Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
2
A. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
3
I. Đinh nghiã kinh tế tư nhân
3
II. Đặc điểm của kinh tế tư nhân
5
B. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
6
I. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian qua
6
1. Những chuyển biến của khu vực kinh tế tư nhân
6
2. Những hạn chế trong phát triển kinh tế tư nhân
19
3. Nguyên nhân và những tồn tại
27
II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
28
1. Xoá bỏ sự mặc cảm của xã hội và sự kỳ thị của một số công chức
trong bộ máy công quyền đối với khu vực kinh tế ngồi quốc doanh
29
2. Phải tạo mơi trường thơng thống, cạnh tranh bình đẳng
32
3. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế nói chung và
doanh nghiệp nói riêng
34
4. Doanh nghiệp phải xây dựng được chiến lược sản xuất kinh doanh
thích hợp
36
5. Phát huy vai trị tích cực của các hiệp hội doanh nghiệp trong thu
thập cung cấp thơng tin, mở rộng, tìm kiếm thị trường mới cho doanh
nghiệp
37
KẾT LUẬN
39
TÀI LIỆU THAM KHẢO
40
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế tồn cầu hố và hội nhập quốc tế như hiện nay thì nó cũng
đặt ra nhiều cơ hội và thách thức đối với nước ta. Để có thể thúc đẩy và phát triển
kinh tế-xã hội nước ta, thực hiện chủ chương đường lối CNH-HĐH của Đảng và
Nhà nước thì địi hỏi nỗ lực rất lớn của Đảng và Nhà nước, các thành phần kinh tế
và toàn dân. Trong đó phải kể đến vai trị của khu vực kinh tế tư nhân, nó là một bộ
phận khơng thể tách rời trong hệ thống nền kinh tế nước ta. Những đóng góp của
khu vực này cho nền kinh tế là không nhỏ trong những năm qua. Khu vực kinh tế
tư nhân khơng chỉ đóng góp lớn vào GDP của cả nước mà nó cịn giúp giải quyết
cơng ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động. Nhưng trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế như hiện nay thì khu vực kinh tế tư nhân cũng gặp khơng ít khó
khăn, thách thức và cơ hội. Nguyên nhân một phần là do xuất phát điểm của nước
ta còn thấp, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước cịn nhiều bất cập. Bên
cạnh đó cịn do thói quen dựa dẫm ỷ lại, tư duy cũ của thể chế kế hoạch hố tập
trung và những suy nghĩ khơng đúng đắn của một số bộ phận công chức công
quyền về khu vực này. Từ đó dẫn đến yêu cầu cấp thiết là phải có những giải pháp
hợp lý để phát triển khu vực kinh tế tư nhân trước thềm hội nhập đang đến gần.
Điều đó địi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành, phía doanh
nghiệp …Từ những vai trò và ý nghĩa trên chúng em quyết định chọn đề tài: “Phát
triển khu vực kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”để viết.
Trong quá trình thực hiện đề tài chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu
sót, em mong được sự giúp đỡ của thầy giáo. Qua đó em cũng xin chân thành cảm
ơn thây giáo và các bạn cùng khóa đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện
và hoàn thành đề tài này.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
A. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
I. Đinh nghiã kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế được hình thành và phát triển dựa trên nên
tảng chủ yếu là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lợi ích cá nhân. Sự phát triển
của kinh tế tư nhân trong lịch sử đã được thể hiện ở nhiều hình thức và phưong
diện khác nhau. Kinh tế tư nhân tham gia vào tất cả lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp, giao thông vận tải, thương nghiệp và các loại hình dịch vụ khác.
Trong nền sản xuất nhỏ, kinh tế tư nhân được biểu hiện ở hình thức kinh tế của các
hộ sản xuất cá thể, tiểu chủ và đặc biệt trong thời đại kinh tế phát triển- kinh tế thị
trường, mơ hình sản xuất- kinh doanh mi ra i- mụ hỡnh doanh nghip.
II. Đặc điểm của kinh tế t nhân
1. Một số đặc trng cơ bản của kinh tế t nhân
Một là, kinh tế t nhân gắn liền với lợi ích cá nhân một trong những động
lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Sự tồn tại và phát triển của xà hội loài ngời từ trớc tới nay đà cho thấy lợi ích của mỗi
cá nhân là ®éng lùc tríc hÕt vµ chđ u thóc ®Èy x· hội phát triển .
Nền kinh tế thị trờng tồn tại mấy trăm năm vẫn chủ yếu dựa trên lợi ích cá
nhân tôn trọng lợi ích cá nhân nhng lợi ích cá nhân phải hài hoà với lợi ích xà hội mới
làm hồi sinh phát triển đợc kinh tế t nhân . Thùc tÕ cho thÊy nỊn kinh tÕ kÕ ho¹ch hoá
tập trung đà đề cao quá mức lợi ích nhà nớc tập thể, coi nhẹ lợi ích cá nhân do đó đÃ
làm thui chột động lực phát triển kinh tế x· héi. Trong thêi kú chun ®ỉi sang nỊn
kinh tÕ thị trờng với việc tôn trọng lợi ích cá nhân ®· t¹o ra mét ®éng lùc m¹nh mÏ
thóc ®Èy lùc lợng sản xuất phát triển góp phần thúc đẩy tăng trëng kinh tÕ. Do g¾n
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
liỊn víi lỵi ích cá nhân nên kinh tế t nhân có sức sống mÃnh liệt. Quá trình quốc hữu
hoá và tập thể hoá cao độ trong các nền kinh tế mệnh lệnh trớc đây đà bằng mọi cách
xoá bỏ kinh tế t nhân nhng nó vẫn len lỏi tồn tại . Kinh tế t nhân, cá thể bị ngăn cấm
bởi các mệnh lệnh của nhà nớc nhng vẫn tồn tại nh một tất yếu khách quan. ở hầu
hết các nớc xà hội chủ nghĩa nớc ta kinh tế t nhân gần nh bị xoá bỏ hoàn toàn , nhng
trong thời kỳ chuyển đổi từ những năm 1990, chỉ cần nới lỏng một vài rằng buộc
doanh nghiệp thì ngay lập tức kinh tế t nhân lại xuất hiện.
Hai là, kinh tế t nhân mà tiêu biểu là doanh nghiệp của t nhân là mô hình tổ
chức kinh doanh của sản xuất hàng hoá.
Hoạt động sản xuất trao đổi hàng hoá ra đời gắn liền với sự phân công lao
động xà hội quá trình đó bắt đầu từ thời kỳ tan rà của chế độ cộng sản nguyên thuỷ .
