Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP-MỘT SỐ NÉT KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ VÀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.5 KB, 15 trang )

MỘT SỐ NÉT KHÁC BIỆT CƠ BẢN GIỮA
NGÔN NGỮ BÁO CHÍ VÀ NGÔN NGỮ VĂN
HỌC

Nhà phê bình văn học thiên tài người Nga V.G. Bêlinski, khi phân tích
cuốn “Ai có lỗi? ” - một tập sách chính luận nổi tiếng của nhà văn, nhà tư
tưởng lỗi lạc Herxen, đã viết như sau:
"Sức mạnh chủ yếu của tác giả không phải ở trong sự sáng tạo, trong
tính nghệ thuật, mà ở tư tưởng - một tư tưởng được cảm nhận sâu sắc, mang
tính ý thức và phát triển cao. Tầm vóc lớn của tư tưởng đó chính là sức
mạnh cơ bản của tài năng tác giả ,còn phong cách nắm bắt các hiện tượng
thực tiễn theo kiểu nghệ thuật - chỉ là sức mạnh thứ yếu, mang tính bổ trợ
của tài năng của ông ta”
1
.
Những dòng chữ ngắn gọn này của Bêlinski, dù chỉ ở mức độ khái quát
nhất, đã khắc hoạ khá rõ sự khác biệt về phong cách biểu hiện trong báo chí
và văn học nghệ thuật.
Ai cũng biết rằng báo chí và văn học nghệ thuật đều dùng ngôn từ như
là thành tố số một trong việc xây dựng tác phẩm. Nhưng tính chất, đặc điểm
và cách thức sử dụng ngôn từ ở chúng lại khác xa nhau. Nguyên do là bởi
báo chí và văn học là hai hình thái ý thức xã hội hoàn toàn biệt lập đối với
nhau.
Văn học có chức năng cơ bản là chức năng thẩm mỹ. Nó phản ánh
thực tế bằng những hình tượng nghệ thuật vốn thoát thai từ cuộc sống nhưng
lại in đậm dấu ấn riêng về quan niệm thẩm mỹ của tác giả. Nhà văn tiếp cận
thực tiễn bằng cách miêu tả cái cụ thể, cái cá nhân (các tính cách cá thể
trong hoàn cảnh cá thể), để rồi từ đó tạo dựng nên những hình ảnh điển hình
(những tính cách điển hình trong các hoàn cảnh điển hình).
Còn báo chí có chức năng chủ yếu là thông tin. Nó phản ánh hiện thực
thông qua việc đề cập các sư kiện nóng hổi, những vấn đề bức xúc có thực


của ngày hôm nay đang được đông đảo công chúng quan tâm, chờ đợi. Nhà
báo tiếp cận thực tiễn bằng cách khảo sát những cái chung, cái phổ biến của
các nhóm người (thậm chí của các giai tầng xã hội) có liên quan rồi trên cơ
sở ấy khám phá ra bản chất của sư việc, hiện tượng.
Chính các chức năng không giống nhau của văn học và báo chí đã
khiến cho phong cách biểu hiện về ngôn ngữ của chúng có một số nét khác
biệt cơ bản dưới đây:
1. Khác biệt về sự đánh giá
Sự đánh giá ở đây được hiểu là việc thể hiện thái độ, tình cảm của
người viết đối với những điều được phản ánh trong tác phẩm. Trong văn học
và trong báo chí, sự đánh giá khác nhau trước hết về phương tiện và cách
thức biểu đạt.
Đối với văn chương, phạm trù đánh giá thường được bộc lộ dưới các
hình ảnh tràn đầy cảm xúc. Đó có thể là những hình ảnh gợi nỗi buồn tê tái,
mà ẩn sâu trong chúng là cái nhìn tiêu cực tràn đầy u uẩn, tuyệt vọng về thời
cuộc:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới-mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
(Xuân Diệu)
Hoặc đó cũng có thể là những hình ảnh bi thương hàm chứa sức tố cáo
mạnh mẽ:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.
(Nguyễn Đình Thi)
v.v.
Còn trong báo chí, hoạt động đánh giá mang tính công khai, mạnh mẽ,
bao trùm.Trong quy trình sáng tạo của mình, báo chí liên tục tìm kiếm các
phương tiện biểu đạt giàu sắc thái đánh giá. Chính vì thế, kho tàng các

