Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Thực trạng và giải pháp triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu tại công ty Bảo hiểm Dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.61 KB, 99 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Bảo hiểm hàng hải là một trong lĩnh vực bảo hiểm ra đời khá sớm không
những đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngành vận tải biển
mà còn thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước trên thế giới. Nghiệp
vụ bảo hiểm thân tàu là một trong những nghiệp vụ của bảo hiểm hàng hải đã
góp phần giúp các chủ tàu ổn định kinh tế khi không may gặp rủi ro, tạo cho các
chủ tàu khôi phục và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, nhu cầu vận tải biển ngày một gia tăng, tạo ra nhiều cơ hội
cho các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu. Tuy
nhiên trong điều kiện thị trường bảo hiểm Việt Nam đang được mở rộng theo xu
hướng hội nhập với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm trong nước
và quốc tế, làm thế nào để triển khai bảo hiêm thân tàu một cách có hiêu quả
nhất đang là bài toán được đặt ra cho các doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong thời gian thực tập tại Phòng bảo hiểm Hàng hải của Công ty Bảo
hiểm Dầu khí Việt Nam (BHDK VN), với những kiến thức đã được thầy cô
truyền đạt kết hợp với những tài liệu tham khảo em đã nghiên cứu, tìm hiểu về
nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu. Đề tài được lựa chọn là: “Thực trạng và giải pháp
triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu tại công ty Bảo hiểm Dầu khí”
Chuyên đề có cơ cấu như sau:
CHƯƠNG I: Lý luận chung về nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu .
CHƯƠNG II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu tại công
ty BHDK.
CHƯƠNG III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu tại Công ty BHDK.
Do điều kiện thời gian và trình độ thực tiễn còn nhiều hạn chế nên đề tài
không tránh khỏi sai sót . Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của các bạn và thầy cô giáo cùng với các anh chị trong phòng để chuyên đề của
em được hoàn thiện hơn . Em xin chân thành cảm ơn!


Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
THÂN TÀU
I. Sự ra đời và phát triển của Bảo hiểm thân tàu
1. Sự cần thiết của Bảo hiểm thân tàu
Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong lao động sản xuất
kinh doanh, mặc dù không muốn nhưng con người luôn đứng trước những nguy
cơ rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào đe doạ tới sự an toàn tính mạng sức khỏe,
tài sản của con người. Để đối phó với những nguy cơ rủi ro con người đã đưa ra
nhiều biện pháp, trong đó có bảo hiểm. Bảo hiểm là 1 trong những biện pháp tài
trợ rủi ro, bù đắp thiệt hại về mặt tài chính khi rủi ro bất ngờ xảy ra, được coi là
công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra có hiệu quả nhất. Hoạt
động của các ngành kinh tế nói chung và hàng hải nói riêng không thể tách rời
với hoạt động của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng.
Trong thời đại toàn cầu hoá hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật các phương tiện giao thông vận tải cũng ngày một được cải tiến và hiện
đại hơn góp phần quan trọng vào sự phát triển giao lưu thương mại quốc tế.
Ngành vận tải biển được đánh giá đóng một vai trò quan trọng, được coi là mạch
máu lưu thông của thương mại quốc tế. Theo số liệu thống kê có tới 90% lượng
hàng hoá được chuyên chở bằng đường biển vì vận chuyển bằng đường biển có
nhiều điểm thuận lợi như chở được khối lượng hàng hoá lớn, cồng kềnh như các
hàng siêu trường, siêu trọng, chở được nhiều chủng loại hàng khác nhau từ đó
dẫn tới giá thành vận chuyển rẻ so với những ngành vận tải khác.Tuy nhiên lại
có nhược điểm lớn là hành trình thường kéo dài, tốc độ vận chuyển chậm, dễ
chịu tác động của các rủi ro tự nhiên gây ra tổn thất với giá trị lớn. Do hoạt động
gần như độc lập, lênh đênh trên biển nên việc ứng cứu, hạn chế tổn thất gặp
nhiều khó khăn. Ngành vận tải biển vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong ngành
vận tải thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng mặc dù theo thống kê của các
hãng sản xuất và sửa chữa, hàng năm trên thế giới có khoảng 7.000 vụ tai nạn

tàu biển làm thiệt hại hàng tỉ đô la.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Hiện nay, đội tàu biển quốc gia Việt Nam có khoảng 970 tàu với tổng
trọng tải đạt 2, 85 triệu USD, xếp thứ 60/152 quốc gia có tàu mang quốc tịch và
xếp thứ 4/11 nước ASEAN. Con số 970 tàu mang quốc tịch Việt Nam này
không phải là nhiều song cũng không hẳn là quá ít. Ngành vận tải biển Việt
Nam đã góp phần vận chuyển được khoảng trên dưới 13% khối lượng hàng hoá
xuất nhập khẩu. Những vụ tổn thất xảy ra đã gây không ít khó khăn cho các chủ
tàu, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Và để giúp các
chủ tàu ổn định kinh tế khi không may gặp rủi ro, tạo cho các chủ tàu khôi phục
và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh; góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới, để góp phần tăng
thu cho ngân sách, tăng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế…hoạt động bảo hiểm
thân tàu đã ra đời khá sớm.
2. Sự ra đời và phát triển của Bảo hiểm thân tàu
Vào cuối thế kỉ 15 khi châu Âu thực hiện những cuộc viễn chinh tới châu
Á và châu Mỹ, tạo ra cái gọi là “ Cuộc cách mạng thương mại” (xảy ra trước
cuộc cách mạng công nghiệp nổi tiếng), ý tưởng quỹ chung và rủi ro đã đồng
loạt xuất hiện. Ví dụ một đội tàu nhỏ có thể đi từ châu Âu tới Indonexia, trao đổi
hàng hoá tại đó và trở về với nhiều hàng hoá, tuy nhiên ở đây tiềm tàng nhiều rủi
ro: Một số tàu không hoàn thành toàn bộ chuyến đi về, một số tàu có thể bị chìm
do bão tố, cạn kiệt nguồn cung cấp (hoặc đội thuỷ thủ chết vì bệnh tật), lạc
đường, bị chìm do quá tải, hoặc bị mọt ăn thủng. Những người tham gia đầu tư
vào những chuyến đi như kể trên cảm nhận thấy cần thiết phải cùng nhau chia sẻ
rủi ro tránh tình trạng một số nhà đầu tư mất trắng toàn bộ chuyến hàng do một
hiện tượng khá phổ biến: tàu bị mất tích. Người ta đã tìm ra hai cách nhằm giải
quyết nhu cầu này. Thứ nhất là tạo lập một chuyến hàng dưới hình thức cổ phần,
một nhóm nhà đầu tư cùng đầu tư vào một nhóm thuyền chở hàng chung cùng
chia sẻ rủi ro tổn thất và phân chia lợi nhuận thu được sau chuyến buôn. Cách