Tuy nhiên hàng ngàn năm tồn tại cho đến trớc khi xuất hiện nền sản xuất đại công
nghiệp đó là một nền sản xuất hàng hoá giản đơn gắn liền với sản xuất nhỏ tự cung tự
cấp. Hình thức tổ chức doanh nghiệp phẩm cuả nền sản xuất xà hội hoá. Nó đợc phát
triển cùng với phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa và gắn liền với nền đại công
nghiệp.Với hình thức đó năng suất lao động và hiệu qủa sản xuất tăng lên nhiều, trình
độ xà hội hoá cũng đợc phát triển nhanh chóng. Kinh tế thị trờng là giai đoạn phát
triển cao của kinh tế hàng hoá. ở đây kinh tế hàng hoá đà thực sự thay đổi về chất gắn
liền với sản xuất lớn hiện đại. Cơ cấu của kinh tế thị trờng chủ yếu dựa trên sơ sở của
mô hình tổ chức doanh nghiệp có mục tiêu cao nhất và cuối cùng là tạo ra giá trị
thặng d . Cơ chế hoạt động tất yếu của nó là không ngừng chuyển giá trị thặng d
thành tích luỹ tăng thêm của sự phát triển kinh tế. Đó là mô hình tổ chức kinh doanh
có hiệu quả nhất thúc đẩy sự phát triển của lực lợng sản xuất, nó có hiệu quả phù hợp
với cơ chế thị trờng hiện đại.
Ba là, kinh tế t nhân là bộ phận quan trọng của kinh tế thị trờng . Cơ chế thị trờng là cách thức duy nhất và tốt nhất để một nền kinh tế vận hành có hiệu quả cao .
Kinh tế thị trờng là phơng tiện để đạt đến một nền sản xuất hiện đại . Sự sụp đổ của
Liên Xô và các nớc xà hội chủ nghĩa ở Đông Âu đà cho chóng ta thÊy r»ng c¸c qc
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
gia đều không thể không sử dụng cơ chế thị trờng. Ngợc lại kinh tế thị trờng khó có
thể tồn tại và phát triển nếu không có sở hữu t nhân và kinh tế t nhân nói cách khác
cơ chế thị trờng hiện đại chính là dạng sinh tồn của kinh tế t nhân mà điển hình là mô
hình tổ chức doanh nghiệp . Bất kỳ nền kinh tế nào hoạt động theo cơ chế thị trờng
đều phải thừa nhận và khuyến khích mô hình doanh nghiệp này . Ngợc lại mô hình
này tự nó ứng xử theo cơ chế thị trờng và cã søc sèng m·nh liƯt trong m«i trêng cđa
kinh tÕ thị trờng.
Tóm lại sự tự do tham gia kinh doanh của kinh tế t nhân , chủ yếu là các
doanh nghiệp, vào bất kỳ lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ nào cũng là cơ sở của
cơ chế thị trờng ở đó có sự cạnh tranh của những ngời bán và ngời mua. Và đó
chính là động lực quan trọng để thúc đẩy kinh tế tăng trởng.
2.Đặc điểm của kinh tÕ t nh©n ë ViƯt Nam hiƯn nay
Kinh tÕ t nhân ở nớc ta đang tồn tại và phát triển trong những điều kiện chủ
yếu sau:
Một là, kinh tế t nhân mới đợc phục hồi và phát triển nhờ công cuộc đổi mới
do Đảng ta khởi xớngvà lÃnh đạo.
Hai là,kinh tế t nhân hình thành và phát triển trong ®iỊu kiƯn cã nhµ níc x· héi
chđ nghÜa díi sù lÃnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản.Về mặt kinh tế nhà nớc nắm
trong tay một lực lợng vật chất to lớn có khả năng chi phối mọi hoạt động kinh tế xÃ
hội của đất nớc.Nhà nớc có thể chi phối định hớng sự phát triển của các thành phần
kinh tế thông qua hệ thống chính sách,công cụ quản lý kinh tế vĩ mô nh chính sách
tài chính,tiền tệ,kế hoạch hoá,chính sách kinh tế đối ngoại...
Ba là,kinh tế t nhân nớc ta ra đời và phát triển trong điều kiện quan hệ sản xuất
thống trị trong xà hội không phải là quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa.Kinh tế t nhân
ra đời gắn liền với sự thủ tiêu của quan hệ sản xuất phong kiến và xác lập sự thống
trị,chi phối của quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa phục vụ giai cấp t sản và nhà nớc t
sản.ở nớc ta kinh tế t nhân đợc coi là công cụ ,là hình thức tổ chức sản xuất kinh
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
doanh theo môc tiêu của chủ nghĩa xà hội,là bộ phận cấu thành của quan hệ sản xuất
định hớng xà hội chủ nghĩa
Bốn là,kinh tế t nhân nớc ta ra đời ở một nớc quá độ lên chủ nghĩa xà hội từ
một nền kinh tế phát triển kém trong bối cảnh thực hiện công nghiệp hoá,hiện đại
hóa,giải phóng sức sản xuất ,chủ động héi nhËp kinh tÕ quèc tÕ
Nh vËy,kinh tÕ t nh©n ở nớc ta có nhiều điểm khác so với các nớc t bản chủ nghĩa
.Những đổi mới ở nớc ta trong những năm qua thực chất là chuyển đổi mô hình kinh
tế kế hoạch hoá tập trung và hình thành mô hình kinh tế thị trờng định hớng xà hội
chủ nghÜa .
B. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế
I. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trong thơi gian qua
1. Những chuyển biến của khu vực kinh tế tư nhân
a. Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện
+ Cải cách thủ tục hành chính tiếp tục được cải thiện
Trong năm 2004 vấn đề cải cách thủ tục hành chính liên quan đến khu vực kinh tế
tư nhân đã được cộng đồng các doanh nghiệp đánh giá cao. Chính sách thuế và các
vấn đề liên quan đến thuế là một trong những vấn đề bức xúc nhất của cộng đồng
doanh nghiệp nói riêng và khu vực kinh tế tư nhân nói chung trong nhiều năm qua.
Trong năm 2004, chính sách thuế tiếp tục được cải thiện nhằm tạo “sân chơi” bình
đẳng, xố dần những bất hợp lý, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Quyết
định 197/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ có hiệu lực từ ngày 1/1/2004 thí
điểm về tự kê khai, tự tính, tự nộp thuế, bỏ cơ chế thông báo , áp đặt hoặc tính thuế
thay doanh nghiệp. Cơ chế tự tính, tự kê khai, tự nộp thuế năm 2004 được áp dụng
thí điểm ở khoảng 300 doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Ninh.
Kết quả thử nghiệm này sẽ được xem xét vào năm 2005 và sau đó sẽ mở rộng cho
các doanh nhiệp ở các địa phương khác. Đây là một bước tiến xây dựng một hệ
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thống tự đánh giá theo chuẩn mực quốc tế trong việc áp dụng thuế thu nhập doanh
nghiệp .
Các quy định về thuế suất ,quy định miễn giảm thuế trong năm 2004 đã có sự
điều chỉnh theo hướng tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Mức thuế thu
nhập doanh nghiệp đã được điều chỉnh : mức thuế suất phổ thông đã được giảm
xuống còn 28%, thuế suất ưu đãi là 20%, 15%, và 10% (mức thuế suất cũ là 32% ,
25%, 20% và 15% ); bỏ thuế thu nhập bổ sung đối với doanh nghiệp trong nước,
mở rộng diện thuế ưu đãi, mở rộng diện thuế áp dụng thuế suất 0% đối với thuế giá
trị gia tăng. Đến nay, hầu hết các chính sách thuế đã được xây dựng trên cơ sở
không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm bình đẳng giữa các
đối tượng nộp. Chính sách ưu đãi thuế được áp dụng chung cho các thành phần
kinh tế. Bất kì doanh nghiệp nào, nếu có đủ điều kiện ưu đãi đều có thể được hưởng
các ưu đãi theo quy định. Chẳng hạn, tiền sử dụng đất, các doanh nghiệp thuộc mọi
loại hình kinh tế đều được hưởng các ưu đãi về khoản thu về đất theo quy định của
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng
xuất khẩu có giá trị sản lượng hàng xuất khẩu trên 30% giá trị hàng hoá, dịch vụ
sản xuất, kinh doanh cũng được giảm tiền sử dụng đất hoặc miễn tiền thuê đất trong
một số năm ; miễn giảm thuế sử dụng đất với cơ sở sản xuất, kinh doanh được nhà
nước giao đất để thực hiện dự án thuộc ưu đãi đầu tư. Mức ưu đãi tuỳ thuộc vào
mức độ đáp ứng các điều kiện ưu đãi của dự án, không phân biệt loại hình hay
thành phần kinh tế .