phương tiện đánh giá của nó phong phú và đa dạng hơn nhiều so với văn học
.Trong ngôn ngữ báo chí, chúng ta có thể gặp những nhóm từ vựng chuyên
biệt chỉ phục vụ cho việc đánh giá (những nhóm từ kiểu này thường được
xem là của riêng văn phong báo chí, còn nếu chúng xuất hiện ở các văn
phong khác thì đó là kết quả của sự vay mượn). Chẳng hạn, để thể hiện sự
đánh giá tích cực, người ta lựa chọn những từ ngữ như: có nhiều triển vọng,
tín hiệu đáng mừng, chuyển biến tích cực, hợp tác hiệu quả, thành tựu nổi
bật, bàn thắng thuyết phục ; còn nếu muốn biểu lộ sự đánh giá tiêu cực,
người ta có thể lựa chọn các từ như: tiếp tay, câu kết, ngóc đầu, rùm beng,
trả đũa, dính líu Bên cạnh đó, để phục vụ cho mục đích đánh giá, báo chí
còn sử dụng cả nhiều nhóm từ vựng khác như từ ngữ thông tục, từ ngữ hội
thoại, từ ngữ vay mượn từ tiếng nước ngoài, tiếng lóng, v,v.
2
Rồi về mặt cú
pháp, ngôn ngữ báo chí cũng dùng một số kiểu câu có cấu tạo đặc biệt,ví dụ:
- Câu có đề ngữ: “Hà Nội: Còn đâu những khu phố cổ” (Lao động);
“Lũ đồng bằng sông Cửu Long: Sao chưa đến hẹn đã lên? ” (Báo An
Giang); “Ma tuý: Quằn quại những nẻo về” (Thương mại); “Bạn đọc trẻ:
Bâng khuâng đứng giữa ; Bạn viết trẻ :Những kẻ theo nghề bỏ cuộc chơi ”
(Sinh viên Việt Nam), v.v.
- Câu được đảo ngữ: “Nổi nênh nghiệp rối ” (Văn nghệ trẻ); “ Lặng lẽ
quá liên hoan phim ” (Văn hoá); “Sôi nổi các cuộc tuyển quân” (Nhân
dân); “Nhộn nhịp đường lên biên giới “ (Lao động)
Với những kiểu câu trên, thái độ của tác giả đối với sư kiện hay vấn
đề trở nên rõ ràng và ấn tượng hơn.
Song, có lẽ trong số các thủ pháp nhằm tạo sắc thái đánh giá cho ngôn
ngữ báo chí, nổi bật nhất vẫn là việc sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ,
hoán dụ, so sánh, chơi chữ, nói lái, v.v., trong đó không thể không kể đến ẩn
dụ như một phương tiện đánh giá có tầm quan trọng đặc biệt bởi tính phổ
cập rộng rãi và tính hiệu quả cao của nó.

