Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

BÀI BÁO CÁO THỰC TẬP-TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.85 KB, 19 trang )

Bảo hiểm thương mại (C2.1)
Đăng bởi admin vào ngày 12 tháng 09 năm 2012 | 0 Bình luận | 321 Lượt xem
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi,
theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở
bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
2.1. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI
2.1.1. Khái niệm về bảo hiểm thương mại
Bảo hiểm thương mại còn được gọi là bảo hiểm kinh doanh
Theo điều 3, chương 1, luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam định nghĩa về kinh doanh bảo
hiểm như sau:
"Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi,
theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên
mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm"
Ta có thể phân biệt điểm khác nhau giữa hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hoạt động
của các loại bảo hiểm phi lợi nhuận như sau:
Kinh doanh bảo hiểm
Hoạt động của các loại bảo hiểm phi
lợi nhuận
- Cơ
quan
thực hiện
Các doanh nghiệp bảo hiểm:
doanh nghiệp nhà nước, công
ty cổ phần, doanh nghiệp tư
nhân
Cơ quan quản lý nhà nước như cơ
quan bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y
tế, tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam


- Mục
đích Lợi nhuận
Phi lợi nhuận (quản lý nhà nước, ổn
định cuộc sống của nhân dân, an toàn
xã hội)
Như vậy, bảo hiểm thương mại là loại hình bảo hiểm được thực hiện, triển khai bởi các
doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm nhằm mục đích sinh lời. Theo đó doanh
nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người mua bảo hiểm đóng phí để doanh
nghiệp cam kết trả tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm
khi xảy ra rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm đã thoả thuận trên hợp đồng bảo hiểm.
Hoạt động bảo hiểm thương mại ở Việt Nam tuân theo các quy định của luật kinh doanh
bảo hiểm CHXHCN Việt Nam.
2.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm thương mại
Nhu cầu an toàn của cá nhân và tổ chức trong xã hội là vĩnh cửu, lúc nào con người cũng
tìm cách để bảo vệ chính bản thân và tài sản của mình trước những bất hạnh của số phận
và những biến cố bất ngờ xảy ra trong sản xuất kinh doanh. Ngay từ thời cổ đại đã xuất
hiện những tổ chức gần giống với bảo hiểm, chẳng hạn, Khoảng năm 4500 trước Công
nguyên, những người thợ đẽo đá ở Ai Cập đã lập ra các quỹ tương hỗ để giúp đỡ, chia sẻ
rủi ro cho những người gặp hoạn nạn. Những người Trung Hoa cổ đại, thời nhà Chu vào
khoảng những năm 500 trước Công nguyên cũng đã sử dụng kỹ thuật phân chia rủi ro
đơn giản bằng cách tổ chức các đoàn thuyền vận chuyển hàng hóa và súc vật trên dòng
sông Dương Tử, trong đó hàng hóa của mỗi chủ hàng được chia nhỏ cho mỗi thuyền
chuyên chở và nếu chiếc nào bị chìm thì các thương gia cùng nhau gánh chịu.
Ở Babylone, vào khoảng năm 1700 trước Công nguyên và ở Athens (Hy Lạp) khoảng
năm 500 trước Công nguyên đã xuất hiện quan hệ tín dụng với lãi suất rất cao trong lĩnh
vực buôn bán, vận chuyển hàng hóa trên biển và qua sa mạc. Điều đặc biệt trong quan hệ
tín dụng này là nếu hàng hóa bị tổn thất thì người cho vay phải chịu rủi ro mất vốn và lãi.
Tại Rôme - Italia, hệ thống cho vay với điều kiện tương tự cũng đã ra đời, lãi suất có thể
lên đến 50%. Thực chất đó đã là một sự kết hợp giữa hoạt động tín dụng với ý đồ bảo
hiểm và do đặc trưng bằng cơ chế lãi suất cao đi đôi với chấp nhận rủi ro nên được mệnh

