp năm 1980 đã
“sát nhập” hai chức năng của Ủy ban thường vụ quốc hội với chức năng của Chủ tịch nước là
cá nhân trong Hiến pháp 1959 vào một cơ quan duy nhất là Hội đồng Nhà nước.
a) Vị trí, tính chất, trật tự hình thành của Hội đồng Nhà nước:
Điều 98 Hiến pháp năm 1980 quy định: "Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất, hoạt động
thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam". Điều luật này đã xác định rõ vị trí, tính chất của Hội đồng Nhà nước, chính là nguyên
thủ tập thể của nước ta, đồng thời là cơ quan cao nhất và hoạt động thường xuyên của cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất - Quốc hội. Như vậy Hội đồng Nhà nước vừa là cơ quan thường
trực của Quốc hội vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về trật tự hình thành và cơ cấu tổ chức, được quy định tại Điều 99 Hiến pháp năm 1980: "Hội
đồng Nhà nước, được bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, gồm có:
• Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
• Các Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước,
• Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước,
• Các uỷ viên Hội đồng Nhà nước.
Số Phó Chủ tịch và uỷ viên Hội đồng Nhà nước do Quốc hội định.
Thành viên của Hội đồng Nhà nước không thể đồng thời là thành viên của Hội đồng bộ trưởng"
"Nhiệm kỳ của Hội đồng Nhà nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội.


Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Hội đồng Nhà nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội
khoá mới bầu ra Hội đồng Nhà nước mới."
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Nhà nước:

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Nhà nước được quy định tại Điều 100 Hiến pháp năm
1980, gồm những thẩm quyền sau:
1
"1- Tuyên bố và chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội.
2- Triệu tập các kỳ họp của Quốc hội.
3- Công bố luật.
4- Ra pháp lệnh.
5- Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
6- Quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân.
7- Giám sát công tác của Hội đồng bộ trưởng, của Toà án nhân dân tối cao và của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
8- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết định của
Hội đồng bộ trưởng trái với Hiến pháp, luật và pháp lệnh.
9- Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, nhằm phát huy chức
năng cơ quan đại biểu nhân dân của Hội đồng nhân dân.
10- Sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết không thích đáng của các Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương; giải tán các Hội đồng nói trên trong
trường hợp các Hội đồng đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của nhân dân.
11- Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các bộ, các Uỷ
ban Nhà nước.
12- Trong thời gian Quốc hội không họp, cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng, các bộ trưởng, các chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước.
13- Cử và bãi miễn các Phó Chánh án, thẩm phán và hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân
tối cao; cử và bãi miễn các Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
14- Bổ nhiệm, bãi miễn và triệu hồi các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài và ở các tổ chức quốc tế.

15- Tiếp nhận các đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài.
16- Phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước quốc tế, trừ trường hợp xét thấy cần trình Quốc hội
quyết định.
17- Quy định hàm và cấp quân sự, ngoại giao và những hàm và cấp khác.
18- Quy định và quyết định việc tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự
Nhà nước.
19- Quyết định đặc xá.
20- Trong thời gian Quốc hội không họp, tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm
lược.
21- Quyết định việc tổng động viên hoặc động viên cục bộ, việc giới nghiêm trong toàn quốc
hoặc từng địa phương.
Những quyết định của Hội đồng Nhà nước nói ở các điểm 11, 12 và 20 phải trình Quốc hội phê
chuẩn trong kỳ họp gần nhất của Quốc hội.
Quốc hội có thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy
cần thiết."
Chúng ta có thể nhận thấy một điều, đó là thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước rất rộng, có thể
nói là rộng nhất so với chế định nguyên thủ quốc gia trong các bản Hiến pháp trước đó (1946,
1959) và thậm chí là trong Hiến pháp 1992 sau này, bởi vì Hội đồng Nhà nước giữ hai vị trí
2
vừa là cơ quan thường trực của Quốc hội vừa là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
c) Mối quan hệ giữa Hội đồng Nhà nước với các cơ quan Nhà nước khác
Vấn đề này thực chất được quy định rõ trong thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước.Có
thể nói thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước rất rộng thể hiện ở mối quan hệ của Hội đồng Nhà
nước không chỉ với các cơ quan Nhà nước khác ở Trung ương mà còn vươn tới tận các cơ quan
Nhà nước ở cấp địa phương
Các mối quan hệ gồm có:
. Mối quan hệ giữa Hội đồng Nhà nước với hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước
• Mối quan hệ giữa Hội đồng Nhà nước với hệ thống cơ quan xét xử, kiểm
sát

• Mối quan hệ giữa Hội đồng Nhà nước với hệ thống cơ quan Hành chính
Nhà nước
PHẦN 2: CHẾ ĐỊNH CHỦ TICH NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1992
Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến
pháp mới thay thế Hiến pháp 1980, đó là Hiến pháp năm 1992. Tổ chức bộ máy Nhà nước có
nhiều thay đổi căn bản so với bộ máy Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 1980, trong
đó có chế định Chủ tịch nước.
a) Vị trí, tính chất và trật tự hình thành
Về vị trí, tính chất, "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại" (Điều 101 Hiến pháp năm 1992). Như vậy,
cũng như các Hiến pháp năm 1959 và năm 1980, Chủ tịch nước chỉ đóng vai trò nguyên thủ
quốc gia, người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước ta về đối nội và đối ngoại, chứ không đứng
đầu Chính phủ như chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946.
Về trật tự hình thành, "Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch
nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội".
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch
nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới" (Điều 102
Hiến pháp năm 1992).
Trật tự hình thành của Chủ tịch nước nói lên mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất - Quốc hội.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được Hiến pháp quy định ở Điều 103 (gồm 12 vấn
3
đề), và ở một số điều khoản khác có liên quan (Như Điều 135, Điều 139). Có thể phân chia các
nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm:
• Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt
nước về đối nội và đối ngoại
Chủ tịch nước ở nước ta cũng như hầu hết các nguyên thủ quốc gia đều được quy định
quyền này. Cụ thể là:
- Chủ tịch nước "Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc

mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê
chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định" (Điểm 10
Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
Chủ tịch nước quyết định việc kí kết điều ước với danh nghĩa Nhà nước và những điều ước
quốc tế có điều khoản trái với Luật hoặc Pháp lệnh. Chủ tịch nước trực tiếp đàm phán, kí kết
hoặc uỷ quyền trưởng đoàn đàm phán kí kết. Chủ tịch nước phê chuẩn các điều ước thuộc
quyền quyết định của Chủ tịch nước về điều ước Quốc tế có điều khoản quy định việc phê
chuẩn. Việc xin phê chuẩn điều ước Quốc tế do cơ quan đề xuất việc kí kết phối hợp với Bộ
ngoại giao đề nghị Chính phủ trình Chủ tịch nước, Chủ tịch nước xét và tiến hành phê chuẩn
hoặc trình Quốc hội phê chuẩn.
Và ở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định này được bổ sung thêm đó là:
Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước Quốc tế đã trực tiếp kí.
- Chủ tịch nước "Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc
tước quốc tịch Việt Nam" (Điểm 11 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
- Chủ tịch nước "Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội
đồng quốc phòng và an ninh" (Điểm 2 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
Ở đây có điểm khác Hiến pháp năm 1946. Điều 49 Hiến pháp năm 1946 quy định Chủ tịch
nước "giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc..." ; từ "thống lĩnh" đã được dùng trong các
Hiến pháp năm 1959 và 1980; "thống lĩnh" khác "tổng chỉ huy" ở chỗ "thống lĩnh" không phải
là trực tiếp chỉ huy mà là phụ trách chung. Hội đồng Quốc phòng giúp Chủ tịch nước trong việc
thống lĩnh. Chủ tịch nước thành lập Hội đồng Quốc phòng và trình Quốc hội phê chuẩn.
- Chủ tịch nước "Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân
dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân
chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước" (Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
- Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động
viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương"
(Điểm 6 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
Trong Điều 91, Điểm 10 của Hiến pháp năm 1992 có quy định: Uỷ ban thường vụ Quốc hội
"Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước

hoặc từng địa phương". Vậy hai điểm trên cần được hiểu là: Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết
định tổng động viên... quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp... Chủ tịch nước căn cứ vào Nghị
4
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà ra lệnh tổng động viên, ra lệnh ban bố tình trạng
khẩn cấp.
Trong Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, điểm này được bổ sung thêm: Trong
trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ban bố tình trạng
khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
- Chủ tịch nước "Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá" (Điểm 5 Điều
103 Hiến pháp năm 1992).
- Chủ tịch nước "Quyết định đặc xá" (Điểm 12 Điều 102 Hiến pháp năm 1992).
Ở đây cần làm rõ hai chế định "đặc xá" và "đại xá". Đại xá là việc tha miễn truy tố đối với một
số loại tội nhân một dịp long trọng nào đó. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công
bố. Còn đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt tù còn lại đối với những phạm
nhân có hoàn cảnh đặc biệt như: ốm đau nặng, già cả, có công lao hoặc có hoàn cảnh gia đình
quá khó khăn... Việc đặc xá này thường được thực hiện nhân dịp lễ tết và hay kết hợp với việc
tha tù trước thời hạn và giảm án.
• Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế
quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp:
Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có quyền:
- Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật
mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 62 luật tổ chức Quốc hội).
- "Công bố Hiến pháp, luật và pháp lệnh" (Điểm 1 Điều 103). Việc công bố các văn bản này là
một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch
nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua (Điều
50 Luật ban hành văn bả quy phạm pháp luật, Điều 91 Luật tổ chức Quốc hội sửa đổi năm
2001). Văn bản có hiệu lực kể từ khi công bố hoặc theo quy định tại văn bản. Đối với pháp
lệnh do Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn mười
lăm ngày kể từ ngày được thông qua. "Chủ tịch nước có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc

hội xem xét lại pháp lệnh trong thời hạn 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Uỷ ban thường
vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình
Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất" (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp năm 1992 đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2001). Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là mười ngày kể từ
ngày được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định
(Điều 49 và Điều 52 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).
Việc quy định cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp
lệnh đã được thông qua được nhiều người coi giống như quyền phủ quyết của nguyên thủ quốc
gia một số nước. Tuy nhiên, về bản chất không hẳn là như vậy. Quyền phủ quyết thường nảy
sinh trong cơ chế Nhà nước có sự kiềm chế và đối trọng quyền lực (cơ chế phân quyền), còn ở
nước ta giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là thống nhất không có
sự đối trọng nên không có vấn đề phủ quyết lẫn nhau ở đây. Thực chất vấn đề là ở chỗ, do Hiến
pháp quy định cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội được ban hành pháp lệnh - một loại văn bản có
5

×