Ẩn dụ báo chí đặt ra mục đích hàng đầu không phải là tạo hình tượng
mà là đem lại hiệu quả đánh giá: khẳng định hay là phủ định (với các biểu
hiện cụ thể như: sự hứng khởi, sự long trọng, niềm đam mê ,về một phía;
và sự lên án, sự chế nhạo, sự khinh miệt , về một phía khác). Chính vì lẽ đó
mà cả nguồn gốc, cả đối tượng của ẩn dụ báo chí đều có những đặc trưng
riêng rõ nét. Như là nguyên tắc, tham dự vào quá trình ẩn dụ hoá thường là
những khái niệm được xem là quan trọng hơn cả về mọi phương diện như tư
tưởng, chính trị, kinh tế , ví dụ: kim chỉ nam, hòn đá tảng, ánh sáng chỉ
đường, vàng trắng, vàng đen, vựa lúa, bội thu, chảy máu chất xám, căn bệnh
tham nhũng Tương tự, nguồn gốc của ẩn dụ cũng thường được lấy từ các
lĩnh vực có uy tín xã hội cao, được nhiều người quan tâm, và chỉ cần đề cập
tới chúng đã tạo nên các hiệu quả đánh giá (chẳng hạn với các thuật ngữ
như: viêm, căn bệnh, thẻ vàng, thẻ đỏ, phục kích, dọn đường, quả bom nổ
chậm, bắn, oanh tạc, đầu ra, đầu vào, v.v, nếu đưa vào các ngữ cảnh nhất
định của giao tiếp báo chí sẽ trở thành các ẩn dụ rất sinh động, đậm chất
bình giá).
Dưới đây là một số ví dụ khá điển hình về ẩn dụ báo chí:
- Ở VCK World Cup 2002 tới đây đương nhiên sẽ có các tiền đạo đi
bóng ngoằn ngoèo và các "tiều phu" của các hàng phòng ngự sẽ tìm cách
đốn gục. Khi ấy, "cầu thủ thứ 23" sẽ phải rất cẩn thận mà huýt còi, kẻo huýt
sai sẽ khốn khổ với búa rìu dư luận (Thiếu niên tiền phong, số 59 / 2002);
- Ngay trong 10 phút đầu tiên của trận đấu, những cơn lốc màu da
cam đã nhiều phen khiến cho khung thành đội tuyển Pháp chao đảo. (Lao
động);
- Họ cần phải liên kết lại để xây đập ngăn chặn Lepen và phe cực hữu
nắm quyền lãnh đạo nước Pháp (Hà Nội mới, 16 / 5 / 2002);
- Cơn sốt giá gas đến bao giờ mới hạ? (Thanh niên );
- Đồng euro gây sóng gió tại Pháp ( Lao động, 24 / 5 /2001)
Khảo cứu cho thấy, các ẩn dụ báo chí thường là sản phẩm sáng tạo
của cá nhân nên hay mang tính ngẫu hứng chủ quan và gắn liền với ngữ

cảnh hẹp. Nếu bị tách ra khỏi ngữ cảnh đó chúng chỉ còn là những từ ngữ
thông thường biểu đạt các ý nghĩa thông thường mà không còn mang sắc
thái biểu cảm - đánh giá nữa.
Nếu so với ẩn dụ báo chí, ẩn dụ trong văn học nghệ thuật trước hết là các
hình tượng, ví dụ:
Phượng những tiếc cao, diều hay liệng
Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi.
(Nguyễn Trãi)
-Rằng: Trong ngọc đá vàng thau
Mười phân ta đã tin nhau cả mười
(Nguyễn Du)
Nghe rào rạt mười bốn triệu miền Nam đang tỉnh giấc
Không! Ba mươi triệu kim cương của thiên hà Tổ quốc
Không ! Hàng nghìn triệu ngôi sao sáng anh em đang
chiếm lĩnh bầu trời
(Chế Lan Viên)
Ẩn dụ trong văn học thường phản ánh cách nhìn của tập thể, xuất phát từ
kiến thức chung của tập thể cho nên chúng mang tính khách quan. Và ở mức
độ nào đó, cả tính tất yếu. Chẳng hạn những sự vật như hoa, vàng, ngọc, kim
cương, v.v., trong nhận thức chung của xã hội là những thứ tốt đẹp, cao quý,
vì thế chúng được dùng làm ẩn dụ tu từ để chỉ cái tốt đẹp, cao quý.
Ẩn dụ trong văn học liên quan tới mọi lĩnh vực và mọi đối tượng (chứ
không chỉ dành cho một địa hạt hay một nhóm đối tượng được "ưu tiên" nào
đó như trong báo chí ). Môi trường hành chức của chúng thường là ngữ cảnh
lớn, không hiếm khi là toàn bộ tác phẩm như một chỉnh thể nguyên vẹn. Nếu
chúng ta đã từng đọc “Thép đã tôi thế đấy” (N. Ôtxtrôpxki), “Đôi mắt”
(Nam Cao), “Cái lạt ” (Vũ Thị Thường) chắc hẳn đều nhận thấy rằng chỉ có
thể hiểu được một cách đầy đủ ý nghĩa ẩn dụ của các từ “thép”, “tôi”, “đôi
mắt”, “cái lạt” trong đầu đề của các tác phẩm này sau khi đã đọc xong
chúng. “Thép đã tôi thế đấy” hoàn toàn không viết về chuyện luyện gang