Ngày5/4/2004, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 53/2004/QĐ-TTg về
một số chính sách khuyến khích đầu tư tại khu cơng nghệ cao, theo đó nhà đầu tư
sẽ được hưởng mức ưu đãi về thuế thu nhập ở mức cao nhất (10% trong suốt thời
gian thực hiện dự án; miễn bốn năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50%
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trong chín năm tiếp theo ) ; ưu đãi về sử dụng đất; cho phép vay vốn tín dụng trung
hạn, dài hạn với lãi suất ưu đãi, bảo lãnh vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư .v.v..
Các hình thức kinh tế cá thể, tiểu chủ đã được hưởng các chính sách ưu đãi ở
mức cao hơn bình thường như: Kinh tế trang trại, làng nghề .v.v.. Nghành thuế
cũng đã áp dụng phương thức thu thuế hoặc hoàn thuế phù hợp với năng lực quản
lý của các hộ kinh doanh cá thể. Nhiều chính sách tài chính khuyến khích phát triển
kinh tế tư nhân và thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được sửa đổi, bổ
sung như : chính sách khuyến khích nghành nghề nơng thơn, chính sách khuyến
tiêu thụ nơng sản hàng hố thơng qua hợp đồng, khuyến khích phát triển các loại
hình kinh tế trang trại, dịch vụ nơng thôn .
Công tác kiểm tra của hải quan được chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu
kiểm”, thực hiện kiểm tra có trọng điểm, mở rộng diện miễn kiểm tra hoặc kiểm tra
xác suất, giảm bớt các loại giấy tờ trong hồ sơ, thủ tục hải quan.
Các thủ tục hành chính về đăng kí kinh doanh và chế độ báo cáo của doanh
nghiệp tiếp tục được đơn giản hoá, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2004 về đăng ký kinh doanh thay thế Nghị
định 02/NĐ-CP năm 2000, đã đưa ra một số quy định mới thuận lợi hơn cho đăng
ký kinh doanh. Trình tự, thủ tục và hồ sơ thành lập doanh nghiệp được rút ngắn.
Thời gian thành lập doanh nghiệp đã được giảm từ khoảng hơn 90 ngày trước đây,
xuống còn 7 ngày, kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ (ở nhiều địa phương thời gian
đăng ký kinh doanh chỉ còn 2-4 ngày). Thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm
đăng ký kinh doanh qua mạng, rút ngắn thời gian đăng ký kinh doanh cịn 1 giờ, chí
phí kinh doanh giảm đáng kể .
Theo đánh giá của Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, các cơ quan thuế, hải
quan, kho bạc đã bước đầu thực hiện kết nối thông tin với nhau nên đã làm giảm
được khoảng 50% số chi tiêu mà doanh nghiệp cần báo cáo và giúp cho thủ tục kê
khai nộp th, hồn thuế nhanh chóng hơn. Thời gian làm thủ tục đăng ký mã số
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thuế và hải quan ở một số địa phương đã giảm xuống còn 10 ngày. Thủ tục mua
hố đơn tài chính cũng đơn giản hơn và khuyến khích doanh nghiệp tự phát hành
hố đơn. Việc đơn giản hơn các thủ hành chính là một trong những nhân tố quan
trọng làm cho số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và bổ sung ngành, nghề kinh
doanh tăng nhanh trong năm 2004.
+ Môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế tư nhân cũng tiếp tục đựơc đổi
mới. Cơ sở pháp lý phân định rõ quyền của Nhà nước, của cán bộ, công chức với
quyền của người đầu tư và doanh nghiệp đã được xác định rõ hơn, từng bước xố
bỏ thói quen ơm đồm, làm thay và gây phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp từ
phía cơ quan Nhà nước. Lần đầu tiên, thẩm quyền cấm hay hạn chế kinh doanh
đựoc giới hạn vào 3 cơ quan thẩm quyền cao nhất (Quốc hội, Uỷ ban thưịng vụ
Quốc hội và Chính phủ ). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bãi bỏ 116 giấy
phép, chuyển 46 giấy phép sang điều kiện kinh doanh không cần giấy phép hoặc
sang quản lý theo phương thức khác .
Để tạo môi trường kinh doanh thật sự bình đẳng cho các thành phần kinh tế,
Luật Doanh nghiệp sửa đổi theo hướng thống nhất các loại hình doanh nghiệp đang
được soạn thảo; Luật Đầu tư thống nhất cũng đang được nghiên cứu sửa đổi chuẩn
bị nhằm điều chỉnh chung cho cho hoạt động đầu tư cả trong nước và quốc tế. Dự
kiến, năm 2005 sẽ ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp thống nhất .
+ Công tác quản lý đất đai cũng được cải tiến và phân cấp cụ thể hơn. Các
khâu trung gian và thời gian làm các thủ tục hành chính trong việc giao đất, thuê
đất làm mặt bằng kinh doanh được rút ngắn. Các doanh nghiệp được phép tự thoả
thuận với người có đất trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh
thông qua việc nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng
quyền sử dụng đất. Nhiều địa phương đã ban hành các quy định thông thống, minh
bạch, đơn giản hơn về quy trình, thủ tục giao đất, cho thuê đất và quy trình thực
hiện đền bù giải phóng mặt bằng .
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong năm 2004, Chính phủ đã ban hành 5 Nghị định quy định chi tiết việc
thi hành Luật Đất đai: Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành
Luật Đất đai; Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đất đai; Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất; Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 13/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 về thu tiền sử
dụng đất. Các nghị định này đã tạo điều kiện thuân lợi hơn cho doanh nghiệp trong
việc tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh. Tuy chưa phát huy tác dụng
trong năm 2004, những nghị định trên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các năm tiếp
theo trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc tồn tại nhiều năm nay.
Để thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với các
nguồn vốn vay, Chính phủ đã ban hành một số quyết định mở rộng đơí tượng được
uỷ thác thực hiện tác nghiệp của Quỹ bảo lãnh cho Quỹ hỗ trợ phát triển; giao hoặc
uỷ thác cho quỹ đầu tư tài chính địa phương. Ngân hàng nhà nước và các ngân
hàng thương mại cũng đã có các quy định thơng thống hơn, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể, chủ trang trại tiếp cận thuận lợi hơn với
các nguồn vốn tín dụng. Vì vậy, số lượng các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể
tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng chính thức đã tăng lên đáng kể.