thứ hai là bảo hiểm, một hệ thống theo đó chủ tàu hay chủ hàng (có thể là một cá
nhân hay một công tyc) trả một số tiền mặt cho người khác nều họ thoả thuận sẽ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bồi thường khi con tàu đã nêu trên không hoàn thành chuyến đi cụ thể nào đó.
Theo cách thức này, thay thế việc phát triển cạnh tranh, cổ phần, bảo hiểm tiền
mặt và cam kết sẽ bồi thường cho chủ tàu trong trường hợp tàu mất tích. Những
công ty bảo hiểm này đã tạo lập một quỹ chung dùng để thanh toán cho người
được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Bảo hiểm hàng hải là một trong những hình thức bảo hiểm đầu tiên. Có
thể nói cho vay mạo hiểm là hình thức ban đầu của bảo hiểm hàng hải, trong đó
người cho vay cung cấp tài chính cho một chuyến đi biển dựa trên sự an toàn
của con tàu đó. Điều này có thể thấy ở thời xưa những người Babilon, người
Phonixi và người Hindu cổ đại đã thực hiện hình thức cung cấp tài chính này.
Ngày nay, vay mạo hiểm chỉ được sử dụng như một biện pháp khẩn cấp nhằm
hoàn thành một chuyến vận chuyển bằng đường biển.
Lịch sử cho thấy người La Mã là những người đầu tiên sử dụng bảo hiểm
hàng hải để tránh các tổn thất do hiểm hoạ của hàng hải gây ra. Cách thức bảo
hiểm này còn được phát triển trong lĩnh vực quân sự khi những người cung ứng
hậu cần quân đội yêu cầu nhà cầm quyền La Mã chấp nhận bồi thường toàn bộ
tổn thất gây ra do chiến trận hoặc do điều kiện thời tiết bất lợi. Hình thức bảo
hiểm hiện đại được phát triển từ thế kỉ XIII ở Italia. Bản hợp đồng bảo hiểm
hàng hải cổ nhất đựơc kí vào ngày 23/10/1347 bảo hiểm cho tàu buôn
SantaClara trong hành trình từ Genoa đi Majoca. Đến thế kỷ XVII, hình thức
bảo hiểm của tư nhân đã phát triển ở nước Anh và trong những thế kỷ tiếp theo
các công ty bảo hiểm hàng hải cá nhân thường không có khả năng bảo đảm toàn
bộ giá trị của chuyến đi. Do đó các nhà buôn tự cảm thấy không được an toàn,
và để đáp ứng nhu cầu này những chủ tàu đã thành lập câu lạc bộ của mình là
tập hợp nhiều nhóm chủ tàu và đã thực hiện bảo hiểm một cách hiệu quả các tàu
biển của nhau. Ngày nay những công ty bảo hiểm vẫn còn áp dụng dịch vụ của

mình dựa trên nguyên tắc cộng đồng các thành viên để bảo hiểm cho nhau.
Đầu tiên, mức bồi thường bảo hiểm chỉ có giới hạn tới giá trị của tàu đã
bảo hiểm. Do đó chủ tàu phải có tiềm lực để bảo đảm trách nhiệm bồi thương
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đối với bên thứ ba. Ví dụ trong một tai nạn đâm va, nếu tàu của người đó bị phá
huỷ, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một khoản cần thiết để thay thế tàu mới.
Những hư hỏng thiệt hại cho tàu khác hoặc cá nhân khác chủ yếu thuộc cá nhân
chủ tàu chịu trách nhiệm. Để giải quyết khó khăn này cho chủ tàu, vào giữa
những năm 1800, một điều khoản bảo hiểm được gọi là Điều khoản bồi thường
đâm va (Running Down Clause) đã trở thành một bộ phận tiêu chuẩn trong các
hợp đồng bảo hiểm. Điều khoản Running Down Clause đã đảm bảo tới 75%
trách nhiệm bồi thường trong tai nạn đâm va tàu biển.Bên cạnh đó, điều 17 và
18 Chương 104 Luật Hàng hải Thương mại Anh đã đưa ra các qui định giới hạn
trách nhiệm bồi thường của chủ tàu đối với các tử vong và thương tật của bên
thứ ba. Tuy đã có quy định giới hạn trách nhiệm bồi thường tử vong hay thương
tật cho bên thứ ba và đã có điều khoản bồi thường đâm va tàu biển nhưng các
chủ tàu vẫn cảm thấy mình còn chịu rủi ro nhiều hơn so với hình thức họ tự bảo
hiểm. Để đáp ứng khoản bồi thường còn lại, câu lạc bộ dự phòng và bồi thường
của chủ tàu (P&I Clubs-the Protection and Indemnity Clubs) đã được thành lập.
Câu lạc bộ P &I đựơc lập ra nhằm mục đích chính là dự phòng để bảo đảm cho
chủ sở hữu bồi thường tai nạn tử vong hay thương tật, và là nguồn dự phòng để
bồi thường tai nạn đâm va mà Điều khoản bồi thường đâm va không thanh toán.
Sau này câu lạc bộ P &I còn phát triển hình thức bảo hiểm đối với khiếu nại của
chủ tàu bảo hiểm hàng hoá đòi chủ tàu bồi thường. Ngày nay có khoảng 90%
đội tàu buôn trên thế giới tham gia bảo hiểm với khoảng 15 nhóm câu lạc bộ P
&I quốc tế. Các câu lạc bộ này liên kết với nhau thông qua chương trình tái bảo
hiểm.
Như vậy bảo hiểm thân tàu là một trong ba loại bảo hiểm hàng hải chính:
bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm hàng hóa và bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu.