thép mà miêu tả chặng đường đấu tranh gian khổ, sự tôi luyện “chất thép”
của thế hệ trẻ Xô Viết anh hùng trong chiến đấu và lao động, trong lò lửa
của cách mạng. " Đôi mắt " không phải là chuyện kể về đôi mắt của một con
người cụ thể nào mà là sự thể hiện quan niệm sống và sáng tác của người
nghệ sĩ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Còn “Cái lạt” được dùng theo
nghĩa hình tượng, nghĩa bổ sung (lạt mềm buộc chặt); đó chính là những thứ
ơn huệ có khả năng trói buộc người ta, làm cho người ta dễ bị sa vào lối
sống “dĩ hoà vi quý”, không còn can đảm đấu tranh với cái xấu, cái tiêu cực
3
.
Qua phân tích các ví dụ có thể nói, ẩn dụ trong văn học không nhất
thiết phải mang sắc thái đánh giá tích cực hay tiêu cực rõ nét như ẩn dụ báo
chí vì nhiệm vụ quan trọng nhất mà chúng phải hoàn thành là tạo hình
tượng.
Không chỉ khác nhau về cách thức và phương tiện biểu đạt, sự đánh
giá trong ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học còn khác nhau cả về tính
chất quan hệ của chủ thể sáng tạo đối với chính sự đánh giá ấy.
Sư đánh giá trong ngôn ngữ báo chí, cho dù nó được biểu hiện qua ẩn
dụ hay bất kì phương tiện nào khác, luôn mang tính xã hội sâu sắc. Vì theo
quan niệm của chủ thể phát ngôn, ý nghĩa xã hội của ngôn từ trong ngôn ngữ
báo chí thể hiện ở chỗ nó không chỉ thuộc về riêng tác giả mà còn thuộc về
cả một nhóm xã hội, tổ chức, liên minh, đảng phái, giai cấp mà có tư tưởng,
đường lối, chính sách được tờ báo truyền bá với tư cách “nhà tuyên truyền
và cổ động tập thể”. Bất kì một từ ngữ báo chí nào dường như cũng được
“thiêng liêng hoá” nhờ uy tín của tập thể (đảng phái hay liên minh) là cơ
quan xuất bản hay biên tập ấn phẩm báo chí . Đây chính là một trong những
cội nguồn của sức mạnh và sự xác đáng của ngôn từ trên trang báo.
Còn sự đánh giá trong ngôn ngữ văn học luôn gắn liền với chủ thể
sáng tạo ra tác phẩm, nghĩa là nó mang tính cá thể rõ nét. Vì lao động nhà
văn là lao động đơn lẻ, và cũng chỉ có anh ta là người phải chịu trách nhiệm

về sản phẩm của mình. Ngay cả trong trường hợp nhà văn đứng trên lập
trường của một nhóm hay một tổ chức xã hội nào đó thì cũng không thể coi
tác phẩm của anh ta là tiếng nói chính thức của nhóm hay tổ chức xã hội ấy.
2. Khác biệt về vai trò cái tôi tác giả
Như chúng ta đều biết, trong hoạt động giao tiếp lời nói nào cũng là
sản phẩm của người phát hướng về người nhận với mục đích nhất định. Vì
thế việc phân tích lời nói còn có thể tiến hành từ các góc độ của hai loại đối
tượng này.
Nếu so sánh các phong cách của người phát (tức là “cái tôi” tác giả)
trong ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học ta sẽ thấy chúng có nhiều điểm
khác biệt quan trọng.
Nguyên tắc cơ bản của ngôn ngữ báo chí, đồng thời cũng là cơ sở và
đặc điểm cấu trúc của nó là sự công khai, sự biểu đạt trực tiếp và thẳng thắn
“cái tôi” của tác giả. Đây có thể xem là nét khác biệt khá nổi bật giữa báo
chí và văn học, là nơi tác giả không bao giờ giao tiếp trực diện với độc giả.
Trong phong cách báo chí, “cái tôi” đích thực của tác giả luôn đàm thoại
trực tiếp với độc giả. Ở đây, mọi sự đánh giá, mọi niềm xúc cảm đều của
chính “cái tôi” này, (tất nhiên, suy cho cùng, thì những sự đánh giá, những
niềm cảm xúc ấy sẽ phải mang tính xã hội, vì tác giả của tác phẩm báo chí
bao giờ cũng đại diện cho một nhóm xã hội, một tổ chức đảng hay một giai
cấp; thế nhưng trước hết chúng vẫn phải đích thực là của chính tác giả, là
sản phẩm của trái tim và khối óc của anh ta, bởi nếu không, anh ta chỉ là
công cụ phát ngôn cho kẻ khác và không thể nào chinh phục được độc giả).
Do vậy kết cấu về ngôn từ trong báo chí thường in đậm chất xúc cảm cá
nhân. Dĩ nhiên, trong các thể loại khác nhau thì mức độ tham dự của “cái
tôi" tác giả cũng khác nhau. Có những loại thể báo chí mà ở đó chúng ta hầu
như không thấy sự hiện diện của tính cá thể (như thông báo tin tức, tin vắn,
tin thời sự, ).Thế nhưng nói chung, vai trò của “cái tôi” tác giả trong việc
hình thành kết cấu ngôn ngữ báo chí đáng kể tới mức có thể coi nó là cơ sở
để phân loại các tác phẩm báo chí.