Trong những năm gần đây và năm 2004, Chính phủ, các bộ ngành và một số
địa phương đã có nhiều biện pháp góp phần giúp cho doanh nghiệp giảm chi phí
sản xuất, nâng cao hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tính đến cuối năm 2004, đã
bãi bỏ 343 loại phí và lệ phí, đã thống nhất áp dụng mức thu và giảm thu đối với
hàng chục loại phí và lệ phí với mức giảm bình qn chung là 20%, giãn cách các
mức phí, cải tiến quy trình thu phí, giảm giá cước và các dịch vụ viễn thông đến
mức thấp hơn hoặc tương đương với mức bình quân khu vực, bình ổn giá xăng, xi
măng.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong năm 2004, hệ thống tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp tiếp tục được hình
thành, phát huy tác dụng tích cực đối với các doanh nghiệp. Hình thành nhiều tổ
chức hỗ trợ gồm các quỹ, các trương trình hỗ trợ, các câu lạc bộ, các trung tâm hỗ
trợ cung cấp thông, hỗ trợ tư vấn đào tạo …Nhiều bộ, ngành đã thành lập các tổ
chức hỗ trợ phát triển doanh nghiệp như: Cục xúc tiến thương mại (Bộ thương
mại), Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp (Bộ tư pháp), Trung tâm thông tin doanh
nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Để đáp ứng kịp thời yêu cầu của doanh nghiệp, trong năm 2004, Chính phủ
đã giao trách nhiệm cho các cơ quan hữu quan tập hợp và đề xuất cách giải quyết
các kiến nghị của doanh nghiệp về thể chế, chính sách, đồng thời lập các nhóm
cơng tác gồm cán bộ có trách nhiệm của một số ngành, đặc biệt là thuế hải quan,
quản lý đất đai, ngân hàng trực tiếp đến các địa phương giải quyết tại chỗ các
vướng mắc của doanh nghiệp. Ở nhiều địa phương như Hà Nội, Hải Dương, Hải
Phòng, Nghệ An, Thành phố Hồ Chí Minh v.v.., lãnh đạo các tỉnh, thành phố cũng
đã định kỳ tổ chức gặp các doanh nghiệp, không phải hàng năm mà hàng quý, hàng
tháng và đã có các biện pháp rất cụ thể để giải quyết kịp thời các vướng mắc của
doanh nghiệp.
b. Về cơ cấu loại hình doanh nghiệp
Tỷ trọng doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký giảm từ
64% trong giai đoạn 1991-1999 xuống còn 34% giai đoạn 2000-2004. Trong khi
đó, cùng với khoảng thời gian trên, tỷ trọng công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty
cổ phần tăng từ 36% lên 66%. Trong hơn 4 năm qua, có khoảng 7.165 cơng ty cổ
phần đăng ký thành lập, gấp 10 lần so với giai đoạn 1991-1999. Sự thay đổi về tỷ lệ
loại hình doanh nghiệp mới cho thấy các nhà đầu tư trong nước đã nhận thức được
những điểm lợi và bất lợi của từng loại hình doanh nghiệp; có xu hướng lựa chọn
loại hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp ổn định, phát triển
không hạn chế về quy mô và thời hạn hoạt động với quản trị nội bộ ngày càng
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chính quy và minh bạch hơn. Thực tế nói trên phần nào chứng tỏ các nhà đầu tư đã
tin tưởng vào đường lối, luật pháp và cơ chế chính sách, có xu hướng đầu tư dài
hạn hơn, công khai hơn và quy mô lớn hơn.
Hình 1. Số lưọng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
thời kỳ 1992-2004
Nguồn: cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2004
Điều đáng quan tâm là số lượng vốn huy động được qua đăng ký thành lập
mới và mở rộng quy mô tăng mạnh mẽ. Trong 4 năm các doanh nghiệp đã đầu tư
(gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung) đạt trên 182.175 tỷ đồng (tương đương
khoảng 12,1 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư nước ngồi đăng ký trong cùng thời
kỳ); trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD, năm 2001 là 2,3 tỷ USD, năm 2002 là gần 3
tỷ USD, năm 2003 khoảng 3,6 tỷ USD và hết tháng 5-2004 khoảng 1,8 tỷ USD.
Riêng số vốn mới đăng ký giai đoạn 2000-2003 đã cao gấp hơn 4 lần so với 9 năm
trước đây (1991-1999). Vốn đăng ký mới ở tất cả các tỉnh thành phố từ năm 2000
đến tháng 7-2003 đều cao hơn số vốn đăng ký thời kì 1991-1999. Trong đó, có 33
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tỉnh, thành phố đạt tốc tăng cao gấp hơn 4 lần; có 11 tỉnh đạt tốc độ tăng cao hơn
10 lần; thậm chí có những tỉnh như: Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên …đạt tốc
độ hơn 20 lần. Xét về tỷ lệ gia tăng, vốn đăng ký mới ở các tỉnh, thành phố phía
bắc tăng nhanh và cao hơn nhiều so với các tỉnh khác, nhất là các tỉnh Đồng bằng
sông Cửu Long và miền Trung.
Đơn vị: tỷ đồng
Hình 2. Số vốn đăng ký hàng năm của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân thời kỳ 1998-2004
Nguồn: Trung tâm Thông tin doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2004
Kết quả là tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp trong tổng đầu toàn xã
hội đã tăng từ 20% năm 2000 lên 23% năm 2001 và 25,3% năm 2002; và năm 2003
trên 27%. Tỷ trọng đầu của các doanh nghiệp tư nhân trong nước liên tục tăng và
đã vượt lên hơn hẳn tỷ trọng đầu tư của doanh nghiệp nhà nước (DDNN), gần bằng
tổng vốn đầu tư của DDNN và tín dụng nhà nước. Vốn đầu tư của các doanh
nghiệp dân doanh đã đóng vai trị quan trọng, thậm chí là nguồng vốn đầu tư chủ
yếu đối với phát triển kinh tế địa phương. Ví dụ, đầu tư của các doanh nghiệp dân
doanh năm 2002 ở thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm 38% tổng số vốn đầu tư toàn
xã hội, cao hơn tỷ trọng vốn đầu tư của DDNN và ngân sách nhà nước gộp lại
(36,5%).
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quy mô doanh nghiệp ngày càng tăng. Thời kỳ 1991-1999 vốn đăng ký bình
quân/doanh nghiệp là gần 0,57 tỷ đồng, năm 2000 là 0,96 tỷ đồng, năm 2001 là 1,3
tỷ đồng, năm 2002 là 1,8 tỷ đồng: 7 tháng đầu năm 2003 là 2,12 tỷ đồng. Doanh
nghiệp đăng ký vốn thấp nhất là 5 triệu đồng và cao nhất là 200 tỷ đồng (hơn 13
triệu USD). Nhìn chung, số vốn đăng ký cao nhất phổ biến ở các địa phương là 10
tỷ đồng. Ở Quảng Nam, mức vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp thấp nhất (422
triệu đồng ), tiếp đó là Nam Định 544 triệu đồng, mức vốn đăng ký bình
quân/doanh nghiệp cao nhất là ở Hưng Yên, gần 3 tỷ đồng; tiếp đó là Quảng Ninh
và Bình Dương gần 2,5 tỷ đồng; mức vốn đăng ký bình quân/doanh nghiệp ở Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 1,25 tỷ đồng .