II. Rủi ro và tổn thất trong bảo hiểm thân tàu
1. Rủi ro
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Rủi ro là những tai nạn, tai hoạ, sự cố xảy ra một cách bất ngờ, ngẫu
nhiên hoặc những mối đe doạ nguy hiểm, khi xảy ra thì gây tổn thất cho đối
tượng bảo hiểm.
Rủi ro trong bảo hiểm hàng hải bao gồm trước hết những rủi ro của
biển đặc trưng của hoạt động hàng hải như là chìm đắm, mắc cạn, đâm va…Bên
cạnh đó còn có những rủi ro khác cũng rất dễ phát sinh trên biển như: trộm cắp,
cháy nổ, mất tích…
Theo lịch sử phát triển của bảo hiểm hàng hải, ban đầu người bảo hiểm
chỉ nhận bảo hiểm 4 rủi ro hiểm hoạ lớn là chìm đắm, mắc cạn, đâm va, cháy nổ.
Cùng với sự phát triển thương mại quốc tế và các đội tàu, nhiều rủi ro phát sinh,
để thu hút khách hàng người bảo hiểm ngày càng nhận thêm nhiều rủi ro, tuy
nhiên nhìn chung chúng vẫn được chia thành các nhóm sau:
a. Căn cứ vào nguồn gốc sinh ra rủi ro, có thể phân thành các loại sau
đây:
- Thiên tai: là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra mà con người
không chi phối được, như: biển động, bão, lốc, sét đánh, thời tiết xấu, sóng thần,
động đất, núi lửa…
- Tai nạn bất ngờ trên biển: là những tai nạn xảy ra đối với con tàu ở
ngoài biển, như: mắc cạn, đắm, bị phá huỷ, cháy nổ, mất tích, đâm va với tàu
hoặc một vật thể cố định hay di động khác không phải là nước, phá hoại của
thuyền trưởng và thuỷ thủ trên tàu…
- Hành động của con người: ăn trộm, ăn cắp, mất cướp, chiến tranh, đình
công, bắt giữ, tịch thu…
b. Theo nghiệp vụ bảo hiểm, có ba loại rủi ro:
- Rủi ro thông thường được bảo hiểm: Bão, lốc, sóng thần, mắc cạn đâm
va,…

- Rủi ro không được bảo hiểm (còn gọi là rủi ro loại trừ): Là những rủi ro
không được người bảo hiểm nhận bảo hiểm hoặc không được người bảo hiểm
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bồi thường trong mọi trường hợp. Đó là các hành vi sai lầm cố ý của người được
bảo hiểm, những rủi ro đương nhiên xảy ra, chắc chắn xảy ra, những rủi ro có
tính thảm hoạ mà con người không lường trước được qui mô, mức độ và hậu
quả của nó.
- Rủi ro phải bảo hiểm riêng: là những rủi ro muốn được bảo hiểm thì
phải thoả thuận thêm, thoả thuận riêng chứ không được bồi thường theo các điều
kiện bảo hiểm gốc. Loại rủi ro này bao gồm rủi ro chiến tranh, đình công, khủng
bố, được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm riêng.
Các rủi ro được bảo hiểm phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra tổn thất.
Việc phân biệt nguyên nhân trực tiếp hay nguyên nhân gián tiếp có vai trò rất
quan trọng để xác định rủi ro gây ra tổn thất có phải là rủi ro được bảo hiểm hay
không. Những tổn thất nào có nguyên nhân trực tiếp là rủi ro được bảo hiểm gây
ra mới được bồi thường.
2. Tổn thất
Tổn thất là những thiệt hại, hư hỏng, mất mát của đối tượng bảo hiểm do
rủi ro gây ra. Nếu rủi ro là mối đe doạ, là nguyên nhân gây ra tổn thất thì tổn thất
là cái đã xảy ra rồi và là hậu quả của rủi ro.
a. Căn cứ vào quy mô, mức độ của tổn thất có thể chia ra:
- Tổn thất bộ phận (TTBP): là một phần của đối tượng được bảo hiểm
theo một hợp đồng bảo hiểm bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại. TTBP có thể là tổn
thất về số lượng, trọng lượng, thể tích, phẩm chất hoặc giá trị.
- Tổn thất toàn bộ (TTTB) : Là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm theo một
hợp đồng bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại.
TTTB có hai loại:
+ TTTB thực tế: là toàn bộ đối tượng được bảo hiểm theo một hợp đồng
bảo hiểm bị hư hỏng, mất mát, thiệt hại hoặc bị biến chất, biến dạng không còn

như lúc mới được bảo hiểm hay bị mất đi, bị tước đoạt không lấy lại được nữa.
Trong bảo hiểm thân tàu, TTTB thực tế là tổn thất toàn bộ con tàu khi bị đắm, bị
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nổ tung, bị phá huỷ hay phải phá huỷ, bị tước quyền sở hữu do bị cướp, bị bắt vì
buôn lậu, chở hàng trái phép…Khi bị tổn thất toàn bộ, bảo hiểm bồi thường tổn
thất toàn bộ theo số tiền bảo hiểm và không tính mức miễn đền.
+ TTTB ước tính: là trường hợp đối tượng được bảo hiểm bị thiệt hại, mất
mát chưa tới mức độ tổn thất toàn bộ thực tế, nhưng không thể tránh khỏi TTTB
thực tế; hoặc nếu bỏ thêm chi phí ra cứu chữa thì chi phí cứu chữa có thể bằng
hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm.
Trong bảo hiểm thân tàu có các dạng TTTB ước tính:
• Tàu bị cháy, bị mắc cạn, bị đắm nếu chi phí để sữa chữu, để đưa tàu
ra khỏi cạn… sẽ lớn hơn số tiền bảo hiểm;
• Tàu bị mất tích, bị cướp không xác định được giá trị thực tế, do đó
sẽ bồi thường theo tổn thất toàn bộ;
• Tàu hư hỏng nghiêm trọng, chi phí để sữa chữa lớn hơn số tiền bảo
hiểm.
Việc xác định tổn thất toàn bộ ước tính phải căn cứ vào đơn bảo hiểm
hoặc Luật bảo hiểm quốc tế. Nếu tổn thất toàn bộ ước tính xảy ra, người được
bảo hiểm từ bỏ con tàu một cách hợp lý và nhận bồi thường toàn bộ.
b. Căn cứ vào trách nhiệm bảo hiểm
- Tổn thất riêng (TTR): là những tổn thất chỉ gây ra thiệt hại cho một hoặc
một số quyền lợi của các chủ hàng và chủ tàu trên một con tàu. Như vậy TTR
chỉ liên quan đến từng quyền lợi riêng biệt. Trong TTR, ngoài thiệt hại vật chất,
còn phát sinh các chi phí liên quan đến TTR nhằm hạn chế những hư hại khi tổn
thất xảy ra, gọi là tổn thất chi phí riêng.
Tổn thất chi phí riêng là những chi phí bảo quản hàng hoá để giảm bớt
hư hại hoặc để khỏi hư hại thêm, bao gồm chi phí xếp dỡ, gửi hàng, đóng gói lại,
thay thế bao bì…ở bến khởi hành và dọc đường. Có tổn thất chi phí riêng sẽ làm