Trong khi đó thì ngôn ngữ văn học lại thiên về tính ước lệ. Cái thế giới
do nhà văn sáng tạo nên là thế giới tưởng tượng, thế giới được cải biến và
đầy chất ước lệ. Tác giả, như là nguyên tắc, không đưa ra những lời đánh giá
trưc tiếp, thẳng thắn đối với các nhân vật cũng như đối với ngôn từ và các
hành vi của họ. Anh ta cứ từ từ đưa độc giả tới những đánh giá mà anh ta
chờ đợi một cách gián tiếp. Sự can thiệp trực tiếp của tác giả vào văn bản,
mặc dù là có thể, nhưng không điển hình cho phong cách văn học nghệ
thuật. Nó có thể là một thủ pháp cố ý (và độc giả dễ dàng nhận thấy điều
đó), hoặc giả là biểu hiện của sư non yếu về bút pháp của tác giả. Tác phẩm
báo chí luôn cảm thấy mình khác lạ, “khó ở” nếu phải khoác cái áo của văn
xuôi nghệ thuật.
Ngôn ngữ báo chí hoàn toàn không có tính ước lệ vốn đặc trưng cho văn
xuôi nghệ thuật. Trong phong cách chức năng này, “cái tôi” tác giả thường
thể hiện công khai (mức độ công khai ấy, như đã nói ở trên, đương nhiên
còn phụ thuộc vào thể loại và giọng điệu trần thuật), nó không tách ra khỏi
độc giả, không bị khách quan hoá như trong văn học nghệ thuật là nơi nhân
vật phải sống một cuộc sống độc lập, không dính líu tới tác giả. Vì lẽ đó mà
trong báo chí, tính cá nhân cũng như cái nét riêng biệt của tác giả cùng sự
phong phú về tư tưởng và tình cảm của anh ta có ý nghĩa hết sức to lớn.
Có thể nói, chính vị thế của tác giả xác định sự khác biệt cốt lõi, mang
tính nguyên tắc, giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí. Ngôn ngữ báo
chí đậm chất của chủ quan, giàu tính đánh giá (định danh và đánh giá), nó
thường đơn diện, đơn thanh, còn ngôn ngữ văn học thường bị khách quan
hoá, đa diện, đa thanh.
Trong văn học nghệ thuật có thể xảy ra sự đan xen một số tầng ngôn
ngữ: ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ các nhân vật;
chúng tác động tương hỗ lẫn nhau một cách phức tạp, đa dạng và tạo nên
một phông ngôn từ phong phú , nhiều sắc màu xét trên phương diện phong
cách.
Còn trong báo chí chủ thể đích thực của lời nói lại thường trùng với “cái