Vốn đầu tư thực tế. Đây là một vấn đề khó xác định chính xác, nhưng qua
phản ánh từ nhiều nguồn thông tin đều cho thấy số vốn thực tế cao hơn nhiều so với
số vốn đăng ký. Đánh giá này có thể được khẳng định qua khảo sát thực tế ở một số
tỉnh. Ví dụ, ở tỉnh Nam Định số vốn đăng ký của các doanh nghiệp năm 2002 là
84,5 tỷ đồng, thì số vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp tại khu cơng nghiệp
Hồ Xá đã lên tới gần 700 tỷ trong cùng thời kỳ; ở tỉnh Lào Cai, trong khi vốn đăng
ký kinh doanh năm 2002 chỉ khoảng 93 tỷ, thì vốn đầu tư thực hiện của các doanh
nghiệp là 422 tỷ, trong đó phần quan trọng là của khuc vực kinh tế tư nhân. Tình
hình cũng tương tự ở Hưng Yên, Bắc Ninh, Thái Bình và một số nơi khác.
Thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN), theo thống kê
chưa đầy đủ, sau 9 năm thực hiện (1996-2003), cả nước đã có 12.638 dự án được
cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, với tổng số vốn đầu tư thực hiện trên 192.484
tỷ đồng (tương đương 12,8 tỷ USD). Trong đó, giai đoạn 1996-1997 là trên 1,2 tỷ
USD, năm 2000 là 1,7 tỷ USD, năm 2002 là 2,8 tỷ USD. Đến nay, tỷ trọng của
doanh nghiệp dân doanh liên tục tăng và đã vượt lên hẳn tỷ trọng đầu tư của DNNN
tương đương là 62,3% và 37,7% . Các dự án đầu tư theo Luật KKĐTTN đã thu hút
và tạo việc làm cho 1.516.456 lao động. Tính bình qn mỗi dự án có số vốn đầu
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tư khoảng 15,2 tỷ đồng và thu hút khoảng 120 lao động. Một điểm đáng ghi nhận
nữa là sự hưởng ứng của các nhà đầu tư Việt Kiều với Luật này và cơ chế, chính
sách tạo diều kiện đầu tư về nước: tính đến tháng 12-2003, trên cả nước có 1.200
dự án với lượng vốn đầu tư khoảng 2.500 tỷ đồng.
Nguồn: Viện nghiên cứu QLKTTƯ tổng hợp qua báo cáo của các tỉnh/thành
phố
c. Tạo nhiều công ăn việc làm mới
Nước ta hàng năm có thêm khoảng 1,4-1,5 triệu người đến tuổi tham gia thị
trường lao động. Ngồi ra, số lao động nơng nghiệp có nhu cầu chuyển sang làm
việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng không nhỏ. Nhu cầu hàng năm phải tạo
thêm được hàng triệu việc làm đang là một áp lực xã hội mạnh đối với chính phủ và
các cấp chính quyền địa phương
Thực tế ở địa phương cho thấy, 1 ha trồng lúa chỉ giải quyết dược 5 lao
động (gồm 2 thường xuyên và 3 thời vụ) và có doanh thu từ 20-30 triệu đồng, hàng
năm 1 ha trồng cây lâu năm cho doanh thu từ 40-50 triệu đồng .Trong khi 1 ha đất
phục vụ phát triển công nghiệp có thể sử dụng hàng chục hàng trăm lao động mỗi
năm với thu nhập bình quân mỗi năm gần 10 triệu đồng. Theo điều tra gần đây của
Viện nghiên cứu Trung ương, các doanh nghiệp kinh tế tư nhân đầu tư trung bình
từ 70-100 triệu đồng là đã tạo ra một chỗ việc làm, trong khi đó với doanh nghiệp
nhà nước, thì doanh số từ 210 đến 280 triệu đồng (cao gấp 3 lần), Với suất đầu tư
cho một chỗ làm bình quân như vậy, trong 4 năm qua khu vực kinh tế tư nhân thu
hút được phần lớn nhân công lao động (khoảng từ 1,6 đến 2 triệu chỗ làm việc
mới).
Kết quả sơ bộ tình hình thực hiện luật KKĐT cho thấy , trong 9 năm thực
hiện đã có trên 1,5 triệu lao động được làm trong các dự án thực hiện theo Luật.
Riêng khu vực kinh tế dân doanh đã tạo ra hơn 1 triệu việc làm trực tiếp và hàng
nghìn lao động gián tiếp, đưa tổng số lao động gián tiếp làm trong các doanh
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp dân doanh xấp xỉ bằng tổng các doanh nghiệp nhà nước; và đưa tổng số lao
động làm trong các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân lên hơn 7 triệu
người. Đây là sự đóng góp tích cực vào ổn định chính trị xã hội, xố đói giảm
nghèo, nâng cao nhận thức của lao động nơng thơn
d. Góp phần cân bằng ngoại tệ thông qua xuất khẩu
Nhiều sản phẩm xuất khẩu của nước ta hiện nay đều do khu vực kinh tế tư
nhân sản xuất, như: hàng may mặc, giầy dép, đồ da, hàng thuỷ hải sản, cà phê, cao
su, hạt điều, hạt tiêu, v.v..Theo đánh giá của Bộ Thương mại, khu vực kinh tế tư
nhân, mà chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm và thành phố trực thuộc trung
ương, đóng góp gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước trong các năm
qua. Với xu thế phát triển này, kinh tế tư nhân sẽ là khu vực tạo nguồn thu ngoại tệ
lớn cho đất nước trong tương lai.
Tuy vậy, xuất khẩu của các doanh nghiệp khu vục kinh tế tư nhân ở nhiều địa
phương còn nhỏ và có tỷ lệ chênh lệch giữa các vùng và các tỉnh. Doanh nghiệp ở
các tỉnh phía Nam đóng góp nhiều hơn vào kim ngạch xuất khẩu ở địa phương
trong lúc đó ở các tỉnh phía Bắc nhìn chung cịn chưa đáng kể. Các doanh nghiệp
khu vực kinh tế tư nhân ở Hà Nội chỉ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu
của thành phố, khoảng hơn 7% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước (ở Tp.Hồ Chí
Minh là 12,5%). Nhìn chung, tỷ lệ này ở địa phương là rất thấp, dưới 10%; tuy
nhiên cũng có một số cá biệt như; Hà Giang chiếm 60% xuất khẩu của địa phương,
Quảng Ngãi 34%, Bình Thuận 45%.
e. Đóng góp vào nguồn thu ngân sách
Đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân vào nguồn
ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng lên trong mấy năm gần đây, từ khoảng
6,4% năm 2001 lên hơn 7,4% năm 2002 (tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 5,2% và 6%, của DNNN là 21,6% và 23,4% ).
Thu từ thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
103,6% kế hoạch và tăng 13% so với năm 2001. Năm 2003, số thu từ doanh nghiệp
dân doanh chiếm 15% tổng số thu tăng 29,5% so với cùng kỳ các năm trước.
