48 Tạp chí luật học
nghiên cứu - trao đổi
Những khác biệt cơ bản
giữa hai lĩnh vực của sở hữu trí tuệ
Ths. Kiều Thanh *
ần đây, trong xu hớng toàn cầu hoá,
vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ trên thế giới
nói chung có tầm quan trọng đặc biệt. Nó gần
nh đ trở thành một trong những yếu tố cơ
bản để xác lập mối quan hệ đa phơng hoặc
song phơng giữa các quốc gia trong lĩnh vực
kinh tế, thơng mại. ở Việt Nam nói riêng,
theo xu hớng tất yếu của tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, khung pháp lí về bảo hộ sở
hữu trí tuệ cũng đang ngày càng đợc hoàn
thiện. Đó là những quy định của Bộ luật dân
sự (BLDS) tại Phần thứ sáu - Quyền sở hữu trí
tuệ và chuyển giao công nghệ, với dung
lợng điều luật khá lớn (từ Điều 745 đến
Điều 825) cùng nhiều văn bản hớng dẫn thi
hành BLDS của các cơ quan nhà nớc có
thẩm quyền.
Sở hữu trí tuệ bao gồm hai bộ phận là
quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp;
giữa chúng có nhiều điểm tơng đồng về tính
chất của đối tợng sở hữu, về việc chủ thể
sáng tạo đợc hởng các quyền nhân thân và
quyền tài sản theo quy định của pháp luật, về
quyền sử dụng đối tợng mang tính chất
thơng mại, về việc giới hạn thời gian bảo
hộ Tuy nhiên, giữa chúng cũng có những
khác biệt nhất định. Trong phạm vi bài viết
này, tác giả chỉ đề cập những điểm khác biệt
cơ bản nhất giữa quyền tác giả và quyền sở
hữu công nghiệp.
Trớc hết, nếu xét về lịch sử sáng tạo thì
việc con ngời tạo ra tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học có bề dày lâu đời hơn so với
việc con ngời tạo ra đối tợng sở hữu công
nghiệp nh sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
nhn hiệu hàng hoá Điều này có thể dễ
dàng đợc lí giải bởi việc sáng tạo tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học nói chung là
nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần về văn hoá,
tình cảm, nhận thức, hiểu biết của con
ngời nên chúng gần nh đợc tiến hành
song song với sự tiến triển của x hội loài
ngời, với số lợng vô cùng lớn các tác phẩm
đợc sáng tạo. Còn việc sáng tạo các đối
tợng sở hữu công nghiệp về cơ bản là nhằm
giải quyết những nhiệm vụ kĩ thuật, mĩ thuật
với tính thơng mại rất cao đợc đặt ra trong
quá trình sản xuất sản phẩm công nghiệp
bằng tiến trình máy móc thay cho phơng
pháp thủ công truyền thống. Vì vậy, các sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp đợc con ngời sáng tạo ra có sự
gắn bó hết sức chặt chẽ với trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất, đặc biệt là trong nền
sản xuất t bản chủ nghĩa với những quy luật
khắc nghiệt của nền kinh tế thị trờng nhằm
tạo ra nhiều sản phẩm mới có tính cạnh tranh
cao. Theo ớc tính của một số nhà chuyên
môn thì đến nay, trên thế giới có khoảng trên
30 triệu sáng chế nhng không ai có thể ớc
tính đợc con ngời đ sáng tạo ra bao nhiêu
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học?
Điểm khác biệt cơ bản thứ hai giữa quyền
tác giả và quyền sở hữu công nghiệp là về bản
G
*
Giảng viên Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 49
chất của sự bảo hộ đối tợng sở hữu trí tuệ.