tôi” của tác giả. Vì thế trong ngôn ngữ báo chí chúng ta hầu như chỉ bắt gặp
một tầng phong cách, đó là lời nói của tác giả, còn lời nói đích thực của nhân
vật rất ít khi xuất hiện trừ một số ít loại thể trên phát thanh và truyền hình.
Thế nhưng tính đơn diện, đơn thanh của ngôn ngữ báo chí tuyệt đối
không phải là dấu hiệu của sư nghèo nàn. Ngược lại, chính trong đặc điểm
này đã bộc lộ nét đặc thù không trộn lẫn của nó: tính biểu cảm và khả năng
tác động. Và cũng chính nhờ đặc điểm nói trên mà phong cách báo chí đã
được sử dụng trong văn học nghệ thuật. Việc sử dụng ấy gắn liền với sự thể
hiện một cách trưc tiếp, không giấu giếm quan điểm của tác giả. Phong cách
báo trong trường hợp này là hình thức đặc biệt về đưa tư liệu, là nguyên lý
đặc biệt của việc xây dựng hình ảnh tác giả, nó mở đường cho sự can thiệp
trực tiếp của giọng điệu tác giả cũng như tạo điều kiện cho sự xuất hiện các
suy luận của anh ta.
Nếu như với văn học nghệ thuật, sự can thiệp trực tiếp của tác giả vào
diễn biến các sư kiện được phản ánh thường được xem như là sư lệch chuẩn
hoặc là một thủ pháp cố ý (ngoài lề báo chí-chính luận), thì đối với phong
cách báo chí - đây là quy luật tất yếu, là đặc điểm cơ bản của cấu trúc lời nói
vốn làm nên đặc thù, sức mạnh cũng như sự biểu cảm của nó. Dù chủ thể
sáng tạo của tác phẩm báo chí có nói về điều gì đi chăng nữa, thì trong cấu
trúc ngôn từ của nó anh ta phải thể hiện trực tiếp “giọng điệu”, những đánh
giá, cảm xúc, diễn biến tư tưởng, sự say mê, sự bức xúc của mình trước đề
tài và đối tượng mà bài viết đề cập. Và thực tế cho thấy là chất báo chí luôn
tỏ ra tỉ lệ thuận một cách trực tiếp với cảm xúc và thái độ của tác giả trước
điều anh ta phản ánh. Có thể nói, chính sự công khai, thẳng thắn và tích cực
trong quan điểm của tác giả đã làm cho báo chí (nhất là chính luận) trở thành
phương tiện tác động có sức mạnh ghê gớm, nhiều khi vượt qua cả sức mạnh
của văn học nghệ thuật.
Nói tóm lại, trong phong cách văn học nghệ thuật, “cái tôi” tác giả luôn
lẩn khuất, không lộ diện, còn “cái tôi” xuất hiện chỉ là hình tượng nghệ thuật
- “cái tôi” thẩm mỹ của nhân vật là người dẫn chuyện; trong khi đó thì ở

phong cách báo chí "cái tôi" tác giả bao giờ cũng được biểu đạt công khai,
trực tiếp, và do vậy, nó trở thành nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc thuyết phục độc giả tin vào tính xác thực của thông tin.
3. Khác biệt về tính chất khuôn mẫu

Khi nói về các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, không thể nào không đề
cập tới tính khuôn mẫu khó trộn lẫn của nó. Theo nhà nghiên cứu hàng đầu
của Nga hiện nay về ngôn ngữ báo chí M. Shostac thì khuynh hướng thiên
về việc lựa chọn các phương tiện ngữ pháp, rồi các điều kiện văn hoá - xã
hội đặc biệt mà tờ báo đang tồn tại trong đó (chẳng hạn như phải dành cho
một lượng độc giả đông tới mức không xác định được, và đồng thời phải
thích ứng với những thói quen, những phong cách sử dụng ngôn từ đa dạng
nhất của mọi tầng lớp trong xã hội) đã khiến cho các kiểu thông tin cơ bản
thường gặp của báo chí như phỏng vấn, tin vắn được xây dựng theo những
hình mẫu có sẵn, được chế định bởi những khuôn ngôn từ hình thành trong
quá trình sản xuất tờ báo.
4
Dưới đây là một số khuôn thường được dùng để viết các mẩu tin:
- Ngày Bộ Ngoại giao Nga đã ra tuyên bố bác bỏ tin nói rằng
-TTXVN. Ngày tại Thủ tướng Chính phủ đã kêu gọi
-Hôm qua tại đã khai mạc
-Theo các nguồn tin trong cuộc gặp Tổng thống đã khẳng định
Đúng là báo chí không thể thiếu khuôn mẫu, nhưng sẽ là sai lầm nếu
cho rằng sự rập khuôn chỉ xảy ra trong địa hạt của ngôn ngữ báo chí. Cần
phải khẳng định: hiện tượng này có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của
ngôn ngữ nói chung. Tạo ra khuôn mẫu về ngôn từ, hay nói cách khác, xây
dựng các công thức ngôn từ có sẵn, nhằm làm cho hoạt động giao tiếp trở
nên nhanh chóng, thuận tiện hơn là một quá trình tự nhiên, khách quan, phù
hợp với xu thế phát triển của xã hội cũng như của ngôn ngữ. Thực tế cho
thấy là tính uyển chuyển, linh hoạt và phát triển cao của ngôn ngữ văn hoá