hạn chế và giảm bớt TTR.
TTR có thể là TTBP hoặc TTTB.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Tổn thất chung (TTC): là những hi sinh hay chi phí đặc biệt được tiến
hành một cách cố ý và hợp lý nhằm mục đích cứu tàu và hàng hoá chở trên tàu
thoát khỏi sự nguy hiểm chung, thực sự đối với chúng.
Muốn có TTC phải có hành động tổn thất chung. Có hành động tổn thất
chung khi và chỉ khi có sự hi sinh hoặc chi phí bất thường được tiến hành một
cách cố ý và hợp lý vì an toàn chung nhằm cứu các tài sản khỏi một tai hoạ
trong một hành trình chung trên biển.
Các thiệt hại, chi phí hoặc hành động được coi là TTC khi có các đặc
trưng sau:
- Hành động TTC phải là hành động tự nguyện, hữu ý của những người
trên tàu theo lệnh của thuyền trưởng hoặc người thay mặt thuyền trưởng;
- Hy sinh hoặc chi phí phải đặc biệt, bất thường;
- Hy sinh hoặc chi phí phải hợp lý và vì an toàn chung cho tất cả các
quyền lợi trong hành trình.
- Nguy cơ đe doạ toàn bộ hành trình phải là nghiêm trọng và thực tế;
- Mất mát, thiệt hại hoặc chi phí phải là hậu quả trực tiếp của hành động
TTC;
- TTC phải xảy ra trên biển.
TTC bao gồm hai bộ phận chủ yếu đó là hy sinh TTC và chi phí TTC.
+ Hi sinh TTC là những thiệt hại hoặc chi phí do hậu quả trực tiếp của
một hành động TTC. Ví dụ, việc vứt bỏ bớt hàng vì lý do an toàn của tàu, đốt
vật phẩm trên tàu để thay nhiên liệu…
+ Chi phí TTC là những chi phí phải trả cho người thứ ba trong việc cứu
tàu và hàng thoát nạn hoặc chi phí làm cho tàu tiếp tục hành trình.
Chi phí TTC bao gồm chi phí cứu nạn; chi phí làm nổi tàu khi đã bị mắc
cạn, chi phí thuê kéo, lai, dắt tàu khi bị nạn; chi phí tại cảng lánh nạn như: chi

phí ra vào cảng; chi phí xếp dỡ, nhiên liệu…vì an toàn chung hoặc để sữa chữa
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tạm thời; chi phí tái xếp hàng, lưu kho hàng hoá, tiền lương cho thuyền trưởng,
thuyền viên, lương thực, thực phẩm, nhiên liệu tiêu thụ tại cảng lánh nạn.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
TTC và TTR có những điểm khác nhau sau:
Tổn thất chung Tổn thất riêng
- TTC xảy ra cố ý.
- TTC liên quan đến mọi quyền lợi
trên tàu.
- TTC chỉ xảy ra trên biển.
- Với mọi điều kiện bảo hiểm, công ty
bảo hiểm đều chịu trách nhiệm bồi
thường về mức đóng góp TTC.
- TTR xảy ra một cách ngẫu nhiên.
- TTR chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi cá
biệt.
- TTR có thể xảy ra bất kỳ địa điểm nào.
- TTR có thuộc trách nhiệm bồi thường
của công ty bảo hiểm hay không là tuỳ
thuộc vào điều kiện bảo hiểm.
Để xác định tổn thất chung người ta dựa vào 4 nguyên tắc sau:
Một là: Phải có nguy cơ đe doạ thật sự cho toàn bộ hành trình, sự hy
sinh phải ở trong tình trạng bất thường. Tai hoạ đe doạ phải là thật sự có tính
chất cấp bách, đe doạ tất cả các quyền lợi có mặt trên hành trình tại thời điểm
đó. Trường hợp không có tai hoạ hoặc nghe phong phanh sẽ có tai hoạ hoặc tai
hoạ chi đe doạ một số quyền lợi thì không được coi là tổn thất chung.
Hai là: Phải là hành động hy sinh tự nguyện có dụng ý của con người

trên tàu, theo lệnh người có trách nhiệm trên tàu. Có nguy cơ đe doạ thực sự
nhưng chưa có tổn thất. Chỉ khi có hành động hy sinh tự nguyện cố ý của con
người đối với một số tài sản hoặc chi phí phát sinh thêm thì mới có tổn thất.
Nguyên nhân trực tiếp gây tổn thất là hành động của con người. Trước khi thực
hiện hành động này con người đã lường trước được tổn thất xảy ra.
Ba là: Sự hy sinh tài sản và các chi phí bỏ ra phải hợp lý, tài sản bị hy
sinh trong tổn thất chung phải còn nguyên vẹn. Tài sản đã bị tổn thất riêng
(cháyc, ngấm nước mặn…) làm hư hại rối mới hy sinh thì không được coi là tổn
thất chung. Khi vứt hàng xuống biển làm nổi tàu thì chỉ vứt đủ trọng lượng và
vứt các hàng lần lượt từ trên boong trước mới được coi là hợp lý.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bốn là: Vì an toàn chung của các quyền lợi trên tàu. Đây là nguyên tắc
thể hiện ý chí của sự hy sinh có mục đích đặt quyền lợi của tất cả các chủ hàng,
chủ tàu lên trên hết và phải thực sự đem lại an toàn chung cho tất cả các quyền
lợi trên hành trình. Sự hy sinh không vì mục đích hoặc không đem lại an toàn
chung không phải là tổn thất chung. Sự hy sinh vì an toàn chung để tránh một tai
hoạ ban đầu lại gặp phải tai hoạ thứ hai, bị một tổn thất không thể tránh khỏi
nhưng không phải là tổn thất toàn bộ cho các quyền lợi trên tàu vẫn được coi là
tổn thất chung. Tàu có nguy cơ bị đắm, buộc phải lao vào chỗ cạn và mắc cạn,
tai hoạ thứ 2 không thể tránh khỏi là tổn thất chung.
Trong sự hy sinh chi phí, có chi phí cứu nạn là hay xảy ra tranh chấp,
thuộc tổn thất chung hay tổn thất riêng. Chi phí cứu nạn là tiền công trả cho
người cứu nạn đã bỏ ra công sức, vật tư kỹ thuật để cứu tài sản đang đe doạ tổn
thất khỏi bị những thiệt hại tiếp theo. Chi phí này không được lớn hơn giá trị tài
sản đã được cứu. Có hai loại cứu nạn tự nguyện và cứu nạn theo hợp đồng. Cứu
nạn tự nguyện là hành động cứu nạn khi nghe tín hiệu cấp cứu của người bị hại.
Cứu nạn theo hợp động xảy ra khi tổn thất đã thực sự xuất hiện có thể chọn
người cứu nạn theo phương án tối ưu nhất với giá cả hợp lý nhất. Trường hợp
liên quan tới quyền lợi của nhiều người thì chi phí cứu nạn sẽ được phân bổ cho