Với quyền tác giả, sự bảo hộ pháp lí là đối
với hình thức sáng tạo chứa đựng nội dung
tác phẩm thông qua các phơng thức biểu
hiện khác nhau nh ngôn ngữ (viết, miệng),
kí tự âm nhạc, hình khối, mầu sắc với rất
nhiều loại hình tác phẩm đợc bảo hộ nh tác
phẩm viết, tác phẩm mĩ thuật, tác phẩm đồ
hoạ, tác phẩm kiến trúc, tác phẩm nhiếp ảnh,
tác phẩm điện ảnh, phần mềm máy tính Vì
vậy, một trong những nội dung cơ bản nhất
của luật bản quyền tác giả là cấm ngời khác
sao in tác phẩm nếu không đợc phép của tác
giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Mặt khác, trên
thực tế có rất nhiều loại hình tác phẩm có thể
gọi là tác phẩm phái sinh, do chúng đợc
sáng tạo dựa trên cơ sở nội dung của tác
phẩm khác theo hình thức biểu hiện mới nh
tác phẩm dịch, tác phẩm phóng tác, cải biên,
chuyển thể Giữa tác phẩm gốc ban đầu và
tác phẩm phái sinh không chỉ có mối liên hệ
chặt chẽ về nội dung mà vấn đề cơ bản là nội
dung của tác phẩm gốc đ đợc biểu hiện ở
tác phẩm phái sinh với hình thức hoàn toàn
mới (ví dụ, tác phẩm văn học viết đợc
chuyển thể thành kịch bản điện ảnh). Theo
quy định pháp luật thì cả hai loại hình tác
phẩm này đều đợc hởng sự bảo hộ pháp lí
quyền tác giả. Điều này có nghĩa là trong
những điều kiện nhất định, ngời ta hoàn toàn
có thể sử dụng nội dung cơ bản trong tác
phẩm của ngời khác để sáng tạo ra tác phẩm
của mình và các tác phẩm này đều đợc
hởng sự bảo hộ pháp lí quyền tác giả một
cách bình đẳng, quyền tác giả tác phẩm phái
sinh không làm ảnh hởng đến quyền tác giả
tác phẩm gốc.
Đặc điểm trên của sự bảo hộ pháp lí
quyền tác giả cũng là một trong những sự
khác biệt cơ bản so với sự bảo hộ pháp lí
quyền sở hữu công nghiệp. Nếu nh sự bảo
hộ pháp lí quyền tác giả là hớng tới hình
thức chuyển tải ý tởng, chuyển tải nội dung
thì sự bảo hộ pháp lí quyền sở hữu công
nghiệp về bản chất là bảo hộ nội dung đối
tợng sáng tạo thông qua các quy định cấm
ngời khác không đợc sử dụng giải pháp kĩ
thuật, mĩ thuật đang đợc bảo hộ của chủ thể
để sản xuất các sản phẩm công nghiệp hoặc
thủ công nghiệp tơng ứng. Điều này xuất
phát từ mục đích của sự bảo hộ pháp lí quyền
sở hữu công nghiệp chủ yếu là nhằm bù đắp
chi phí sáng tạo và áp dụng các đối tợng sở
hữu công nghiệp trong thực tiễn sản xuất các
sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp
bằng những quy định cho phép chủ sở hữu
các đối tợng đó đợc độc quyền sử dụng
chúng trong thời hạn nhất định. Điều này
đồng thời có ý nghĩa khuyến khích sự sáng
tạo của con ngời gắn liền với sự phát triển
chung của x hội trớc những thành tựu khoa
học kĩ thuật và công nghệ mới. Do đó, một
trong những hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đợc pháp luật quy định là: Sản
xuất sản phẩm theo sáng chế, giải pháp hữu
ích đợc bảo hộ tại Việt Nam; sử dụng, nhập
khẩu, quảng cáo, lu thông sản phẩm mà sản
phẩm đó đợc sản xuất theo sáng chế, giải
pháp hữu ích đợc bảo hộ tại Việt Nam
(điểm a, điểm b khoản 1 Điều 805 BLDS).