danh là "cho vay mạo hiểm lớn". Lãi suất cao có thể hiểu như tiền thân của phí bảo hiểm.
Hoạt động cho vay mạo hiểm lớn tồn tại khá lâu và phố biến trên nhiều khu vực trên thế
giới. Tại Rôme - Italia, kéo dài đến tận thời kỳ Trung Cổ - thời kỳ thống trị của Nhà thờ
Thiên chúa giáo. "Cho vay mạo hiểm lớn" đã bị lạm dụng và vào năm 1234, Giáo hoàng
Grégoire IX đã ra sắc lệnh nghiêm cấm hoạt động cho vay nặng lãi. Vấn đề đặt ra là cần
phải tìm ra một phương thức bảo đảm cho các khoản tín dụng mà chủ nhà băng đã cấp
cho nhà buôn (con nợ có rủi ro cao) khi không còn sự bảo đảm bằng lãi suất "cắt cổ".
Trước sự đòi hỏi đó, đã hình thành một hệ thống bảo đảm mới - bảo hiểm hàng hải: các
nhà buôn chấp nhận một khoản tiền ấn định trước, để nhận được đảm bảo giá trị tàu
thuyền và hàng hóa chuyên chở trong trường hợp tổn thất. Những thỏa thuận bảo hiểm
đầu tiên được gắn liền với hoạt động thương mại và vận chuyển hàng hóa bằng đường
biển đã ra đời vào khoảng giữa thế kỷ 14. Bút tích của bản hợp đồng bảo hiểm cổ xưa
nhất mà người ta tìm thấy được ký kết tại Genoa, Italia năm 1347, và cũng chính tại
Genoa, Italia năm 1424, công ty bảo hiểm hàng hải đầu tiên ra đời, đánh dấu sự phát triến
của ngành bảo hiểm và sự ra đời của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Có thể đã có những
bản hợp đồng cổ hơn mà người ta không tìm thấy do chúng đã bị hủy ngay sau khi con
tàu cập bến - đồng nghĩa với việc thực hiện xong bảo đảm.
Sau bảo hiểm hàng hải, tiếp đến là sự ra đời của các loại bảo hiểm khác. Tại London,
ngày 2 tháng 9 năm 1666 hoả hoạn đã xảy ra và kéo dài trong nhiều ngày, thiêu cháy
khoảng 13.200 nóc nhà, trong đó 87 nhà thờ. Mức độ nghiêm trọng của thảm họa đó đã
khiến các nhà chức trách thành phố London mở văn phòng cháy đầu tiên vào năm 1667.
Năm 1684, công ty bảo hiểm cháy đầu tiên ra đời, lấy tên là Friendly Society Fire Office.
Công ty hoạt động trên nguyên tắc tương hỗ với hệ thống phí bảo hiểm cố định, người
được bảo hiểm phải chịu một phần thiệt hại xảy ra. Sau đó, nhiều công ty bảo hiểm cháy
khác tiếp tục ra đời ở nước Anh, như là: Amicable (1696); Sun (1710); Union (1714);
London (1714); Westminister (1717). Tại Pháp, Văn phòng bảo hiểm hỏa hoạn mang tên
"La Royal Incendie" do CLAVER thành lập năm 1786 tại Paris. Hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ cổ xưa nhất được lưu giữ đến ngày nay đã được ký năm 1583 tại London và vào
năm 1762, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên có tên là Equitable được thành lập tại
nước Anh.

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển mạnh mẽ nhất từ cuối thế kỷ XVII và đến nay
nó đã trở thành lĩnh vực kinh doanh đặc biệt và phổ biến ở tất cả các nền kinh tế trên thế
giới.
2.1.3. Phân loại bảo hiểm thương mại
Có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại bảo hiểm thương mại, tuỳ theo mục đích và ý
nghĩa nghiên cứu. Hiện nay, một số tiêu thức thường được sử dụng là: tính chất pháp lý,
kỹ thuật bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, luật kinh doanh bảo hiểm và lịch sử ra đời của
các nghiệp vụ bảo hiểm
2.1.3.1. Căn cứ vào tính chất pháp lý
Căn cứ vào tiêu thức này bảo hiểm thương mại được chia làm hai loại: bảo hiểm bắt
buộc và bảo hiểm tự nguyện.
Bảo hiểm tự nguyện
Là những loại bảo hiểm mà hợp đồng được giao kết dựa hoàn toàn trên sự cân nhắc
và nhận thức của bên mua bảo hiểm. Đây chính là tính chất vốn có của bảo hiểm
thương mại khi nó có vai trò như là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt
của con người. Đại bộ phận các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc loại bảo hiểm tự nguyện.
Bảo hiểm bắt buộc
Loại bảo hiểm này được pháp luật áp dụng khi đối tượng cần mua bảo hiểm không
chỉ cần thiết cho một số ít người mà là yêu cầu của toàn xã hội với mục đích bảo vệ
lợi ích cho cộng đồng và an toàn xã hội. Ví dụ: bảo hiểm hành khách, bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba Điểm đáng lưu ý là bắt
buộc nhưng không làm mất đi tính tự nguyện và bình đẳng trong quan hệ hợp đồng
khi các bên được tự nguyện lựa chọn đối tác và thoả thuận những vấn đề không phải
tuân theo quy định thống nhất của pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay có các loại bảo
hiểm bắt buộc sau:
Theo quy định tại khoản 2, điều 8, chương I, luật kinh doanh bảo hiểm CHXHCN
Việt Nam, bảo hiểm bắt buộc bao gồm:
a) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách;
b) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật;

c) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm;
d) Bảo hiểm cháy, nổ.
Theo luật hàng hải CHXHCN Việt nam (chương XVI, điều 23 ), bắt buộc về bảo
hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển đối với tàu biển chuyên dùng để vận
chuyển dầu mỏ, chế phẩm từ dầu mỏ hoặc hàng hoá nguy hiểm khác đối với ô
nhiễm môi trường khi hoạt động tại vùng nước các cảng biển và khu vực hàng hải
khác của Việt Nam.
Trên thế giới, các loại bảo hiểm bắt buộc khá đa dạng tại một số nước, ví dụ: ở Pháp
có đến gần 100 loại bảo hiểm bắt buộc. Quan hệ thị trường bảo hiểm càng phát triển
thì các loại bảo hiểm bắt buộc dường như càng phong phú hơn. Điều đó tồn tại trong
một lĩnh vực kinh doanh có vẻ giống như một nghịch lý, song nghịch lý đó vẫn
được chấp nhận vì nhiều lý do. Lý do cơ bản nhất liên quan tới chức năng bảo vệ
trật tự xã hội của các Nhà nước. Nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, an toàn chung, Nhà
nước buộc phải sử dụng công cụ luật pháp để can thiệp vào việc bảo hiểm cho một
số đối tượng nếu như vấn đề đối tượng đó có được bảo hiểm hay không sẽ can hệ
đến lợi ích của nhiều thành viên xã hội, ví dụ: trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
đối với người thứ ba.
Thực tế ở nhiều nước, sự bắt buộc được áp dụng nhiều đối với loại bảo hiểm trách
nhiệm dân sự. Những nghề nghiệp như là: tư vấn pháp luật, kiểm toán, môi giới
chứng khoán, cung cấp dịch vụ y tế, thiết kế xây dựng ,với yêu cầu chuyên môn
cao và kỹ năng phức tạp nên vẫn tiềm ẩn khả năng xảy ra sai sót, gây tổn hại lớn
cho người sử dụng dịch vụ. Trong trường hợp này, bảo hiểm bắt buộc là xuất phát từ
mục đích bảo đảm nguồn tài chính để người cung cấp dịch vụ thực hiện nghĩa vụ
bồi thường đối với khách hàng nếu chẳng may rủi ro phát sinh
Trên cơ sở quy định phân loại bảo hiểm bắt buộc hoặc tự nguyện, mỗi doanh nghiệp
bảo hiểm có những biện pháp thích hợp để tổ chức hệ thống phân phối sản phẩm,
khai thác dịch vụ bảo hiểm. Tuyệt nhiên, các doanh nghiệp bảo hiểm không được lợi
dụng bằng cách giải thích sai lệch tính chất bắt buộc trong giao kết hợp đồng bảo
hiểm. Cần nhấn mạnh rằng bảo hiểm bắt buộc không trao bất kỳ đặc quyền nào cho
doanh nghiệp bảo hiểm. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể

có được bằng việc hoàn thiện sản phẩm bảo hiểm, cung cấp dịch vụ có chất lượng
cho khách hàng ngay cả khi đó là loại bảo hiểm bắt buộc.
2.1.3.2. Căn cứ vào kỹ thuật bảo hiểm
Theo cách phân loại này các loại hình bảo hiểm được chia làm hai loại: loại dựa trên
kỹ thuật phân bổ và loại dựa trên kỹ thuật dồn tích vốn.
Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật phân bổ
Là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất ổn định theo thời gian và
thường độc lập với tuổi thọ con người. Hợp đồng loại này thường là ngắn hạn (nhỏ
hơn hoặc bằng một năm). Như vậy, thời hạn của các hợp đồng bảo hiểm có thể sẽ
nằm gọn trong 1 năm tài chính hoặc kéo dài qua 2 năm tài chính liên tiếp của doanh
nghiệp bảo hiểm. Phí bảo hiểm được nộp một lần toàn bộ khi giao kết hợp đồng bảo
hiểm hoặc được chia ra nộp trong vài ba kỳ.
Kỹ thuật phân bổ đòi hỏi việc xác định kết quả kinh doanh của từng năm tài chính
vào thời điểm khoá sổ niên độ kế toán (31/12) phải tính đến các dự phòng nghiệp vụ
đặc trưng của kỹ thuật phân chia, đó là: dự phòng phí và dự phòng bồi thường.
- Việc trích lập dự phòng phí xuất phát từ sự so lệch giữa thời hạn của các hợp đồng
bảo hiểm và năm tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm vẫn
được ký kết liên tục trong nhiều thời điểm trong năm. Không ít hợp đồng bảo hiểm
có thời hạn kéo dài sang năm tài chính tiếp theo. Vì thế khi khoá sổ niên độ kế toán,
phải trích một phần phí bảo hiểm đã thu để lại, nhằm thực hiện cam kết bồi thường
(hoặc trả tiền bảo hiểm) cho trường hợp sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời hạn hiệu
lực còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Việc trích lập dự phòng phí được minh hoạ
trong sơ đồ 2.1
Sơ đồ 2.1: Minh hoạ việc trích lập dự phòng phí bảo hiểm
Phí đã thu của các hợp đồng bảo hiểm có thời hạn không trùng với năm tài chính
của doanh nghiệp bảo hiểm ( kéo dài từ 1/1 đến 31/12 ) sẽ được dành lại một phần
theo cho năm sau. Trường hợp trong sơ đồ trên, khoản phí bảo hiểm thu được trong
năm n phải để lại cho năm sau (năm n +1) là 1/2 phí bảo hiểm (đã trừ đi chi phí ký
kết hợp đồng bảo hiểm)
Dự phòng bồi thường. Thực tế, vì nhiều lý do nên vẫn có những sự kiện bảo hiểm đã