tất cả các quyền lợi nhờ có hành động hay chi phí cứu nạn mà cứu vãn được tài
sản của họ.
Chi phí cứu nạn được trả cho người cứu nạn không phải là người được
bảo hiểm. Tiền công trả thêm cho người được bảo hiểm hay người làm thuê của
họ không phải là chi phí cứu nạn.
Việc thanh toán chi phí cứu nạn cho người cứu nạn không thuộc nghĩa
vụ của người bảo hiểm. Do đó tranh chấp vì trả ít hay không trả tiền cứu nạn dẫn
đến bắt giữ hàng hoá hoặc tàu biển không thuộc trách nhiệm của bảo hiểm.
Chi phí tại bến lánh nạn không phải là bến cuối cùng cũng được coi là
chi phí cứu nạn gồm chi phí lai dắt hoa tiêu, cảng phí, dỡ hàng, thuê kho, xếp
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hàng lên tàu hoặc chuyển tải sang tàu khác, tiền lương, nhiên liệu, thực phẩm
trong thời gian lánh nạn, sữa chữa tạm thời hay sữa chữa chính thức con tàu.
Để xem xét các chi phí trên có thuộc tổn thất chung hay không người ta
căn cứ vào 4 nguyên tắc xác định tổn thất chung. Nếu các chi phí trên để khắc
phục tổn thất riêng chỉ vì quyền lợi của một số người có quyền lợi trên hành
trình đó thì không phải là tổn thất chung.
Khi xảy ra tổn thất chung thuyền trưởng báo cáo kịp thời với chủ tàu để
họ thông báo cho hàng biết. Chủ hàng muốn nhận được hàng phải ký quỹ đóng
góp tổn thất chung hoặc bản cam kết đóng góp tổn thất chung. Chủ tàu sẽ chỉ
định người có đủ khả năng đứng ra tính toán phân bổ tổn thất. Nếu chủ tàu tuyên
bố từ bỏ hành trình vì tổn thất chung thì cũng không có quyền bỏ mặc hàng hoá
chưa bị hư hại đang trên đường hành trình. Có nghĩa là họ phải có trách nhiệm
chuyển tải, cứu trợ hàng hoá để gửi hàng về bến cuối cùng ghi trên vận tải đơn.
Phân bổ tổn thất chung: Tổn thất chung được phân bổ cho tất cả các
quyền lợi có mặt trên hàng trình, việc phân bổ tổn thất chung được tiến hành qua
5 bước như sau:
Bước 1: Xác định giá trị tổn thất chung: Bao gồm giá trị tài sản và chi
phí hi sinh do hành động tổn thất chung.

Bước 2: Xác định giá trị chịu phân bổ: Là những giá trị tài sản có mặt trên
tàu của tất cả các quyền lợi trước khi có tổn thất chung. Những tài sản bị mất
mát hư hại thuộc tổn thất riêng xảy ra trước tổn thất chung sẽ không phải tính
vào giá trị phân bổ, nhưng nếu tổn thất riêng xảy ra sau tổn thất chung thì vẫn
tính. Những tài sản hy sinh và chi phí hy sinh vì hành động tổn thất chung cũng
phải tính vào giá trị hàng vứt xuống biển, chi phí sữa chữa tạm thời cho tàu hành
trình . Gía trị chịu phân bổ được tính như sau:
Gía trị chịu Gía trị con tàu; Gía trị tổn thất riêng
phân bổ = hàng hoá khi - xảy ra trước
tổn thất chung chưa có tổn thất tổn thất chung
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tại thời điểm kết thúc hành trình, giá trị chịu phân bổ được tính như sau:
Giá trị chịu Gía trị của Gía trị tài sản đã Gía trị tổn thất
phân bổ tổn = tàu và hàng + hy sinh + chi phí + riêng xảy ra sau
thất chung khi về đến bến tổn thất chung khi tổn thất chung
Bước 3: Tính tỉ lệ phân bổ tổn thất chung.

Tỷ lệ Gía trị tài sản và chi phí tổn thất chung
phân bổ = * 100%
tổn thất chung Gía trị chịu phân bổ tổn thất chung
Bước 4: Tính số tiền đóng góp tổn thất chung của các bên (số tiền của các
bên phải có trách nhiệm đóng góp vào tổn thất chung).
Số tiền Gía trị chịu phân bổ Tỷ lệ
đóng góp = tổn thất chung của từng * phân bổ
tổn thất chung quyền lợi trên hành trình tổn thất chung
Bước5: Tính kết quả tài chính là số tiền thực sự thu về hoặc bỏ thêm của
từng chủ hàng hay chủ tàu sau khi trừ phần giá trị tài sản hoặc chi phí họ đã tự
bỏ ra trong hành động tổn thất chung.
Số tiền thu về hoặc Số tiền Gía trị tài sản

bỏ ra sau khi đóng = đóng góp - hoặc chi phí tự bỏ ra
góp tổn thất chung tổn thất chung trong tổn thất chungg
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
II. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm thân tàu
1. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm
1.1 Đối tượng bảo hiểm
Đối tượng bảo hiểm thân tàu thuỷ là toàn bộ con tàu bao gồm vỏ tàu, máy
móc, trang thiết bị trên con tàu đó có liên quan đến hoạt động của con tàu. Như
vậy thực chất bảo hiểm thân tàu là bảo hiểm giá trị con tàu đó, bao gồm giá trị
vỏ tàu, máy móc và trang thiết bị.
1.2 Phạm vi bảo hiểm
Việc xác định phạm vi bảo hiểm là xác định những rủi ro đựơc bảo hiểm
làm căn cứ xét bồi thường. Phạm vi bảo hiểm vừa có liên quan đến người tham
gia, vừa liên quan đến người bảo hiểm.
Phạm vi bảo hiểm thân tàu thường liên quan đến các rủi ro chính như
chìm đắm, mắc cạn, đâm va, cháy nổ. (Đâm va ở đây được giới hạn trong phạm
vi: Đâm va giữa tàu với tàu, tàu với công trình kiến trúc được xây dựng trên
biển, trên cảng…đâm va giữa tàu với các vật thể nổi, vật thể di động…)Phạm vi
bảo hiểm thân tàu còn bao gồm tàu mất tích do mọi lý do, tàu hư hại do lỗi lầm
của thuỷ thủ đoàn, do cướp biển…
Người được bảo hiểm có thể xem xét bảo hiểm thêm những rủi ro có thể
bảo hiểm nếu người tham gia (chủ tàu) yêu cầu và nộp thêm phí. Chẳng hạn chủ
tàu yêu cầu bảo hiểm thêm trường hợp tàu đi chệch hướng, thay đổi hành trình
hoặc chậm trễ hành trình…người bảo hiểm phải xem xét rất cụ thể từng trường
hợp để chấp nhận hay không.
Phạm vi bảo hiểm thường gắn kết với chế độ bảo hiểm. Trong bảo hiểm
thân tàu người ta áp dụng hai chế độ bảo hiểmP: Chế độ bảo hiểm theo rủi ro
đầu tiên và chế độ bảo hiểm miễn thường (vượt mực giới hạn) gồm miễn thường
chung, miễn thường tổn thất do rủi ro phụ gây ra và miễn thường do tàu vi phạm