Từ sự khác biệt cơ bản nêu trên về bản
chất của sự bảo hộ pháp lí quyền tác giả và
quyền sở hữu công nghiệp, đ dẫn đến sự
khác biệt cơ bản và quan trọng khác giữa
chúng. Với tính chất là bảo hộ sự sáng tạo cá
nhân về hình thức thể hiện ý tởng thì trong
50 Tạp chí luật học
nghiên cứu - trao đổi
lĩnh vực quyền tác giả, việc con ngời sáng
tạo và biểu hiện tác phẩm dới hình thức
khách quan nhất định đồng thời làm phát sinh
quyền tác giả của ngời sáng tạo đối với tác
phẩm đó mà không cần trải qua bất cứ điều
kiện, thủ tục gì. Đây chính là nội dung của
nguyên tắc: Bảo hộ tự động đối với quyền
tác giả đ đợc thừa nhận ngay từ năm 1886,
khi có 10 quốc gia trên thế giới là Pháp, Anh,
Đức, Hali, Tây Ban Nha, Bỉ, Thuỵ Sỹ, Li Bi,
Haiiti và Tunisia cùng nhau thoả thuận kí kết
Công ớc quốc tế đầu tiên về bảo hộ quyền
tác giả tại Berne (Thuỵ Sỹ). Công ớc này
đợc gọi là Công ớc Berne về bảo hộ các tác
phẩm văn học và nghệ thuật. Theo nguyên tắc
này, việc hởng và thực hiện các quyền lợi
dành cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
không lệ thuộc vào bất kì thể thức, thủ tục
nào. Quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác
giả ở Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây
cũng đều thể hiện xu hớng đó. Chẳng hạn,
Điều 754 BLDS quy định: Quyền tác giả
phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm đợc sáng
tạo dới hình thức nhất định.
Khác biệt với tính chất bảo hộ tự động
của quyền tác giả, việc bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp mang tính chất riêng và phải
tuân theo thủ tục hành chính. BLDS Việt
Nam quy định cụ thể về việc bảo hộ 5 đối
tợng sở hữu công nghiệp là sáng chế, giải
pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhn
hiệu hàng hoá và tên gọi xuất xứ hàng hoá.
Để đợc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
đối với tất cả các đối tợng này, chủ thể đều
phải tuân theo trình tự, thủ tục hành chính là
gửi đơn xin phép và đợc cấp phép từ cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền. Do đó, nếu chủ thể
chỉ sáng tạo giải pháp kĩ thuật, mĩ thuật mà
không có đơn yêu cầu bảo hộ hoặc có đơn
yêu cầu bảo hộ mà bị từ chối từ phía cơ quan
chức năng thì việc bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp cũng không tự động phát sinh. Nội
dung này đợc quy định tại Điều 788 BLDS
là: Quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhn hiệu
hàng hoá và quyền sử dụng tên gọi xuất xứ
hàng hoá đợc xác lập theo văn bằng bảo hộ
do cơ quan nhà nớc có thẩm quyền cấp.
Quyền sở hữu đối với các đối tợng sở hữu
công nghiệp khác cũng đợc xác lập theo quy
định của pháp luật. Vì lí do này mà các khái
niệm nh quyền nộp đơn yêu cầu cấp văn
bằng bảo hộ, quyền u tiên đối với đơn yêu
cầu cấp văn bằng bảo hộ là những khái
niệm riêng chỉ có trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp, không đợc sử dụng trong lĩnh vực
quyền tác giả.
Điểm khác biệt quan trọng khác của
quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp là
về thiên hớng bảo hộ quyền của chủ thể
tham gia vào các quan hệ pháp luật này. Nếu
nh trong lĩnh vực quyền tác giả pháp luật
nghiêng về bảo hộ quyền của tác giả là ngời
sáng tạo tác phẩm, ít quy định về chủ sở hữu
tác phẩm thì trong lĩnh vực sở hữu công
nghiệp, pháp luật lại nghiêng về bảo hộ
quyền của chủ sở hữu đối tợng sở hữu công
nghiệp còn ngời sáng tạo đợc nhắc đến
không nhiều. Cụ thể, khái niệm pháp lí về tác
giả cùng nhiều quy định khác về quyền tác
giả nh quyền của tác giả đồng thời là chủ sở
hữu tác phẩm; quyền của tác giả không đồng
thời là chủ sở hữu tác phẩm, quyền của tác
giả dịch, phóng tác, biên soạn, cải biên,
chuyển thể; giới hạn quyền tác giả; chuyển
giao quyền tác giả đợc thể hiện đậm nét
trong các quy định về quyền tác giả tại
BLDS. Trong khi đó, về chủ sở hữu tác phẩm
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 51
lại chỉ có một vài quy định về việc xác định
chủ sở hữu tác phẩm, về quyền của chủ sở
hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả.