(ngôn ngữ chuẩn mực) được xác định chủ yếu là bằng mức độ qui chuẩn nó,
tức là bằng số lượng nhiều hay ít các công thức, các khuôn mẫu dành cho
các tình huống giao tiếp với các mục đích khác nhau. Nếu thiếu vắng những
cái khuôn như vậy, hoạt động giao tiếp sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều, nó
buộc người ta phải tự tạo ra những lối nói, những công thức ngôn từ cho
từng điều kiện giao tiếp cụ thể, mà điều này là bằng chứng không thể phủ
nhận về sự chưa hoàn chỉnh của các phong cách ngôn ngữ.
Rập khuôn phản ánh cái xu hướng có bề sâu trong ngôn ngữ là tự
động hoá, lặp lại, và ổn định các phương tiện biểu đạt, nhằm tạo ra một
phương thức định danh và đánh giá quen thuộc và bền vững về mặt xã hội.
Những điều kiện bên ngoài thúc đẩy sự rập khuôn hoá ngôn ngữ báo
chí là tính chất tức thời của hoạt động báo chí, sự lặp lại thường xuyên và
tính định kỳ của các đề tài, tình huống, v.v. Đặc trưng của sự rập khuôn hoá
ngôn ngữ báo chí trước hết nằm trong tính đánh giá xã hội của nó. Chính
nguyên tắc đánh giá (vốn được xem là cơ bản trong phong cách báo chí -
chính luận) đã qui định không chỉ phương hướng mà còn cả tính chất sự rập
khuôn hoá lời nói trong ngôn ngữ báo chí. Khảo cứu cho thấy, tuyệt đại đa
số các khuôn mẫu (từ, ngữ, kiểu nói ) đều mang sắc thái đánh giá: hoặc là
tích cực, hoặc là tiêu cực. Ví dụ, một bên là: với lòng nhiệt tình cháy bỏng,
tích cực thi đua, khơi dậy phong trào, đánh dấu những cái mốc mới, gánh
vác những trách nhiệm cao cả, v, v; còn một bên là: với sự phẫn nộ sâu sắc,
phải trả giá đắt, thất bại ê chề, cực lực lên án, v.v. Còn các khuôn mẫu
không mang sắc thái đánh giá chỉ chiếm một dung lượng rất nhỏ; đó là các
từ, ngữ thuộc về kiểu thông tin chính thức hay các tin vắn như: theo thông
báo, trong không khí, theo nguồn tin, dẫn lời, v.v.
Ngôn ngữ văn học cũng không hề xa lạ đối với tính khuôn mẫu.
Nhưng tính chất và phương hướng của sự rập khuôn ở đó bị chi phối trước
hết bởi một hoàn cảnh là: Ngôn ngữ của văn học nghệ thuật kỳ vọng vào sự
tiếp nhận của mỗi cá nhân và xuất phát từ sự sản xuất ngôn từ cũng mang
tính cá nhân. Cả báo chí, cả văn học đều hướng về độc giả đại chúng, nhưng