qui định (không thông báo tổn thất).
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2. Các điều kiện bảo hiểm thân tàu
2.1 Điều kiện bảo hiểm tổn thất toàn bộ (TLO)
Theo điều kiện này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường:
a. Tổn thất toàn bộ thực tế.
Tổn thất toàn bộ thực tế là tổn thất toàn bộ con tàu khi bị đắm, bị nổ
tung, bị phá huỷ hay phải phá huỷ, bị tước quyền sở hữu do bị cướp, bị bắt vì
buôn lậu, chở hàng trái phép…Khi bị tổn thất toàn bộ, bảo hiểm bồi thường tổn
thất toàn bộ theo số tiền bảo hiểm và không tính mức miễn đền.
b. Tổn thất toàn bộ ước tính.
Tổn thất toàn bộ ước tính là dạng tổn thất tuy ở mức độ tổn thất toàn bộ
nhưng khó có thể tránh khỏi hoặc muốn tránh khỏi phải bỏ ra một số chi phí lớn
hơn số tiền bảo hiểm của con tàu đó.
Các dạng tổn thất toàn bộ ước tính:
- Tàu bị cháy, bị mắc cạn, bị đắm nếu chi phí để sửa chữa, để đưa tàu ra
khỏi cạn…sẽ lớn hơn số tiền bảo hiểm;
- Tàu bị mất tích, bị cướp không xác định đựơc giá trị thực tế, do đó sẽ
bồi thường theo tổn thất toàn bộ;
- Tàu hư hỏng nghiêm trọng, chi phí để sửa chữa lớn hơn số tiền bảo
hiểm.
Việc xác định tổn thất toàn bộ ước tính phải căn cứ vào đơn bảo hiểm
hoặc Luật bảo hiểm quốc tế. Nếu tổn thất toàn bộ ước tính xảy ra, người được
bảo hiểm từ bỏ con tàu một cách hợp lý và nhận bồi thường toàn bộ.
c. Chi phí cứu nạn.
Chi phí cứu nạn là những chi phí phát sinh để cứu tàu khi gặp tai nạn
trong trường hợp khẩn cấp như chi phí kéo tàu ra khỏi cạn, lai dắt tàu hỏng…
Chi phí này được phân bổ theo giá trị tàu được cứu kể cả hàng hoá chở trên tàu
đó.

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tóm lại, điều kiện bảo hiểm tổn thất toàn bộ (TLO) có phạm vi hẹp nhất.
Nó chỉ được bảo hiểm khi tàu bị tổn thất toàn bộ thực tế hoặc nằm trong nguy cơ
tổn thất toàn bộ thực tế là không tránh khỏi hoặc tránh khỏi bằng cứu nạn.
2.2 Điều kiện bảo hiểm loại trừ tổn thất bộ phận thân tàu (FOD).
Điều kiện bảo hiểm FOD có phạm vi rộng hơn TLO. Cụ thể:
- Bảo hiểm mọi tổn thất và chi phí mà TLO gánh chịu (a+b+c);
- Bảo hiểm thêm các tổn thất và chi phí:
d. Chi phí tố tụng, đề phòng và hạn chế tổn thất, với điều kiện chi phí này
phát sinh do rủi ro, tổn thất được bảo hiểm;
e. Chi phí trách nhiệm đâm va
Chủ tàu được bảo hiểm phải bồi thường trách nhiệm cho chủ tàu hoặc chủ
tài sản khác do tàu mình đâm va gây thiệt hại cho họ và mình có lỗi. Chi phí đó
đựơc bảo hiểm gánh chịu nếu chủ tàu tham gia bảo hiểm theo điều kiện FOD.
f. Chi phí đóng góp tổn thất chung
Tổn thất chung chỉ xảy ra trên biển. Tổn thất chung sau khi đã tính toán
được phân bổ cho chủ tàu theo quyền lợi chủ tàu được cứu. Chi phí đóng góp
vào tổn thất chung này đựơc bảo hiểm bồi thường lại cho chủ tàu theo điều kiện
FOD.
2.3 Điều kiện bảo hiểm loại trừ tổn thất riêng về thân tàu (FPA).
Điều kiện bảo hiểm FPA vừa gánh chịu mọi tổn thất và chi phí của FOD,
vừa đảm trách thêm:
g. Tổn thất bộ phận của tàu do hành động tổn thất chung và chỉ hạn chế
trong một bộ phận nhất định của tàu như những bộ phận dễ hư hỏng do tổn thất
chung gây ra. Chẳng hạn hệ thống đèn điện, máy ướp lạnh, buồm neo, tời, nồi
hơi phụ;
h. Tổn thất riêng, tổn thất bộ phận của tàu do va chạm với tàu khác trong khi
cứu nạn hay do cứu hoả trên tàu.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mặc dù điều kiện FPA loại trừ tổn thất riêng nhưng vẫn bảo hiểm tổn thất
riêng trong 2 trường hợp khẩn cấp - đó là trường hợp cứu hoả và cứu nạn gây
đâm va với tàu khác.
2.4 Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro (ITC).
Ngoài các rủi ro mà FPA đã bảo hiểmN, ITC còn bảo hiểm thêm:
i. Tổn thất bộ phận của tàu do hành động tổn thất chung gây ra ngoài những
bộ phận nhất định đã kể ở điểm (g);
j. Tổn thất riêng, tổn thất bộ phận của tàu và máy móc thiết bị do tai nạn bất
ngờ gây ra ngoài điểm (h).
Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro là điều kiện bảo hiểm rộng nhất, bao gồm
tất cả mọi tổn thất và chi phí liên quan đến tổn thất. Hai điểm (i) và (k) bổ sung
thêm để bao hàm hết các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm.
Ta có thể tóm tắt 4 điều kiện bảo hiểm như sau:
Phạm vi bảo hiểm
TLO

FOD

FPA

ITC
a. Tổn thất thực tế
b. Tổn thất toàn bộ ước tính
c. Chi phí cứu nạn
d. Chi phí tố tụng, đề phòng hạn chế
tổn thất
e. Chi phí trách nhiệm đâm va
f. Chi phí đóng góp vào tổn thất
chung

g. Tổn thất bộ phận nhất định do
hành động tổn thất chung và chỉ hạn chế
trong một số bộ phận nhất định
h. Tổn thất riêng vì cứu hoả, đâm va

+

+

+

-

-

-


+

+

+

+

+

+



+

+

+

+

+

+


+

+

+

+

+

+

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
khi cứu nạn
i. Tổn thất bộ phận khác do hành