Thậm chí, khái niệm pháp lí thế nào là chủ sở
hữu tác phẩm cũng cha đợc BLDS đề cập.
Quy định của BLDS về quyền sở hữu
công nghiệp có nội dung khác hẳn so với
quyền tác giả. Chỉ có 2 trong tổng số 26 điều
luật của chế định này (từ Điều 780 đến Điều
805) quy định riêng về tác giả. Đó là Điều
799 và Điều 800 quy định về tác giả và các
quyền của tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp. Nếu thật chính xác
thì ngoài hai điều luật trên cũng có thêm
điểm a khoản 1 Điều 789 quy định về quyền
nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ của tác
giả, các đồng tác giả tạo ra sáng chế, giải
pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp bằng
công sức và chi phí riêng của mình và khoản
1 Điều 798 quy định về nghĩa vụ của chủ sở
hữu các đối tợng này phải trả thù lao cho tác
giả, nếu giữa chủ sở hữu và tác giả không có
thoả thuận khác.
Có thể lí giải nh thế nào về điểm khác
biệt nêu trên giữa quyền tác giả và quyền sở
hữu công nghiệp? Ngời ta vẫn phải xuất phát
từ đặc điểm bản chất của sự bảo hộ pháp lí
trong hai lĩnh vực này để trả lời. Rõ ràng để
tạo nên tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học thì công lao trớc hết và chủ yếu luôn
thuộc về tác giả là ngời sáng tạo tác phẩm.
Bất kì loại hình tác phẩm nào cũng thể hiện
dấu ấn cá nhân của tác giả trên tác phẩm đó
nên sự bảo hộ pháp lí quyền tác giả thiên về
bảo hộ quyền của tác giả cũng là điều khó có
thể làm ngợc lại. Điều này không có nghĩa
là trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ngời ta
xem nhẹ công sức sáng tạo của tác giả sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp
mà cơ bản do đặc thù của lĩnh vực này khác
với lĩnh vực quyền tác giả. Sự thật hiển nhiên
là các giải pháp kĩ thuật, mĩ thuật mới đợc
sáng tạo trong quá trình sản xuất các sản
phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp hầu
hết đều phải dựa trên cơ sở và nền tảng của
những thành tựu đ có, đ biết trong lĩnh vực
tơng ứng. Hơn nữa, để có thể áp dụng những
giải pháp này tạo ra những sản phẩm chứa
đựng nội dung đối tợng sở hữu công nghiệp
đợc bảo hộ luôn đòi hỏi những chi phí vật
chất hết sức lớn từ phía nhà sản xuất, từ phía
chủ sở hữu đối tợng. Không phải ngẫu nhiên
mà một trong những đặc điểm của nền kinh tế
tri thức lại là sự đầu t lớn cho những ngành
và lĩnh vực có chất lợng kĩ thuật cao để thu
lời lớn nhng lại là bạn đồng hành của tính
rủi ro và mạo hiểm lớn. Vì vậy, không có gì
đáng ngạc nhiên khi pháp luật về sở hữu công
nghiệp thiên về quy định quyền của chủ sở
hữu đối tợng sở hữu công nghiệp so với quy
định về quyền của tác giả các đối tợng này.
Sự khác biệt này so với quyền tác giả đợc lí
giải xuất phát từ một trong những đặc điểm
của quyền sở hữu công nghiệp là chủ sở hữu
đối tuợng sở hữu công nghiệp thờng phải
đầu t nhiều về tiền của, công sức trong quá
trình tác giả nghiên cứu, sáng tạo các đối
tợng sở hữu công nghiệp đó.