xảy ra trong năm nhưng cho đến 31/12 (thời điểm khoá sổ niên độ kế toán năm tài
chính của doanh nghiệp bảo hiểm) vẫn chưa được giải quyết thanh toán bồi thường
(hoặc trả tiền bảo hiểm). Có những nghiệp vụ bảo hiểm mà trách nhiệm thanh toán
bồi thường vẫn còn đeo đẳng doanh nghiệp bảo hiểm nhiều năm sau thời điểm kết
thúc thời hạn bảo hiểm, như là bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm cho rủi ro
bệnh tật Dự phòng bồi thường được trích lập từ phí bảo hiểm nhằm thanh toán
cho những vụ tổn thất, khiếu nại còn tồn đọng, cụ thể là các dạng: tổn thất xảy ra
chưa được thông báo; tổn thất đã được khai báo nhưng chưa xác định được trách
nhiệm bồi thường.
Dự phòng nghiệp vụ được tính cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và như vậy, phần phí
bảo hiểm phân bổ cho một năm tài chính sẽ bằng phí bảo hiểm thu được trong năm
của nghiệp vụ xác định cộng hoàn nhập dự phòng nghiệp vụ đầu kỳ (số trích lập dự
phòng cuối kỳ của năm tài chính trước) trừ đi số trích lập dự phòng cuối kỳ của
năm.
Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật dồn tích vốn
Là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất thay đổi theo thời gian và
đối tượng, thường gắn liền với tuổi thọ của con người (nên gọi là bảo hiểm nhân
thọ). Các hợp đồng loại này thường là trung và dài hạn (5năm, 10 năm, 20 năm, trọn
đời )
Cũng dựa trên kỹ thuật, có thể phân loại bảo hiểm theo cách thức trả tiền, theo đó
các loại hình bảo hiểm được chia làm hai loại
- Các loại bảo hiểm có tiền trả theo nguyên tắc bồi thường: theo nguyên tắc này, số
tiền mà người bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm hoặc người được hưởng quyền
lợi bảo hiểm không bao giờ lớn hơn giá trị thiệt hại thực tế mà họ phải gánh chịu.
Các loại bảo hiểm này gồm có: bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự
(gọi chung là bảo hiểm thiệt hại)
- Các loại bảo hiểm có tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc khoán: người được bảo
hiểm hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm sẽ được nhận số tiền khoán theo
đúng mức mà họ đã thoả thuận trước trên hợp đồng bảo hiểm với người bảo hiểm
tuỳ thuộc và phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng đóng phí. Đây chính là các

loại bảo hiểm nhân thọ và một số trường hợp của bảo hiểm tai nạn, bệnh tật.
2.1.3.3. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm
Theo tiêu thức này, các loại bảo hiểm được xếp vào 3 nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo
hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con người.
Bảo hiểm tài sản
Bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là các tài sản và những
lợi ích liên quan. Sau đây là những loại bảo hiểm tài sản thông dụng nhất:
• Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu; bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong nước
• Bảo hiểm thân tàu biển; bảo hiểm thân tàu, thuyền khác
• Bảo hiểm thân máy bay và bảo hiểm tổn thất hệ quả
• Bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới
• Bảo hiểm công trình xây dựng, lắp đặt
• Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt
• Bảo hiểm máy móc thiết bị; bảo hiểm máy móc thiết bị điện tử
• Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh
• Bảo hiểm vật nuôi, cây trồng
• Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
• Bảo hiểm tiền; bảo hiểm trộm cắp
• Bảo hiểm công trình ngoài khơi, giàn khoan, đường ống trong thăm dò và
khai thác dầu khí
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm bồi
thường của người được bảo hiểm phát sinh theo quy định về trách nhiệm dân sự của
pháp luật. Phổ biến nhất là những loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự sau:
• Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu biển; bảo hiểm trách nhiệm dân sự
của chủ tàu, thuyền khác
• Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không; bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của người khai thác máy bay
• Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới
• Bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động

• Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm
• Bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba trong xây dựng, lắp dặt
• Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp trong hoạt động tư vấn đầu tư, xây dựng
• Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ vật nuôi
• Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số nghề nghiệp đặc biệt như là:
môi giới bảo hiểm; môi giới chứng khoán; tư vấn pháp luật; tư vấn tài chính,
kiểm toán; nghề y
Bảo hiểm con người
Bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là tính mạng, sức khoẻ,
khả năng lao động và tuổi thọ con người. Bảo hiểm con người được chia thành bảo
hiểm nhân thọ và bảo hiểm con người phi nhân thọ.
Bảo hiểm nhân thọ có các loại cơ bản sau:
• Bảo hiểm cho sự kiện tử vong của người được bảo hiểm
• Bảo hiểm cho sư kiện còn sống của người được bảo hiểm
• Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp
• Bảo hiểm nhân thọ liên kết đầu tư
Bảo hiểm con người phi nhân thọ có các dạng chính sau:
• Bảo hiểm tai nạn (tai nạn cá nhân; tai nạn hành khách; tai nạn thuyền viên; tai
nạn lái xe, phụ xe và người ngồi trên xe cơ giới; tai nạn nhân viên tổ bay; tai
nạn người đi du lịch; tai nạn thân thể học sinh )
• Bảo hiểm sức khoẻ ( bảo hiểm cho rủi ro bệnh tật, ốm đau)
• Bảo hiểm sinh mạng
• Bảo hiểm kết hợp (bảo hiểm cho nhiều loại rủi ro: tai nạn, bệnh tật, tử vong
trong một hợp đồng bảo hiểm)
Phân loại theo đối tượng bảo hiểm được sử dụng rộng rãi và rất có ý nghĩa thực tiễn.
Mỗi loại đối tượng bảo hiểm có những đặc tính riêng và vì thế cần có những nguyên
tắc, phương pháp, biện pháp tương thích trong kỹ thuật nghiệp vụ bảo hiểm
2.1.3.4. Căn cứ theo luật kinh doanh bảo hiểm
Theo Điều 7, chương I, luật kinh doanh bảo hiểm CHXHCN Việt Nam, bảo hiểm
thương mại được chia làm hai loại: bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ

Bảo hiểm nhân thọ bao gồm:
a) Bảo hiểm trọn đời;
b) Bảo hiểm sinh kỳ;
c) Bảo hiểm tử kỳ;
d) Bảo hiểm hỗn hợp;
đ) Bảo hiểm trả tiền định kỳ;
e) Các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ khác do Chính phủ quy định (bảo hiểm liên kết
đầu tư ).
Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm:
a) Bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người;
b) Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại;
c) Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và
đường không;
d) Bảo hiểm hàng không;
đ) Bảo hiểm xe cơ giới;
e) Bảo hiểm cháy, nổ;
g) Bảo hiểm thân tầu và trách nhiệm dân sự của chủ tầu;
h) Bảo hiểm trách nhiệm chung;
i) Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính;
k) Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh;
l) Bảo hiểm nông nghiệp;
m) Các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ khác do Chính phủ quy định.
2.1.3.5. Căn cứ vào lịch sử ra đời của các nghiệp vụ bảo hiểm
Trong thực tế, có thể phân loại bảo hiểm thương mại để quản lý theo cơ sở lịch sử ra
đời của các nghiệp vụ bảo hiểm. Ví dụ: bảo hiểm hàng hải được coi là ra đời sớm
nhất và là nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống của các công ty bảo hiểm. Vì vậy thời
kỳ đầu, các công ty bảo hiểm thường phân loại bảo hiểm thương mại thành bảo
hiểm hàng hải (bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm thân tàu và hội bảo
hiểm P&I-hội bảo trợ và bồi thường) và bảo hiểm phi hàng hải (tất cả các nghiệp vụ
còn lại). Sau này, với sự phát triển của bảo hiểm thương mại, nhiều nghiệp vụ bảo

hiểm mới ra đời như bảo hiểm cháy, bảo hiểm con người, bảo hiểm xây dựng và
đặc biệt là sự ra đời của bảo hiểm nhân thọ với kỹ thuật bảo hiểm riêng, bảo hiểm
thương mại được chia thành hai nhóm lớn: bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân
thọ. Hiện nay có những công ty chuyên kinh doanh bảo hiểm nhân thọ hoặc phi
nhân thọ hoặc nếu kinh doanh cả hai loại hình thì phải tổ chức hạch toán riêng biệt.
2.1.4. Các nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm thương mại
2.1.4.1. Nguyên tắc số đông
Về bản chất, hoạt động bảo hiểm thương mại là nhận một khoản tiền mà người ta gọi là
phí bảo hiểm để rồi có khả năng sẽ phải trả cho bên đã đóng góp khoản tiền phí đó một số
tiền (bồi thường, chi trả) lớn hơn gấp nhiều lần. Để làm được điều này hoạt động bảo
hiểm thương mại phải dựa trên nguyên tắc số đông. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không
thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp bảo hiểm thương mại nào, theo đó hậu quả của rủi
ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bởi số tiền gom được từ rất
nhiều người có cùng khả năng gặp rủi ro như nhau.
Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để giải quyết chi bồi thường cho các tổn thất
có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm, người bảo hiểm đã thực
hiện việc bù trừ rủi ro theo quy luật thống kê số lớn. Nguyên tắc số đông bù số ít cho biết
rằng càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quỹ bảo hiểm tích tụ càng lớn và việc chi
trả trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được chia sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường, một
nghiệp vụ bảo hiểm chỉ có thể triển khai được khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo
đảm đó.
2.1.4.2. Nguyên tắc lựa chọn rủi ro
Hoạt động bảo hiểm thương mại cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ
chức có nhu cầu. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, người bảo hiểm đều chấp
nhận các yêu cầu bảo đảm. Hiếm có nhà kinh doanh bảo hiểm nào lại dại dột hứa sẽ bồi
thường cho ông chủ một ngôi nhà trong trường hợp có cháy xảy ra khi ngôi nhà đó chứa
đầy hoá chất, không hề trang bị phòng cháy chữa cháy, và nằm ngay cạnh một xưởng rèn.
Nguyên tắc lựa chọn rủi ro là một nguyên tắc không thể thiếu được trong kinh doanh bảo
hiểm. Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần như chắc chắn sẽ
xảy ra thì sẽ bị từ chối bảo hiểm. Ví dụ: hao mòn tự nhiên của vật chất, xe vi phạm luật