So với ngân sách trung ương, đóng góp của các doanh nghiệp dân doanh
trong nguồn thu của ngân sách địa phương lớn hơn nhiều. Ví dụ, Thành phố Hồ
Chí Minh đóng góp của doanh nghiệp dân doanh trong tổng thu của ngân sách địa
phương là 15%, Tiền Giang 24%, Đồng Tháp 16%, Gia Lai 22%, Ninh Bình 19%,
Yên Bái 16%, Thái Nguyên 17%, Quảng Nam 22%, Bình Định 33% v.v..
Nhìn chung đóng góp trực tiếp vào nguồn ngân sách nhà nước của các doanh
nghiệp, hộ kinh doanh cá thể theo Luật Doanh nghiệp trong mấy năm qua là chưa
tương xứng với tốc độ phát triển của khu vực kinh tế này. Ngoài đóng góp vào
ngân sách, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp cịn tích cực tham gia đóng góp
xây dựng các cơng trình văn hố, trường học, đường giao thơng nơng thơn, nhà tình
nghĩa và những đóng góp phúc lợi xã hội khác ở các địa phương trong cả nước.
f. Góp phần phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Từ năm 2000 đến nay, thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật KKĐTTN và các
cơ chế, chính sách của Nhà nước hỗ trợ phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, khu
vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, vốn đầu tư đến quy mơ hoạt
động, đã đóng góp phần không nhỏ vào phục hồi và thúc dẩy tăng trưởng kinh tế.
Tác động tích cực này được chuyển tải thông qua tăng thêm vốn đầu tư, thu hút
thêm lao động, phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của người dân, tăng kim ngạch
xuất khẩu, tăng cầu thị trường nội địa, tăng hiệu quả nền kinh tế nhờ tăng thêm tính
cạnh tranh trên thị trường v.v…
Về sản xuất công nghiệp, giá trị sản xuất của doanh nghiệp khu vực kinh tế
tư nhân tăng một cách đột biến, từ 11% năm 1999 lên 18,3% năm 2000 và tiếp tục
duy trì ở mức cao 20,3% năm 2001, 19,3% năm 2002, 8 tháng đầu năm 2003 là
18,4% (so với cùng kỳ năm 2002). Trong 8 tháng đầu năm 2004, giá trị sản xuất ở
một số địa phương tăng với mức cao như Hà Nội: 25,8%, Hải Phòng: 23%, Hà
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tây: 38,4%, Hải Dương: 25,2%, Vĩnh Phúc 27,2%, Bình Dương: 25,6% và cần
thơ: 50,3%. Doanh nghiệp tư nhân hiện đang chiếm một phần không nhỏ trong hầu
hết các ngành công nghiệp chủ yếu: chiếm 50% giá trị công nghiệp chế biến thuỷ
sản, công nghiệp giấy bìa, 30% cơng nghiệp may mặc v.v..Đến nay, tỷ trọng giá trị
sản xuất của doanh nghiệp tư nhân trong công nghiệp chiếm 26,5% giá trị sản xuất
công nghiệp cả nước, tăng 1,85 điểm phần trăm so với thực hiện ở thời điểm cuối
tháng 12 năm 2004, và 4 điểm phần trăm so với kết quả đạt được vào cuối năm
2000, năm đầu tiên thực hiện Luật Doanh nghiệp.
g. Góp phần thúc đẩy đổi mới cơng nghệ
Trong những năm gần đây, đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp
đã có dấu hiệu gia tăng, chủ yếu do xuất hiện của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi. Đầu tư nước ngoài vào việt Nam mang theo những công nghệ và kỹ năng
quản lý mới, đồng thời tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước ứng
dụng tiến bộ cơng nghệ tiên tiến để duy trì thị phần của mình trên thị trường. Năm
2002, ước tính cả nước có khoảng 200 hợp đồng chuyển giao cơng nghệ, trong đó
khoảng 90% số hợp đồng là của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Như vậy,
mức độ đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp so
với yêu cầu phát triển. Cho đến nay, mới chỉ có một số DNNN quy mô lớn (chủ
yếu là các tổng công ty 90, 91) có cơ sở hoạt động nghiên cứu và phát triển cơng
nghệ. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho nghiên cứu, triển khai của khối DNNN ở
Việt Nam cũng còn ở mức thấp, khoảng 0,2% doanh thu, qúa thấp so với tỷ trọng
5-10% của doanh nghiệp các nước phát triển. Trong khi đó, khu vực kinh tế tư
nhân hầu như chưa tham gia hoạt động nghiên cứu và triển khai. Trong ba giai
đoạn phát triển công nghệ là tiếp thu, làm chủ công nghệ và sáng tạo công nghệ,
hầu hết doanh nghiệp Việt Nam chỉ dừng ở giai đoạn tiếp thu công nghệ một cách
thụ động thông qua nhập khẩu máy móc và thiết bị. Trong cơng nghệ nhập khẩu, tỷ
trọng giá trị phần mềm công nghệ chỉ chiếm khoảng 17% tổng giá trị nhập khẩu,
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
còn lại chủ yếu là phần cứng và máy móc, thiết bị. Các doanh nghiệp hiện chưa có
động lực nghiên cứu đổi mới công nghệ để tiếp cận dần tới khả năng sáng tạo công
nghệ. Hàm lượng công nghệ cao và chât xám trong hàng hố của doanh nghiệp
Việt Nam cịn thấp, sản phẩm được làm ra chủ yếu mới dựa vào vốn và lao động.
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Ngoài nguyên nhân khách
quan là do nền kinh tế Việt Nam có quy mơ sản xuất nhỏ và manh mún, trình độ
chun mơn hố chưa cao, nguồn vốn tài chính và vốn nhân lực hạn chế, cịn có
những ngun nhân khác như môi trường kinh doanh hiện tại chưa tạo áp lực đòi
hỏi doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới cơng nghệ. Chính sách bảo hộ bất hợp lý,
mơi trường kinh doanh chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế cơ chế bao cấp,
nhiều đặc quyền còn tồn tại với một bộ phận doanh nghiệp, sự bất ổn định trong cơ
chế chính sách là những yếu tố làm cho các doanh nghiệpViệt Nam có xu hướng
muốn tìm kiếm những lợi ích đặc quyền chính có được lợi ích ngắn hạn hơn là xây
dựng chiến lược kinh doanh dài hạn,v.v..
2. Những hạn chế trong phát triển kinh tế tư nhân
a. Những mặt hạn chế
Có thể nói, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam còn yếu kém về đầu tư vốn,
trình độ cơng nghệ, tay nghề của cơng nhân, năng lực quản lý và những yếu tố
khác, cũng như cịn gặp khó khăn trong việc duy trì lợi nhuận và đảm bảo sức cạnh
tranh cần thiết.
Nhìn chung, tuy các doanh nghiệp tư nhân còn đang chiếm tỷ trọng lớn trong
nền kinh tế, song quy mơ cịn q nhỏ bé, quá yếu ớt để có thể cạnh tranh để có thể
cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Trình độ và kỹ năng quản lý cịn yếu kém, khó ứng phó trước những tác động
bên ngoài, hạn chế về khả năng ngoại ngữ, thiếu thơng tin về thị trường.