động tổn thất chung gây ra, ngoài điểm (g)
k. Tổn thất riêng vì mọi rủi ro tai
nạn khác, ngoài điểm (h)
-

-
-

-
+

-
+

+
3. Gía trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm
3.1 Gía trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm của tàu là tổng giá trị của tàu lúc bắt đầu bảo hiểm, kể
cả máy móc, trang thiết bị, dụng cụ, đồ đạc, phụ tùng, đồ dự trữ, lương thực,
thực phẩm cho thuỷ thủ, tiền lương ứng trước, các chi phí cần thiết để chuẩn bị
cho chuyến đi, cộng với phí bảo hiểm toàn bộ tàu.
Giá trị bảo hiểm của cước phí là tổng tiền cước vận chuyển cộng với phí
bảo hiểm. Ở Việt Nam, giá trị bảo hiểm của tàu được xác định trên cơ sở giá trị
thực tế của tàu. Gía trị thực tế của tàu được xác định theo giá tàu thuyền trên thị
trưòng trong nước hoặc thị trường quốc tế cùng loại.
Giá trị bảo hiểm ghi trên hợp đồng bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm cao
nhất mà người bảo hiểm nhận trách nhiệm bồi thường đối với một vụ tổn thất.
3.2 Số tiền bảo hiểm
Bảo hiểm thân tàu là dạng bảo hiểm tài sản, cho nên số tiền bảo hiểm
(STBH) được tính trên cơ sở giá trị theo giá thị trường của đối tượng bảo hiểm.

Điều đó có nghĩa là STBH bao gồm giá trị vỏ tàu, máy móc và trang thiết bị trên
con tàu. Thông thường, chủ tàu bảo hiểm thấp hơn giá trị con tàu vì thực tế tàu ít
khi gặp tổn thất toàn bộ. Trong trường hợp chủ tàu tham gia bảo hiểm theo điều
kiện “ Bồi thường tổn thất đầu tiên”, khi có tổn thất phát sinh, nếu các tổn thất
nhỏ hơn hoặc bằng STBH, bảo hiểm sẽ bồi thường theo thiệt hại thực tế; nếu tổn
thất lớn hơn STBH, bảo hiểm sẽ bồi thường bằng STBH.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chủ tàu không chỉ đăng kí bảo hiểm con tàu mà còn đăng ký bảo hiểm
cước phí chuyên chở hàng hoá, chi phí điều hành.
Cước phí chuyên chở hàng hoá là số tiền cước mà chủ tàu phải trả lại cho
chủ hàng do chủ tàu không đưa hàng về đến bến (vì bị thất lạc, tổn thất). Theo
quy định, tiền bảo hiểm cước phí cao nhất bằng 25% STBH thân tàu.
Chi phí điều hành là những chi phí quản lý, lãi kinh doanh… Chủ tàu
bảo hiểm thêm chi phí điều hành nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh. STBH
chi phí điều hành cao nhất bằng 25% STBH thân tàu (theo qui định của ITC sửa
đổi ngày 1/10/1983).
Vậy STBH thân tàu gồm: STBH thân con tàu, STBH cước phí chuyên
chở và STBH chi phí điều hành.
4. Phí bảo hiểm thân tàu
4.1. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là số tiền mà người tham gia (chủ tàu) nộp cho công ty
bảo hiểm trên cơ sở STBH và tỷ lệ phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm thân tàu bao gồm:
- Phí bồi thường cho tổn thất toàn bộ;
- Phí bồi thường tổn thất bộ phận bao gồm các chi phí sửa chữa tạm
thời, chính thức và chưa sửa chữa.
- Phụ phí gồm chi phí quản lý, chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi
phí tuyên truyền quảng cáo…
Vậy:

Phí bảo Phí bồi Phí bồi Phụ
hiểm = thường tổn + thường tổn + phí
thân tàu thất toàn bộ thất bộ phận khác
• Phí bồi thường tổn thất toàn bộ = Số tiền bảo hiểm * Tỷ lệ phí.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tỷ lệ phí phụ thuộc vào độ tuổi, tầm vóc và trang thiết bị của tàu. Tàu
càng già (trên 15 tuổi), tầm vóc càng lớn trang thiết bị càng kém hiện đại… thì
tỷ lệ phí càng cao.
• Phí bồi thường tổn thất bộ phận phụ thuộc vào tình trạng bảo dưỡng
sữa chữa, vào tuyến đường và phạm vi hoạt động của tàu, vào tình trạng tổn thất
các năm trước đó của đội tàu…
• Phụ phí khác thì phụ thuộc vào chi phí quản lý hành chính, chi phí
đề phòng hạn chế tổn thất, lập quĩ dự phòng, tỷ lệ lạm phát mất giá đồng tiền…
Cũng như các nghiệp vụ khác, phí bảo hiểm thân tàu phải đóng ngay sau
khi hợp đồng có hiệu lực. Nếu tàu ngừng hoạt động liên tục (30 ngày trở lên)
sau khi đã đóng phí, bảo hiểm sẽ hoàn lại phí (do tàu ngừng hoạt độngd). Mỗi
nước, có quy định riêng về tỷ lệ hoàn phí bảo hiểm cho tàu ngừng hoạt động liên
tục (30 ngày trở lên) phù hợp với điều kiện bảo hiểm nước đó.
Số ngày tàu
ngừng hoạt động
Số phí = Số phí * Tỷ lệ phí hoàn lại *
hoàn lại bảo hiểm Số ngày trong
đóng cả năm năm (365)
4.2. Tỷ lệ phí bảo hiểm
- Tỷ lệ phí bảo hiểm hàng năm áp dụng cho các loại tàu, nhóm tàu do người
bảo hiểm (NBH) tính toán phù hợp với từng điều kiện bảo hiểm, trên cơ sở cân
đối chung tình hình tổn thất của các đội tàu tham gia bảo hiểm bởi NBH.Tỷ lệ
phí sẽ thông báo cho người được bảo hiểm (NĐBH) vào tuần đầu tháng 12 của
năm trước năm bảo hiểm.