giao thông Nói cách khác, những rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro bất
ngờ, không lường trước được
Để bảo đảm cho nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các loại rủi ro loại trừ tuỳ
thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau; còn với các loại rủi ro được bảo hiểm lại
được xem xét để phân loại, xắp xếp theo từng mức độ khác nhau (nếu cần thiết) và áp
dụng các mức phí thích hợp. Đối với rủi ro có xác suất xảy ra lớn hơn thì mức phí phải
nộp lớn hơn. Chẳng hạn, cùng là người ở một độ tuổi tham gia bảo hiểm nhân thọ nhưng
những người bị bệnh tim phải đóng mức phí khác với những người khoẻ mạnh bình
thường. Chính vì vậy, một yêu cầu đối với người tham gia bảo hiểm là phải trung thực
tuyệt đối khi khai báo rủi ro để bên bảo hiểm có thể xác định được chính xác rằng rủi ro
đó có thể chấp nhận bảo hiểm hay không, nếu có thì với mức phí như thế nào
Nguyên tắc lựa chọn rủi ro nhằm tránh cho người bảo hiểm phải bồi thường cho những
tổn thất thấy trước mà nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá sản, đồng thời
cũng giúp cho các công ty bảo hiểm có thể tính được các mức phí chính xác, lập nên
được một quỹ bảo hiểm đầy đủ để đảm bảo cho công tác bồi thường. Không chỉ đảm bảo
cho quyền lợi của phía người bảo hiểm mà ngay chính những người tham gia bảo hiểm
cũng thấy công bằng hơn trong trường hợp có những rủi ro không thuần nhất (xác suất
không bằng nhau) khi nguyên tắc này được áp dụng.
2.1.4.3. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối
Nguyên tắc này được thể hiện ngay từ khi người bảo hiểm nghiên cứu để soạn thảo một
hợp đồng bảo hiểm đến khi phát hành khai thác bảo hiểm và thực hiện giao dịch kinh
doanh với khách hàng (người tham gia bảo hiểm)
Trước hết, nguyên tắc trung thực tuyệt đối đòi hỏi người bảo hiểm phải có trách nhiệm
cân nhắc các điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo đảm cho quyền lợi của hai bên. Sản
phẩm cung cấp của nhà bảo hiểm là sản phẩm dịch vụ nên khi mua người tham gia bảo
hiểm không thể nắm nó trong tay như các sản phẩm vật chất khác để đánh giá chất lượng
và giá cả mà chỉ có thể được một hợp đồng hứa sẽ đảm bảo. Chất lượng của sản phẩm
bảo hiểm có bảo đảm hay không, giá cả (phí bảo hiểm) có hợp lý hay không, quyền lợi
của người được bảo hiểm có được đảm bảo đầy đủ, công bằng hay không đều chủ yếu
dựa vào sự trung thực của phía bên bảo hiểm.

