A.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vì vậy việc đề ra
một đường lối, một chiến lược phát triển kinh tế phù hợp là hết sức quan
trọng. Sau hơn 18 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những tiến triển, cơ
cấu kinh tế có sự chuyển dịch tiến bộ và phù hợp hơn với điều kiện đất nước.
Những thành công đó đã khẳng định sự đúng đắn trong đường lối của Đảng.
Một trong những nguyên nhân làm nên sự thành công đó là việc bước đầu
hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Tại đại hội Đảng lần thứ VI 12/1985, Đảng ta đã khẳng định phát triển
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong
thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Động lực để phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần chủ yếu là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập tồn tại sẵn
trong nền kinh tế. Việc phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh
trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một nội dung
quan trọng trong việc xây dựng các chính sách kinh tế xã hội.
Trong quá trình phát triển, xã hội luôn nảy sinh các mâu thuẫn. Khi một
lớp mâu thuẫn được giải quyết hoặc dịu đi thì một lớp mâu thuẫn khác xuất
hiện, lớp nọ kế tiếp lớp kia đòi hỏi giải quyết. Giải quyết mâu thuẫn chính là
động lực của sự phát triển và phải đạt mục tiêu hài hòa về lợi ích giữa các
nhóm, giai tầng xã hội chứ không phải triệt tiêu lợi ích của bất cứ nhóm, giai
tầng nào. Lợi ích của tất cả các nhóm, giai tầng trong xã hội đều cần được tôn
trọng và bảo vệ nhưng lợi ích dân tộc vẫn phải được đặt lên trên hết.
Nếu giải quyết tốt những mâu thuẫn không đối kháng thì xã hội sẽ phát triển,
nếu giải quyết không tốt thì mâu thuẫn có thể trở thành đối kháng và có thể
dẫn xã hội đi tới thoái hóa, thậm chí suy sụp. Giải quyết tốt mâu thuẫn chính
là làm tăng sự thống nhất hài hòa giữa lợi ích đối lập đến tột đỉnh, triệt giảm
1
sự xung đột đấu tranh giữa chúng đến mức nhỏ nhất có thể. Cơ sở để giải
quyết tốt mọi mâu thuẫn trong xã hội chính là văn hóa và do đó biện pháp dân
chủ sẽ là thích hợp và hiệu quả nhất.
Từ khi chúng ta thực hiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN,
bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, những chủ trương chính
sách mới trong kinh tế cũng đã để lại một số vấn đề về công bằng xã hội mà
nếu không giải quyết một cách thỏa đáng, chúng sẽ biến thành mâu thuẫn
giữa các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Để có cái nhìn cụ thể hơn về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay và những mâu thuẫn trong đó em chọn đề tài “Mâu thuẫn
biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần ở Việt Nam hiện nay “.Trong bài tiểu luận này, dựa trên quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập của phép biện chứng duy vật để phân
tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
2
B.NỘI DUNG CHÍNH
I.Cơ sở của đề tài
1.Cơ sở lý luận
Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn
nhau giữa các mặt đối lập. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan
và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư
duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của
nhận thức.
Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh với nhau.Sự
thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau
giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn luôn luôn đấu tranh
với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng
phủ định và bài trừ lẫn nhau.
Trong các sự vật, hiện tượng bao giờ cũng có các mặt đối lập tồn tại,
chúng thống nhất với nhau và là cơ sở cho sự tồn tại của sự vật đó, biểu hiện
tính tương đối của sự vật. Mâu thuẫn thể hiện rõ nét hơn khi hai mặt đối lập
đấu tranh với nhau. Sự đấu tranh phát triển gay gắt lên đến đỉnh cao thì xảy ra
xung đột giữa hai mặt đối lập. Hai mặt đó chuyển hoá lẫn nhau trong những
điều kiện nhất định tức là mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi,
mâu thuẫn mới ra đời, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế nó. Cứ như
vậy sự đấu tranh giữa các mặt đối lập diễn ra thường xuyên làm cho sự vận
động, phát triển không ngừng, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự phát
triển, là động lực cho sự phát triển trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, các thành phần kinh tế có sự thống nhất và đối lập với nhau.
Thống nhất ở chỗ mục đích chung của các thành phần kinh tế là sự phát
triển của nền kinh tế, sự phát triển của đất nước. Nhưng mỗi thành phần kinh
3
tế, đứng phía sau là những chủ thể với những mục đích, lợi ích riêng dẫn đến
cạnh tranh đối lập với nhau. Vậy các thành phần kinh tế chính là các mặt đối
lập trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trong đó mâu thuẫn giữa
chúng là luôn luôn tồn tại và không thể phủ nhận được. Giải quyết được
những mâu thuẫn đó mới có thể phát triển nền kinh tế nước ta theo đúng
hướng của Đảng và có hiệu quả.