báo chí thì hướng về quần chúng (hoặc các nhóm xã hội, các giai cấp biệt
lập nào đó) nói chung. Còn văn học lại hướng tới từng độc giả cụ thể, và qua
anh ta, tới tất cả mọi người. Tính cá thể hoá ngôn ngữ (cả về phương diện
người phát, cả về phương diện người nhận), rồi sự cụ thể hoá theo kiểu hình
tượng nghệ thuật đã tạo nên phẩm chất đặc thù riêng của văn chương nghệ
thuật. Nhưng tính cá thể hoá ngôn ngữ lại hoàn toàn không loại trừ sự rập
khuôn hoá, chỉ có điều sự rập khuôn ở đây phải tiếp nhận một hình thái phức
tạp hơn. Dễ dàng nhận thấy, trong ngôn ngữ văn học nghệ thuật cái bị rập
khuôn hoá không phải là hình thức ngôn từ, mà là thủ pháp, phương thức,
phong cách diễn đạt. Tính cá thể hoá (tức là không rập khuôn) đạt được là
nhờ sự phục hồi, thay đổi các khuôn mẫu, bằng sự cải biến chúng một cách
mạnh dạn và sáng tạo. Mặc dù khuôn mẫu trong ngôn ngữ văn học không rõ
nét như trong ngôn ngữ báo chí, nhưng nó vẫn là phần cốt lõi của toàn bộ
phông ngôn từ. Mỗi nhà văn tài năng, khi xây dựng một phong cách riêng
của mình (gồm tổng thể các thủ pháp, các phương thức sử dụng ngôn từ) về
thực chất, đã tạo nên một hệ thống các khuôn mẫu cá nhân (dành cho riêng
mình), mà sau đó, chúng có thể trở thành khuôn mẫu cho người khác nếu
nằm dưới ngòi bút của những người mô phỏng, bắt chước thiếu sáng tạo.
Trong văn học Việt Nam có không ít những khuôn mẫu về sử dụng ngôn
từ của cá nhân đáng được lưu danh hậu thế. Đó là khuôn mẫu Hồ Xuân
Hương, thể hiện trong việc khai thác những từ tượng thanh, tượng hình “lắt
léo” và ấn tượng, những cách nói lái, chơi chữ tài tình. Đó là khuôn mẫu Tú
Xương, nằm ở sự vận dụng những nghĩa gốc, nghĩa đen, nghĩa chính xác
nhất của ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày. Đó là khuôn mẫu Tố Hữu, gắn liền
với việc dùng những hình ảnh tượng trưng vừa hiện thưc lại vừa lãng mạn.
Đó là khuôn mẫu Chế Lan Viên, hình thành từ sự hay dùng khả năng diễn
đạt của nhiều tầng nghĩa sâu xa của ngôn từ. Và còn nhiều nữa, những
khuôn mẫu của Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Tuân
Như vậy sự rập khuôn trong ngôn ngữ báo chí có khuynh hướng đánh
giá và giao tiếp toàn xã hội, còn sự rập khuôn trong ngôn ngữ văn học nghệ

thuật chỉ mang tính giao tiếp cá nhân. Một tờ báo, trong không ít các thể loại
bài của mình, công khai định hướng vào các khuôn mẫu có tính chất tuyên
truyền, cổ động, đánh giá, được kỳ vọng là sẽ còn lặp lại nhiều lần (tái sử
dụng) và có sức tác động lớn tới cảm xúc. Khuôn mẫu của ngôn ngữ văn học
trong trường hợp lý tưởng chỉ dành cho một lần sử dụng và thời gian tồn tại
của nó so với khuôn mẫu báo chí ngắn hơn nhiều, chịu sự “hao mòn vô
hình” nhanh hơn. Có lẽ đây chính là lý do khiến cho khuôn mẫu báo chí dễ
bị nhận biết hơn và có vai trò nổi bật hơn trong việc xây dựng tác phẩm.


Như vậy là chúng ta đã điểm qua một số nét khác biệt cơ bản giữa
ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học ở ba phương diện: sự đánh giá, vai
trò “cái tôi” tác giả và tính khuôn mẫu. Việc chỉ ra những nét khác biệt như
vậy xuất phát từ mục đích góp phần khảng định vị thế độc lập của báo chí và
văn học với tư cách là những loại hình sáng tạo có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với cuộc sống con người; đồng thời giúp cho các chủ thể sáng tạo,
khi viết tác phẩm, nhận thức được rõ ràng và chuẩn xác hơn cái phong cách
ngôn ngữ mà mình đang thể hiện, để rồi từ đó, sử dụng ngôn từ một cách
chủ động và có hiệu quả. Tuy nhiên, do đây là vấn đề còn mới mẻ cho nên
những điều chúng tôi trình bày ở trên, vốn mới chỉ là kết quả của những
khảo sát bước đầu, chắc chắn còn nhiều khía cạnh cần được chỉnh lý, bổ
sung.

×