Đồng thời, nguyên tắc này cũng đặt ra một yêu cầu với người tham gia bảo hiểm là phải
khai báo rủi ro một cách trung thực khi tham gia bảo hiểm để giúp cho người bảo hiểm
xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận. Thêm vào đó, các hành vi gian lận
nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai báo các thiệt hại để đòi bồi thường (khai báo
lớn hơn thiệt hại thực tế, sửa chữa ngày tháng của hợp đồng bảo hiểm ) sẽ bị xử lý theo
pháp luật.
2.1.4.4. Nguyên tắc phân chia, phân tán rủi ro
Phân tán rủi ro
Ví dụ: Người bảo hiểm không thể đảm bảo cho tất cả các nông dân trong cùng một
vùng chống rủi ro lũ lụt, không thể khai thác bảo hiểm cháy cho một số lượng lớn
đối tượng bảo hiểm có vị trí tập trung tại một thành phố đông đúc nào đó Đó chính
là hoạt động phân tán rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm.
Phân tán rủi ro được thể hiện ở hai mặt: không gian và thời gian, mặt khác, sự phân
tán còn được là phân tán về mặt giá trị. Sự phân tán về không gian cho phép doanh
nghiệp bảo hiểm thực hiện được việc bù trừ rủi ro giữa vùng bị tổn thất với những
vùng khác. Đa dạng hoá sản phẩm bảo hiểm - một giải pháp chiến lược mà doanh
nghiệp bảo hiểm vẫn quan tâm hàng đầu một phần cũng vì mục tiêu phân tán rủi ro.
Phân chia rủi ro
Là người nhận rủi ro được chuyển từ người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc
này sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù quỹ
bảo hiểm là một quỹ tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiều người
theo nguyên tắc số đông và như vậy, với tư cách là người huy động và quản lý quỹ,
các công ty bảo hiểm có khả năng thực hiện các nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng
trên thực tế, không phải lúc nào công ty bảo hiểm cũng luôn đảm bảo được khả năng
này. Điều này có thể thấy rõ nhất với những trường hợp quỹ bảo hiểm huy động
được còn chưa nhiều (công ty bảo hiểm mới thành lập hoặc công ty bảo hiểm có quy
mô nhỏ) trong khi đó giá trị bảo hiểm lại rất lớn hoặc những trường hợp có rủi ro
liên tiếp xảy ra gây tổn thất lớn.
Một kinh nghiệm của các nhà kinh doanh bảo hiểm thương mại là không nhận
những đối tượng bảo hiểm có giá trị quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của công

ty nếu rủi ro tổn thất xảy ra. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kỵ là phải từ chối hợp
bảo hiểm đồng thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh, các công ty bảo hiểm
thực hiện nguyên tắc phân chia rủi ro. Có hai phương thức phân chia rủi ro là đồng
bảo hiểm và tái bảo hiểm.
a) Đồng bảo hiểm
Đồng bảo hiểm là sự phân chia theo tỷ lệ đối với cùng một rủi ro giữa nhiều người
bảo hiểm với nhau theo sơ đồ 2.2.
Sơ đồ 2.2: Mối quan hệ trong đồng bảo hiểm
Như vậy mỗi nhà bảo hiểm chỉ chấp nhận một phần trăm nào đó của rủi ro, đổi lại
cũng chỉ nhận một tỷ lệ tương ứng về phí và cũng phải chi trả một tỷ lệ bồi thường
như thế.
Tỷ lệ phần trăm rủi ro được chấp nhận bởi mỗi nhà đồng bảo hiểm tuỳ thuộc vào
các đặc điểm được xác định trước. Nó bị chi phối bởi khả năng tài chính của mỗi
người đồng bảo hiểm. Vì thế mỗi người đồng bảo hiểm phải xác định cho mình một
"mức chấp nhận" hay còn gọi là "mức ký kết". Mức chấp nhận là số tiền tối đa mà
một nhà bảo hiểm có thể chấp nhận đảm bảo đối với một rủi ro nhất định.
Về mặt pháp lý, người tham gia bảo hiểm phải biết tất cả các nhà đồng bảo hiểm.
Khi có tổn thất xảy ra, anh ta phải thực hiện việc khiếu nại đòi bồi thường đối với
mỗi người bảo hiểm nói trên. mỗi người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm cho phần
của mình và không phải chịu trách nhiệm cho nhau. Như vậy, đồng bảo hiểm có thể
coi là một rủi ro được bảo hiểm bởi nhiều hợp đồng dưới giá trị.
Tuy nhiên, trên thực tế, nếu đồng bảo hiểm được thể hiện bằng hàng loạt hợp đồng
riêng lẻ thì rất bất lợi cho người được bảo hiểm. Do đó, chỉ có một hợp đồng duy
nhất được thiết lập mang tên tất cả các nhà đồng bảo hiểm và các phần rủi ro mà họ
chấp nhận đảm bảo. Bản hợp đồng này sẽ do một trong các nhà đồng bảo hiểm đứng
ra đại diện, quản lý trong mối quan hệ với khách hàng. Người này được gọi là người
bảo hiểm chủ trì hay tổ chức chủ trì.
Ví dụ:
Một công trình xây dựng được bảo hiểm có giá trị 2.000.000 USD. Có 3 tổ
chức tham gia đồng bảo hiểm. Khả năng của các tổ chức như sau:

- Tổ chức A chủ trì có mức nhận tối đa là 1.000.000 USD
- Tổ chức B có mức nhận tối đa là 800.000 USD
- Tổ chức C có mức nhận tối đa là 200.000 USD
Phí bảo hiểm (phí gộp hay phí thương mại) là 8.000 USD.
Yêu cầu: Hãy phân chia phí bảo hiểm và bồi thường tổn thất giữa các tổ chức
A, B, C trong 2 trường hợp sau:
i) Xảy ra sự cố tổn thất bộ phận = 25% giá trị bảo hiểm .
ii) Xảy ra tổn thất toàn bộ 100% giá trị bảo hiểm
b) Tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó một tổ chức bảo hiểm chuyển cho một tổ
chức bảo hiểm khác một phần rủi ro mà anh ta đã chấp nhận đảm bảo trên cơ sở
nhượng lại cho người đó một phần phí bảo hiểm. Hay nói một cách chung và dễ
hiểu nhất là: "tái bảo hiểm là bảo hiểm lại cho nhà bảo hiểm"
Hợp đồng bảo hiểm giữa người được bảo hiểm với người bảo hiểm trực tiếp được
gọi là hợp đồng bảo hiểm gốc. Hợp đồng bảo hiểm giữa người bảo hiểm chuyển
nhượng dịch vụ bảo hiểm với những người bảo hiểm khác gọi là hợp đồng tái bảo
hiểm. Người bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm gốc trở thành người nhượng tái bảo
hiểm, người bảo hiểm nhận lại một phần rủi ro của người nhượng tái bảo hiểm gọi
là người nhận tái bảo hiểm. Người nhận tái bảo hiểm có thể là một doanh nghiệp
bảo hiểm được phép kinh doanh cả bảo hiểm gốc lẫn tái bảo hiểm hoặc là doanh
ngiệp chuyên kinh doanh tái bảo hiểm. Sau khi nhận tái bảo hiểm, người nhận tái có
thể nhượng tái bảo hiểm cho những người nhận tái bảo hiểm khác, hoạt động
nhượng tái có thể tiếp tục nhiều lần (Retrocession) với sự liên kết của các doanh
nghiệp bảo hiểm trên phạm vi quốc tế.
Tổng Công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam - Vinare là doanh nghiệp
chuyên kinh doanh tái bảo hiểm.
Mối quan hệ trong tái bảo hiểm thể hiện trong sơ đồ 2.3.
Sơ đồ 2.3: Mối quan hệ trong tái bảo hiểm
Ví dụ: Tổ chức bảo hiểm X trong năm nghiệp vụ đã phát sinh các hợp đồng gốc với
số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm gốc và thiệt hại phải bồi thường như sau:

Hợp đồng
gốc
Số tiền bảo hiểm
(USD)
Phí bảo hiểm gốc
(USD)
Thiệt hại
(USD)
1 10.000.000 15.000 8.000.000
2 7.000.000 10.500 -
3 8.000.000 12.000 4.000.000
Phân chia trách nhiệm số tiền bảo hiểm, phân chia phí bảo hiểm và số tiền bồi
thường sẽ tuân theo các tỷ lệ 35% và 65% đã thoả thuận trong hợp đồng tái bảo
hiểm.
Yêu cầu:Phân chia trách nhiệm về số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bồi
thường giữa người nhượng tái và người nhận tái trong trường hợp trên.
Về phương diện pháp lý, trong tái bảo hiểm, người được bảo hiểm chỉ cần biết nhà
bảo hiểm gốc ban đầu và là người duy nhất chịu trách nhiệm đảm bảo rủi ro của
mình chứ người được bảo hiểm không cần biết đến người nhận tái bảo hiểm.
Trong thời kỳ đầu, các hợp đồng tái bảo hiểm thường ký kết dưới dạng tạm thời
(facultative) cho từng dịch vụ đơn lẻ. Sau này, bên cạnh hợp đồng tái bảo hiểm tự
nguyện xuất hiện hợp đồng tái bảo hiểm mở (open cover) và rất phổ biến là hợp
đồng tái bảo hiểm cố định (treaty). Với nhiều phương pháp tái bảo hiểm, nhiều dạng
hợp đồng tái bảo hiểm, hoạt động tái bảo hiểm tạo nên sự gắn kết và phụ thuộc lẫn
nhau giữa các thị trường bảo hiểm các quốc gia trên thế giới và phạm vi chuyển giao
rủi ro đã trở thành không biên giới cho mục tiêu phân chia rủi ro của doanh nghiệp
bảo hiểm.
Việc sử dụng đồng bảo hiểm hay tái bảo hiểm là tuỳ thuộc phần lớn vào các đặc tính
của rủi ro, đối tượng bảo hiểm và không ít các trường hợp kết hợp cả đồng bảo hiểm
, tái bảo hiểm , đồng- tái bảo hiểm sẽ là phương án tối ưu cho việc chuyển giao rủi

ro. Sơ đồ 2.4 minh hoạ khái quát sự kết hợp đó :
Sơ đồ 2.4: Sự kết hợp trong đồng - tái bảo hiểm
Có một nghịch lý là: nghề bảo hiểm bán sự an toàn và vì thế lại tiềm ẩn không ít rủi
ro nguy hiểm. Các phương pháp phân chia, phân tán rủi ro là sự cụ thể hóa phương
châm "không để mọi quả trứng vào trong một giỏ" mà người bảo hiểm cần phải sử
dụng để giảm thiểu hậu quả bất lợi của những rủi ro đặc thù trong lĩnh vực kinh
doanh bảo hiểm.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, mỗi loại hình bảo hiểm thương mại sẽ có thêm
các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại. Ví dụ trong bảo hiểm tài
sản có nguyên tắc bồi thường nhưng trong bảo hiểm con người lại có nguyên tắc
khoán.

×