2. Cơ sở thực tế
Trong hơn 20 năm qua, quá trình cải tổ của các nước thuộc hệ thống xã
hội chủ nghĩa đã đi theo hai con đường khác nhau. Việt Nam lựa chọn con
đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa
nhận các loại hình và chế độ sở hữu khác nhau, nhưng công hữu giữ vai trò
chủ đạo, thừa nhận kinh tế thị trường, thậm chí hội nhập vào nền kinh tế thế
giới, nhưng về mặt chính trị vẫn duy trì nền tảng chính trị của chủ nghĩa xã
hội, trong đó mấu chốt là Đảng cộng sản cầm quyền, xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa có khả năng thi hành các chính sách định hướng xã hội chủ
nghĩa. Những thành tựu trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội, cải thiện mức
sống và nâng cao vị thế quốc gia; trong giữ vững độc lập, tự chủ, tự quyết
định các vấn đề đối nội và đối ngoại của Việt Nam ... đã khẳng định sự lựa
chọn đường lối phát triển đất nước là đúng đắn.
Tuy nhiên để có được sự nhận thức rõ ràng về kinh tế nhà nước như hiện
nay là cả một quá trình hoàn thiện nhận thức của Đảng ta, bắt đầu từ ý tưởng
xây dựng xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu thuần khiết được xác
định trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương, đến tư tưởng xây
dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và tập thể của Đại hội
Đảng lần thứ III... Và mặc dù đến Đại hội Đảng lần thứ VI, khi đưa ra chính
sách kinh tế nhiều thành phần vẫn chưa có khái niệm “kinh tế nhà nước”,
song chủ trương của Đảng vẫn là “đi đôi với phát triển kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập trung của Nhà nước và tranh
4
thủ vốn ngoài nước, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế khác”.
Đại hội Đảng lần thứ VII đ ã đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về kinh tế thị
trường: “Đổi mới về kinh tế, chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp, tự túc
với cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước”; “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng
pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”; và phân định rõ phạm
vi quản lý của nhà nước và phạm vi tác động của cơ chế thị trường.
Tới Đại hội Đảng lần thứ VIII, ngoài sự khẳng định rõ ràng mục tiêu vận
hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa do Đại hội VII nêu ra, lần đầu tiên Đảng đưa ra khái
niệm kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đại hội VIII
đồng thời cũng có một số thay đổi đối với các thành phần kinh tế khác, các
thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành cùng tồn tại lâu dài, tư tưởng
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế hợp tác dần trở thành nền
tảng đã cơ bản được hình thành ở Đại hội Đảng lần thứ VIII.
Tới Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng:
“Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngoài ra, Đại
hội Đảng lần thứ IX một lần nữa lại khẳng định tư tưởng công hữu phải là nền
tảng của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, nhưng quá trình hình thành nền kinh
tế xã hội chủ nghĩa phải dần dần, trong đó cần phát huy tối đa khả năng sản
5
xuất của các thành phần kinh tế khác nhằm xây dựng nước ta thành một nước
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Có thể thấy rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hàm chứa nhiều mâu thuẫn, những mâu thuẫn đó tồn tại khách quan.
Vì vậy việc phát hiện và giải quyết nhưng mâu thuẫn trong quá trình phát
triển kinh tế là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng các chính sách
kinh tế xã hội. Đảng ta khẳng định: “Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý
nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã
hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế đảm bảo cho mọi người được làm
ăn theo pháp luật”.
II. Thực trạng của quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần ở nước ta hiện nay.
1. Thành công
Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự
thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp
đã giảm từ 38,7% xuống 20,89% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ
trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,03%, còn khu
vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm 1990 và
38,10% năm 2005. Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích
cực. Trong khu vực nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông và lâm nghiệp đã
giảm từ 84,4% năm 1990 xuống 77,7% năm 2003, phần còn lại là tỷ trọng
ngày càng tăng của ngành thủy sản. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của
ngành công nghiệp chế biến tăng từ 12,3% năm 1990 lên 20,8% năm 2003,
chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ
thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành dịch vụ có chất lượng
cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…
Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
6
trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng
được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng
sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Khi sửa đổi Luật doanh nghiệp (năm 2000), các doanh nghiệp tư nhân đã
có điều kiện thuận lợi để phát triển. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do
kinh doanh của các cá nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không
cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành chính đang làm trở ngại đến hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy phép, thủ tục, các loại phí…
Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp tư nhân đăng ký
mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có
150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với
tổng số vốn điều lệ là 182.000 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng
của khu vực kinh tế tư nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế
ngoài quốc doanh khác từ 4,4% lên 4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống
31,2%, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 6,4% lên 14%. Từ
1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả doanh nghiệp trong
nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh của các
doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh
nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu.
Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp
điều chỉnh, sắp xếp lại doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý
tài chính của công ty nhà nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp, hay việc chuyển các công ty nhà nước thành công ty cổ phần
theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước, ngày
càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả cho khu vực kinh tế quốc
7
doanh. Với chính sách xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tỷ
trọng của khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm đi, từ 40,1% GDP năm
1991 xuống còn 38,3% năm 2003, kinh tế tập thể giảm từ 10,2% xuống 7,9%
trong thời gian tương ứng. Trong các năm 2002-2003, có 1.655 doanh nghiệp
nhà nước được đưa vào chương trình sắp xếp và đổi mới, năm 2004 là 882
doanh nghiệp và năm 2005 dự kiến sẽ là 413 doanh nghiệp.
Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục
tiêu phát triển xã hội như phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi ích
của đổi mới cho đại đa số dân chúng; gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao
chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục; nâng chỉ số phát triển con
người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ 120/174 nước năm 1994, lên vị trí thứ
108/177 nước trên thế giới năm 2005; tăng tuổi thọ trung bình của người dân
từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên 72 tuổi năm 2005, giảm tỷ lệ số hộ đói
nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980 xuống dưới 7% năm 2005.
2. Hạn chế
a) Việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay ở nước
ta mới ở giai đoạn đầu, xuất phát điểm còn thấp, nền kinh tế hàng hoá chưa
phát triển; sản xuất còn mang nặng tính tự nhiên, tự cung, tự cấp. Thể hiện ở
cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế nói chung và từng thành phần kinh tế nói riêng. Nhìn chung, sản
xuất còn thủ công; năng suất lao động thấp, khối lượng ít, chất lượng và tỷ
suất hàng hoá thấp, chưa đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại. Việc hình thành
các thành phần kinh tế mang nặng tính tự phát.
b) Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chưa được xoá bỏ triệt để, tác
phong, lề lối, thói quen cũ trong quản lý của cơ quan nhà nước ảnh hưởng
trực tiếp đến các thành phần kinh tế. Sự đan xen cơ chế quản lý cũ và cơ chế
quản lý mới vừa cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế, vừa tạo môi
8
trường cạnh tranh không bình đẳng, phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, trong
các đơn vị kinh tế cũng như trong bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước.
c) Thành phần kinh tế quốc doanh đã nhiều năm tồn tại trong chế độ bao
cấp, chưa kịp chuyển sang cơ chế mới, độ nhạy cảm với thị trường còn thấp.
Không ít các xí nghiệp quốc doanh trì trệ, bế tắc, không đứng vững trong cơ
chế mới, đây cũng là mảnh đất cho các hiện tượng tiêu cực nảy sinh và phát
triển. Thành phần kinh tế tập thể giảm đi nhanh chóng cả trong lĩnh vực sản
xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp, lĩnh vực lưu
thông.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy có phát triển nhưng mới
chỉ tập trung vào các ngành không cần vốn lớn, thu lợi nhanh như dịch vụ ăn
uống, khách sạn, thương nghiệp. Các thành phần kinh tế này chưa thực sự
bình đẳng trong cạnh tranh. Do còn có sự can thiệp về hành chính của cơ quan
nhà nước, nhất là các thủ tục hành chính nên họ thường chú trọng đến việc
tranh thủ các cơ quan, viên chức nhà nước để có những lợi thế trong cạnh
tranh và thu nguồn lợi không từ sản xuất, kinh doanh.
d) Mức độ hình thành và hoàn thiện thị trường ở nước ta mới ở giai đoạn
sơ khai, thiếu đồng bộ về thị trường vốn, thị trường tư liệu sản xuất, thị
trường sức lao động, thị trường tư liệu tiêu dùng. Điều đó dẫn tới các thành
phần kinh tế chưa có môi trường thực sự cạnh tranh theo cơ chế thị trường.
Nói một cách khác, hiện nay nền kinh tế của nước ta mới chỉ là giai đoạn đầu
của nền kinh tế hàng hoá (nhiều thành phần) chưa phải nền kinh tế thị trường;
chưa có cơ chế thị thực sự điều tiết nó.
3.Nguyên nhân:
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng sự phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần ở nước ta hiện nay do nhiều yếu tố bao gồm:
a) Sự thay đổi về tư duy :
9
Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản
chủ nghĩa (hay kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về
bản chất và đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân
phối và mục đích phát triển. Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy
luật của chủ nghĩa xã hội, còn kinh tế tư bản chủ nghĩa thì vận động theo các
quy luật của chủ nghĩa tư bản (tất nhiên trong khi nói đến kinh tế kế hoạch
chúng ta cũng đã từng nói đến hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, vận
dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi lợi ích vật chất và khuyến khích vật chất
là một động lực của sự phát triển).
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so với
trước. Nhìn khái quát đã có những sự thay đổi lớn như sau:
- Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là
chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể) đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba
chế độ sở hữu cơ bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành
nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế
tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa phải nhanh chóng hoàn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh
tế cá thể tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đến
quan niệm rằng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất
mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
- Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với
việc xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ
đầu đã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn
cho hai thành phần kinh tế ấy ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải
10