Khả năng tài chính cịn hạn chế, dẫn đến quy mơ kinh doanh nhỏ bé, không
đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kém hiểu biết về luật pháp.
b. Những vấn đề bức xúc cần giải quyết
+ Vấn đề đất đai
Luật Đất đai năm 2003 và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật được ban
hành trong năm 2004 là khung pháp luật rất quan trọng, mang tính đột phá, dỡ bỏ
nhiều rào cản, vướng mắc cho các doanh nghiệp, tạo sự bình đẳng giữa các doanh
nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân về quyền có mặt
bằng sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn rất nhiều tồn tại cần
phải khắc phục, trong đó có ba nhóm vấn đề bức xúc nhất:
Thứ nhất, cơ chế quản lý nhà nước về đất đai. Hiện tại, vẫn còn nhiều đầu
mối trong việc quản lý đất đai dẫn đến khó khăn khi xác định vai trò, trách nhiệm
của cơ quan quản lý khác nhau. Thực tế là ở cấp địa phương, doanh nghiệp vẫn gặp
nhiều khó khăn khi phải tiếp cận với nhiều cơ quan chức năng khác nhau để giải
quyết vấn đề đất đai, mặt bằng sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, vấn đề quy hoặch đất. Nhiều doanh nghiệp rất bức xúc trước tình
trạng nhiều thơng tin khơng rõ ràng, không đầy đủ về quy hoạch cũng như kế hoạch
sử dụng đất của địa phương. Tình trạng các địa phương không làm tốt công tác quy
hoạch đất đai và tình trạng quản lý nhà nước về đất đai yếu kém đang là hiện tượng
phổ biến ở các địa phương. Điều này gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp trong
việc tìm kiếm mặt bằng sản xuất, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và đầu tư mở rộng sản
xuất. Cho đến năm 2004, tỷ lệ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận
đất đai cho kinh doanh vẫn còn rất thấp. Thủ tục để doanh nghiệp sử dụng đất
trong các KCN còn rất phức tạp, mất nhiều thời gian; việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất vẫn cịn rất chậm khiến doanh nghiệp khơng n tấm sản xuất,
hạn chế quyền thế chấp để vay vốn. Nhiều doanh nghiệp cho rằng, các chính sách
tạo điều kiện về mặt bằng sản xuất, kinh doanh hiện nay dường như mới chỉ phục
vụ cho một nhom đối tượng doanh nghiệp có quy mơ lớn, trong khi đó ở nước ta
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện nay, có tới 96% doanh nghiệp là quy mô vừa và nhỏ. Hầu hết các doanh
nghiệp vừa và nhỏ không thể vào được các khu công nghiệp do giá thuê đất qúa
cao.
Thứ ba, vẫn cịn tồn tại bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong việc sử dụng đất làm mặt bằng
sản xuất kinh doanh: doanh nghiệp nhà nước được giao đất không thu tiền sử dụng
đất; chủ chương về giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước phải bao gồm giá trị
quyền sử dụng đất chưa được thực hiện nhất quán.
+ Vấn đề thuế và hải quan
Mặc dù Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc đổi mới cơ chế, chính sách
theo hướng thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, nhưng vấn đề bức xúc nhất
hiện nay là việc thực thi chính sách cịn yếu kém. Nhiều chính sách về thuế, hải
quan đã được Chính phủ, Bộ Tài chính hứa hẹn giải quyết trong các cuộc tiếp xúc,
đối thoại với doanh nghiệp trước đây, nhưng cho đến cuối năm 2004 vẫn cịn rất
nhiều vướng mắc. Khn khổ pháp lý và chính sách vẫn chưa thực sự đến với các
doanh nghiệp. Kết quả khảo sát của Phòng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam
cho thấy mới có khoảng 50% doanh nghiệp hài lòng với các thủ tục và công chức
của ngành thúê. Trong hơn một năm, kể từ Hội nghị Thủ tướng Chính phủ gặp
doanh nghiệp tháng 3 năm 2003 đến Hội nghị tháng 10 năm 2004 đã có trên 1.000
kiến nghị của doanh nghiệp về lĩnh vực thuế và hải quan. Các vướng mắc của
doanh nghiệp trong lĩnh vực thuế và hải quan thể hiện ở một số vấn đề chủ yếu sau:
Xác định thuế GTGT đầu vào và thủ tục hoàn thuế GTGT là hai vấn đề bức
xúc nhất của doanh nghiệp. Về tính hợp lệ của các khoản thuế GTGT đầu vào,
doanh nghiệp gặp nhiều vướng mắc trong việc xác minh hóa đơn GTGT. Việc
chứng minh các nguồn gốc các khoản chi phí mua ngồi trị giá từ 100.000 đồng trở
lên bằng hoá đơn đã gây ra nhiều trở ngại cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Thực tế là nhiều đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho doanh
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nghiệp khơng có hoặc khơng đăng ký mua hố đơn với cơ quan thuế (như nông
dân, các hộ kinh doanh cá thể bán nơng sản, dịch vụ). Như vậy, khi mua hàng hóa,
dịch vụ đầu vào của các cơ sở hoặc cá nhân khơng có hố đơn GTGT thì doanh
nghiệp khơng được tính vào chi phí hợp lý và buộc phải chịu thuế, hoặc khi xác
minh tính hợp lệ của cơ sở sản xuất hố đơn, cơ quan thuế khơng tìm được vì cơ sở
đó đã chấm dứt hoạt động (bỏ trốn) thì cơ quan thuế lại không cho doanh nghiệp
được sử dụng những hố đơn này để khấu trừ và thậm chí còn phạt doanh nghiệp
mua hàng. Đây là một nghịch lý vì trách nhiệm quản lý, kiểm tra việc sử dụng và
thu hồi hoá đơn của các cơ sở đã chấm dứt hoạt động là của cơ quan thuế.
Theo quy định, từ lúc doanh nghiệp nộp hồ sơ xin hoàn thuế thì cơ quan thuế
phải giải quyết trong thời hạn khơng qúa 60 ngày. Trong thực tế, nhiều doanh
nghiệp phải chờ từ 3-6 tháng, cá biệt có một số doanh nghiệp phải chờ từ 2-3 năm.
Thời gian hoàn thuế kéo dài làm cho nhiều doanh nghiệp không thể tận dụng
nguồn tài chính của mình phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh
nghiệp phải vay vốn ngân hàng, chịu lãi trong khi chờ đợi được hoàn thuế, hàng tỷ
đồng vốn thực có của doanh nghiệp đang bị cơ quan thuế kìm giữ, làm giảm khả
năng cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành, doanh nghiệp chỉ được đưa chi phí khoản chi cho
hoạt động quảng cáo, tiếp thị… tối đa là 10% của tổng các chi phí hợp lý. Trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt, quảng cáo và tiếp thị là một phần quan trọng của
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là với các doanh nghiệp mới thành
lập. Thực tế cho thấy, trong thời gian đầu, chi phí quảng cáo tiếp thị có thể lên tới
30% tổng chi phí của doanh nghiệp. Như vậy, quy định khống chế 10% đã làm cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn, do đó, quảng cáo trên báo,
đài chỉ là sân chơi của các doanh nghiệp lớn.
Thuế nhập khẩu của một số loại hàng hóa khơng hợp lý đang làm cho nhiều
doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường nội địa.
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chính sách thuế không ổn định, việc hướng dẫn thực hiện chưa thực sự chi
tiết, trong khi thực tiễn lại có nhiều hoạt động phát sinh dẫn đến cách hiểu, cách
thực hiện khác nhau, thiếu đồng bộ, chưa thống nhất và doanh nghiệp bị thiệt thịi.