- Tỷ lệ phí sẽ được điều chỉnh tăng cho các tàu có tỷ lệ bồi thường tổn thất
lớn và điều chỉnh giảm cho các tàu, chủ tàu có tỷ lệ bồi thường thấp hoặc không
có tổn thất. Tuy vậy về nguyên tắc, tỷ lệ phí bảo hiểm sẽ do hai bên thoả thuận.
4.3. Loại tiền nộp phí bảo hiểm
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Loại tiền nộp phí bảo hiểm phụ thuộc vào địa bàn hoạt động của tàu. Cụ
thể: tàu hoạt động tuyến nước ngoài, phí bảo hiểm thanh toán bằng Đô-la Mỹ,
tàu hoạt động trong vùng lãnh hải Việt Nam, phí bảo hiểm thanh toán bằng đồng
Việt Nam. Ngoài ra việc lựa chọn loại tiền đóng phí bảo hiểm còn phụ thuộc vào
các quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tại thời điểm thanh toán.
4.4.Thời hạn thanh toán phí
Tùy thuộc vào thời hạn tham gia bảo hiểm, cụ thể:
• Đối với tàu tham gia bảo hiểm thời hạn 1 năm phí bảo hiểm được thanh
toán làm 04 kỳ (theo thông báo thu phí bảo hiểm), hoặc theo các tháng trong
năm.
• Đối với tàu tham gia bảo hiểm trên 06 tháng, phí bảo hiểm được thanh
toán làm 02 kỳ, mỗi kỳ 1/2 số phí ghi trên Thông báo thu phí vào 15 ngày đầu
mỗi kỳ.
• Tàu tham gia bảo hiểm thời gian dưới 06 tháng, phí bảo hiểm thanh toán
1 lần sau 15 ngày kể từ ngày cấp đơn bảo hiểm.
• Trường hợp tàu được bảo hiểm theo thời hạn mà bị tổn thất toàn bộ thì
sau 15 ngày kể từ ngày tàu bị tổn thất toàn bộ, NĐBH phải thanh toán toàn bộ số
phí bảo hiểm còn lại cho tàu chưa đến kỳ thanh toán.
• Trường hợp bảo hiểm chuyến, phí bảo hiểm thanh toán toàn bộ 1 lần
ngay khi cấp Đơn bảo hiểm theo Thông báo thu phí của NBH.
• Phí bảo hiểm được coi là thanh toán đầy đủ và đúng hạn khi tiền đã vào
tài khoán của người bảo hiểm, hoặc có xác nhận của Ngân hàng về việc chuyển
trả phí bảo hiểm của người được bảo hiểm theo đúng thời hạn và số tiền ghi trên
Thông báo thu phí và Giấy sửa đổi bổ sung ( nếu có ).

• Nếu NĐBH không thanh toán phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn thì
ngoài việc phải thanh toán số phí cho thời gian tàu đã bảo hiểm, NĐBH còn phải
thanh toán cả lãi suất của số phí còn nợ theo tỷ lệ lãi vay Ngân hàng cho thời
gian tính từ ngày phát sinh nợ đến ngày thanh toán ( trừ trường hợp có thoả
thuận khác bằng văn bản ).
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
4.5. Phương thức thanh toán phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm được thanh toán vào tài khoản của NBH theo quy định về
phương thức thanh toán hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
4.6. Hoàn phí bảo hiểm
• Điều kiện hoàn phí bảo hiểm:
NBH hoàn phí bảo hiểm khi NĐBH thông báo trước cho NBH bằng văn
bản ngày tàu bắt đầu huỷ bảo hiểm, ngừng hoạt động để sửa chữa, địa điểm an
toàn để tàu ngừng hoạt động được NBH chấp thuận, ngày tàu hoạt động trở lại
và trong năm tàu không bị tổn thất toàn bộ.
• Tỷ lệ hoàn phí.
− Trường hợp huỷ bảo hiểm: 90% số phí cho thời gian huỷ.
− Trường hợp tàu ngừng hoạt động không sửa chữa đậu ở Cảng trong nước: 75%
− Trường hợp tàu đậu ở nước ngoài hoặc đang sửa chữa trong nước hoặc
nước ngoài: 65%.
− Thời gian hoàn phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm chỉ được hoàn vào lần thu phí của kỳ tiếp theo.
5. Trách nhiệm của các bên trong bảo hiểm thân tàu
5.1. Người bảo hiểm
Người bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập và hoạt
động theo luật kinh doanh bảo hiểm bao gồm kinh doanh bảo hiểm và kinh
doanh tái bảo hiểm.
Trong bảo hiểm thân tàu, các công ty bảo hiểm có quyền thu phí bảo
hiểm của các chủ tàu, thực hiên công tác đề phòng hạn chế tổn thất cho các chủ

tàu đồng thời có trách nhiệm bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm trong
trường hợp xảy ra tổn thất cho chủ tàu (người được bảo hiểm).
Các công ty bảo hiểm phải bồi thường tổn thất theo phạm vi trach nhiệm
mà mình đã nhận để giúp các chủ tàu ổn định kinh tế khôi phục hoạt động sản
xuất của mình.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
5.2. Người được bảo hiểm
Người được bảo hiểm có thể là người chủ tàu hoặc người kinh doanh
khai thác con tàu dưới dạng thuê tàu định hạn. Người được bảo hiểm phải có
nghĩa vụ đóng phí đầy đủ theo hợp đồng bảo hiểm, thực hiện công tác đề phòng
hạn chế tổn thất mà các doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu đồng thời có quyền đòi
các công ty bảo hiểm bồi thường khi tổn thất, rủi ro xảy ra thuộc phạm vi bảo
hiểm. Mặc dù không cam kết trong hợp đồng nhưng theo tập quán quốc tế người
được bảo hiếm phải có trách nhiệm đảm bảo cho con tàu được bảo hiểm đạt
các ngụ ý đảm bảo sau:
- Tàu đủ khả năng đi biển trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm,
bao gồm các yếu tố:
• Tàu phải có đầy đủ trang thiết bị đang ở trong trạng thái hoạt động rất
tốt phục vụ cho việc kinh doanh khai thác sử dụng tàu hợp lý, bảo quản sữa chữa
bảo dưỡng đăng kiểm thường xuyên định kỳ, kiểm tra xử lý những hư hỏng kịp
thời. Những hư hại phát sinh mà trước đó bằng phương tiện kiểm tra hợp lý cần
mẫn vẫn không phát hiện được làm cho tàu không đủ khả năng đi biển vẫn
thuộc trách nhiệm của người được bảo hiểm.
• Việc xếp hàng lên tàu phải đảm bảo trọng tải, làm cho tàu cân đối, sắp
xếp hàng vào những nơi thích hợp không bị tổn thất vì lỗi chất xếp thương mại
gây nên.Tai nạn tổn thất gây ra do vi phạm quy định này là lỗi của người được
bảo hiểm.
• Tàu phải đảm bảo đầy đủ nhiên liệu vật liệu, lương thực thực phâm và
trang thiết bị thích hợp trên từng chặng đường trong suốt hành trình quy định.

• Tàu phải biên chế đầy đủ người làm việc, có đội ngũ sỹ quan thuỷ thủ
thuyền viên thực sự giúp ích cho tàu.
• Người được bảo hiểm phải có đầy đủ khả năng tài chính ngay cả khi gặp
thiên tai tai nạn phát sinh thêm chi phí.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×