Liên quan đến sự bảo hộ quyền của các
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật về
quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp
còn có một số khác biệt khá cơ bản về chi phí
bảo hộ, về việc sử dụng các đối tợng đợc
bảo hộ thể hiện trong những quy định pháp
luật tơng ứng. Cụ thể, nếu nh trong quan hệ
52 Tạp chí luật học
nghiên cứu - trao đổi
quyền tác giả, xuất phát từ nguyên tắc bảo hộ
tự động mà quyền tác giả phát sinh kể từ thời
điểm tác phẩm đợc sáng tạo dới hình thức
nhất định và đợc bảo hộ miễn phí thì trong
quan hệ về quyền sở hữu công nghiệp, mối
quan hệ xin phép - cấp phép bảo hộ giữa
ngời có quyền nộp đơn yêu cầu bảo hộ với
cơ quan quản lí nhà nớc có thẩm quyền
nhằm bảo hộ độc quyền áp dụng đối tợng sở
hữu công nghiệp của chủ sở hữu các đối
tợng này trớc tất cả những ngời khác đ
dẫn đến khoản lệ phí bảo hộ mà chủ sở hữu
bắt buộc phải tuân thủ. Chính sự khác biệt
này đ dẫn đến quy định pháp luật về một
trong những nghĩa vụ của chủ sở hữu sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp
là: Nộp lệ phí duy trì hiệu lực của văn bằng
bảo hộ (khoản 2 Điều 798 BLDS). Trờng
hợp nghĩa vụ này không đợc thực hiện đúng
thời hạn thì hiệu lực của văn bằng bảo hộ sẽ
bị đình chỉ (điểm a khoản 1 Điều 793 BLDS).
Ngoài những điểm khác biệt cơ bản nêu
trên, để phân biệt quyền tác giả và quyền sở
hữu công nghiệp tất nhiên còn có nhiều điểm
khác biệt khác nhng ở đây tác giả chỉ xin đề
cập điểm khác biệt quan trọng nữa là về thời
hạn bảo hộ. Xu hớng của một số quốc gia
trên thế giới hiện nay là nếu có thể thì kéo dài
thời hạn bảo hộ quyền tác giả nh một sự
gấp đôi cuộc đời tác giả, nhằm khuyến
khích sự sáng tạo bằng cách tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho ngời thừa kế của họ về
khả năng đợc hởng thành quả sáng tạo của
cha ông mình. Vì thế, khi mà phần lớn các
nớc quy định thời hạn bảo hộ quyền tác giả
là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo
năm tác giả chết thì ở Tây Ban Nha thời hạn
này là suốt cuộc đời tác giả và 60 năm sau
khi tác giả qua đời. Còn tại một số nớc khác
nh Pháp, Đức thì số năm tiếp theo đợc bảo
hộ sau khi tác giả chết lên tới 70 năm. ở Việt
Nam, thời hạn bảo hộ quyền tác giả đợc quy
định tại Điều 766 BLDS, theo đó các quyền
tài sản và một số quyền nhân thân đợc bảo
hộ trong suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp
theo năm tác giả chết.
Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp đợc quy định ngắn hơn nhiều so với
thời hạn bảo hộ quyền tác giả. Chẳng hạn,
hầu hết pháp luật sở hữu công nghiệp của các
nớc đều quy định thời hạn bảo hộ sáng chế
kéo dài 20 năm. Điều này đợc lí giải từ tính
chất bảo hộ độc quyền áp dụng trớc tất cả
những ngời khác của chủ sở hữu đối tợng
sở hữu công nghiệp. Hơn nữa, mục đích lớn
nhất của sự bảo hộ pháp lí quyền sở hữu công
nghiệp không chỉ nhằm bù đắp chi phí sáng
tạo và áp dụng các đối tợng sở hữu công
nghiệp mà còn nhằm thừa nhận và thúc đẩy
sự phát triển không ngừng của khoa học kĩ
thuật và công nghệ mới trên cơ sở kế thừa và
tiếp tục những thành tựu đ có, tạo động lực
mạnh mẽ và quyết định nhất cho sự phồn
thịnh và phát triển kinh tế của đất nớc thì
việc quy định thời hạn bảo hộ tơng đối ngắn
sẽ là phù hợp hơn với bản chất của quan hệ x
hội mà luật điều chỉnh. Pháp luật sở hữu công
nghiệp Việt Nam hiện hành quy định thời hạn
bảo hộ sáng chế là 20 năm, giải pháp hữu ích
là 10 năm, kiểu dáng công nghiệp là 5 năm,
nhn hiệu hàng hoá là 10 năm, tên gọi xuất
xứ hàng hoá là 10 năm, trong đó kiểu dáng
công nghiệp có thể đợc gia hạn liên tiếp hai
(Xem tiếp trang 32)