Việc áp mã số hàng hố, thuế suất hàng hóa trong nước trong nhiều trường hợp cịn
lúng túng, một số tiêu thức phân biệt chưa rõ ràng đã gây khó khăn cho doanh
nghiệp trong kê khai, khấu trừ thuế. Các quy trình giải quyết hồn thuế, thủ tục hải
quan, phân loại hàng hoá, áp mã số thuế, giá tính thuế v.v..vẫn cịn chậm so với u
cầu; hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế, hải quan và các cơ quan chức
năng khác còn chồng chéo, thiếu sự phối hợp, không sử dụng kết quả của nhau;
thiếu sự bình đẳng giữa các cơ quan thuế và doanh nghiệp trong xử lý truy thu, phạt
chậm nộp, hoàn thuế chậm hoặc gây thiệt hại, khó khăn cho doanh nghiệp. Một số
cán bộ trong ngành thuế còn gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp.
+ Thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính rườm rà đang là rào cản lớn đối với các doanh nghiệp.
Theo Hội hội Công thương Thành phố Hà Nội, sau khi đăng ký kinh doanh, doanh
nghiệp còn phải hoàn tất nhiều thủ tục khác nữa và mất nhiều thời gian thì mới có
thể chính thức hoạt động như xin phép khắc dấu, đăng ký mã số thuế, xin cấp sổ
mua hoá đơn… sau khi nhận giấy đăng ký kinh doanh, trung bình một doanh
nghiệp phải mất từ 54 – 63 ngày mới có thể hồn thành hàng loạt công đoạn với
nhiều thủ tục. Cho đến nay, khi gia nhập thị trường, doanh nghiệp còn phải trải qua
6 bước: 1) đăng ký kinh doanh; 2) khắc dấu; 3) đăng ký mã số thuế; 4) đóng thuế
mơn bài; 5) mua hoá đơn lần đầu; 6) đăng báo. Doanh nghiệp chi phí khoảng 170
USD (1/3 GDP bình qn/người) để hồn thành cơng đoạn gia nhập thị trường.
Trong khi đó, ở Australia chỉ cần 2 thủ tục và 2 ngày với chi phí 2% GDP bình
qn/người; Singapore chỉ cần 7 thủ tục trong 8 ngày với chi phí bằng 1,2% GDP
bình qn/người để thành lập doanh nghiệp.
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cho đến nay, một số bộ, UBND tỉnh vẫn có lệnh cấm kinh doanh áp dụng
riêng cho ngành, địa phương mình, phổ biến nhất là nhóm ngành, nghề được coi là
nhạy cảm. Trong hơn 4 năm qua, Thủ tướng Chính phủ đã ba lần chỉ thị UBND các
địa phương bãi bỏ ngay các quy định không đúng thẩm quyền về tạm dừng hoặc
cấm kinh doanh. Tuy nhiên, hiện tượng này không giảm mà còn tăng lên. Theo
thống kê chưa đầy đủ của Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, đến tháng 6
năm 2004 vẫn còn một số bộ và 12 tỉnh/thành phố cịn duy trì các lệnh cấm, hoặc
tạm dừng đăng ký kinh doanh không đúng với quy định của Luật Doanh nghiệp.
Trong bốn năm qua, đã có hàng chục giấy phép được ban hành mới, khơng ít hiện
tượng làm trái quy định về đăng ký kinh doanh vẫn tiếp tục tồn tại như đòi nộp
thêm hồ sơ trái quy định (xác nhận lý lịch tư pháp của người chủ doanh nghiệp, xác
nhận địa chỉ, trụ sở chính, chi nhánh và văn phòng đại diện v.v..), xác nhận hợp
đồng thuê trụ sở, địa điểm kinh doanh, đòi hỏi giấy chứng nhận điều kiện kinh
doanh trước khi thành lập doanh nghiệp.
Cộng đồng doanh nghiệp cho rằng, thủ tục hành chính là một khâu có tốc độ
chuyển biến chậm mặc dù nó có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh. Nhiều thủ tục mặc dù đã được cải hiện song vẫn chưa đáp ứng được với
những thay đổi môi trường bên ngồi, khơng so sánh được với những cải cách của
các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp đang thực sự bức xúc với những vướng
mắc trong thủ tục, trong cách hành sử của một bộ phận công chức đối với các quy
định của luật pháp. Tình trạng chậm trễ trong việc thực hiện các chính sách đang
trở lên khá phổ biến trong các cơ quan hành chính. Sự nhất quán trong cơ chế chính
sách, giữa các quy định pháp luật và việc thực thi chính sách của các cấp chính
quyền đang nổi lên như là điểm nóng nhất.
+ Mơi trường pháp lý vẫn đang là vấn đề bức xúc nhất đối với khu vực kinh
tế tư nhân.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một số văn bản pháp lý chưa theo kịp với các chế tài quy định trong Luật
Doanh nghiệp. Sự chậm chễ trong việc ban hành các văn bản pháp lý vẫn là hiện
tượng phổ biến như thông tư hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghế tư nhân pháp lý,
hướng dẫn xác định thân nhân người thành lập doanh nghiệp.
Trên thực tế, môi trường kinh doanh sau Luật vẫn chưa thực sự bằng phẳng,
thậm chí có những tác động làm méo mó thể chế kinh tế thị trường như xu hướng
hình thành sự hố các quan hệ dân sự. Một số bộ ngành và địa phương có lúng túng
trong cơng tác quản lý, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, thông tin và hỗ trợ
doanh nghiệp. Những bức xúc về môi trường pháp lý cũng như sự yếu kém, bất cập
của các cơ quan quản lý nhà nước ở một số nơi đã làm sai lệch, méo mó những chủ
trương, chính sách của Đảng kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Chi phí trung gian vẫn đang ở mức cao làm giảm khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập. Hiện nay, giá thành một số sản phẩm đầu
vào của doanh nghiệp cao hơn các nước ASEAN và Trung Quốc từ 1,2 đến 1,5 lần.
Chẳng hạn, giá điện, dầu, than, ga ở nước ta cao hơn 30% đến 40%; chi phí vận tải
cao hơn 1,5 lần; cước điện thoại Internet vẫn cao hơn 6 lần so với Singapore, gần 5
lần so với Philipines, 3 lần so với Indonesia. Ngồi ra, các doanh nghiệp cịn phải
đóng nhiều lệ phí, loại phí khác. Mức chi phí đầu vào cao đã tác động đến giá thành
sản phẩm làm cho kinh tế tư nhân khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội
địa và hạn chế vươn ra chiếm lĩnh thị trường khu vực và quốc tế.
Ngoài ra, cho đến năm 2004, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vẫn
cịn nhiều vấn đề bức xúc, như sự bình đẳn thực sự giữa các doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp liên doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong tiếp cận các
nguồn vốn tín dụng; sự độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực
như điện, nước, bưu chính, viễn thơng…; việc cụ thể hố quyền của các doanh
nghiệp theo nguyên tắc doanh nghiệp được phép làm những gì mà pháp luật khơng
cấm như doanh nghiệp được quyền th lao động nước ngồi mà khơng cần xin
25