Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

BÀI BÁO CÁO THỰC TẬP-VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT – Ý THỨC TRONG ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.19 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
  
Tiểu luận Triết học
Đề tài:
VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT – Ý THỨC TRONG
ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN
NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Thầy NGUYỄN NGỌC KHÁ
Thầy NGUYỄN CHƯƠNG NHIẾP
Học viên thực hiện: LÊ THỊ HẰNG NGA
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Văn
Tp.HCM, tháng 1 năm 2011
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
MỤC LỤC
2
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xu thế của thời đại hiện nay là sự phát triển: phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa
học. Bước chuyển biến của thời đại “bùng bổ thông tin” đã tác động mạnh mẽ tới giáo dục.
Nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới – giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; giai đoạn chuyển mình từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và tri thức.
Yếu tố quyết định cho sự thành công của sự nghiệp ấy là con người, vì vậy phải chăm lo
phát triển nguồn lực con người. Nhà trường phải thay đổi nội dung và phương pháp giáo
dục để chuẩn bị cho xã hội một lớp người lao động mới, có những năng lực và phẩm chất
phù hợp với yêu cầu của đất nước trong thời kì mới.
Bên cạnh đó, xu thế phát triển, đổi mới phương pháp giáo dục của các nước trong khu
vực và trên thế giới buộc Việt Nam cũng phải đổi mới. Xu thế ấy đã được UNESCO đề
xướng với bốn trụ cột: học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định
mình.
Ngữ văn là môn học đã được giảng dạy từ lâu ở trường phổ thông và có tác động mạnh


trong việc hình thành nhân cách cho học sinh, cho nên không chỉ ở nước ta mà ở hầu hết các
nước tiên tiến, vấn đề chất lượng dạy học Văn ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu
của các nhà sư phạm cũng như các nhà quản lý giáo dục xã hội. Với cải cách giáo dục, môn
Văn đã đạt được những bước tiến đáng kể. Thế nhưng, một vấn đề đang còn khó khăn và
cần tìm hướng giải quyết hiện nay, đó là vấn đề phương pháp dạy học Văn trong trường phổ
thông. Báo Nhân Dân có hai bài nêu vấn đề phương pháp dạy học với những nhận xét khá
quan trọng: “Có thể nói phương pháp là vấn đề gay gắt cốt lõi nhất của chất lượng”; “Yếu
nhất của đội ngũ này (giáo viên) là phương pháp giảng dạy”. Như vậy đổi mới phương
pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học Văn nói riêng đang là một vấn đề bức xúc
của nhà trường chúng ta.
Mặc dù phát biểu cách đây đã khá lâu, nhưng có thể lấy câu nói của cố thủ tướng
Phạm Văn Đồng sau đây làm tư tưởng chỉ đạo việc đổi mới dạy học Ngữ văn trong nhà
3
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
trường phổ thông: “Ngày nay, sự hiểu biết của con người luôn luôn đổi mới. Cho nên dù
học được trong nhà trường bao nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất hạn chế. Thế cái gì là quan
trọng? Cái quan trọng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp
học tập, phải tìm tòi phương pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của
mình…”. Người viết thật sự rất tâm đắc với điều này và tin rằng đó cũng là suy nghĩ chung
của những người quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và phát triển của đất nước.
Càng nhìn ra thế giới, chúng ta càng mong muốn xúc tiến gấp việc đổi mới phương
pháp khoa học và giáo dục. Cũng như các môn học nói chung, Ngữ văn không tách khỏi sự
tác động của điều kiện, môi trường hoạt động giáo dục trong mối quan hệ với hoàn cảnh,
tình hình chính trị - xã hội chung của đất nước. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chế độ
nào, nhà trường ấy”. Thêm vào đó, trong quá trình học tập Triết học, chúng tôi càng nhận
thấy rõ ràng mối quan hệ này. Vì vậy người viết đã chọn đề tài: “Vận dụng mối quan hệ
vật chất – ý thức trong định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở nhà
trường THPT hiện nay” để tiến hành nghiên cứu. Trong đề tài này, người viết đặc biệt tập
trung nghiên cứu vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và sự ảnh hưởng của nó đến
việc đổi mới mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn.

2. Lịch sử vấn đề
Ngay từ thời cổ đại, Socrat đã đưa ra một phương pháp dạy học hướng tới sự nâng đỡ
học sinh trong quá trình tự mình đi tìm kiến thức, gọi là phương pháp “bà đỡ”. Nhưng chỉ
đến thời hiện đại thì tính tích cực của phương pháp này mới phát triển mạnh. Thế kỉ XVII,
Komenxki, nhà giáo dục nổi tiếng đã viết: “Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy
cảm phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách… hãy tìm ra các phương pháp cho các giáo
viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn”. Tư tưởng này ngày càng được hoàn thiện và bổ
sung bởi những đóng góp của các nhà sư phạm, các nhà giáo dục. Quan điểm dạy học đã có
hệ thống và cơ sở cho nên trong thời gian qua, các nhà trường trên thế giới đều thực hiện
việc đổi mới. Ở Pháp, người ta đã tiến hành cải cách giáo dục (1935), chuyển sang cách dạy
định hướng và quan sát. Ở Nhật đã sử dụng các phương pháp giáo dục tích cực để đào tạo
con người hiện đại của họ. Ở Mỹ, nhà sư phạm nổi tiếng J. Deway đã đưa ra một phương
4
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
châm được xem là cách tân của khoa học sư phạm: “Học sinh là mặt trời xung quanh nó
quy tụ mọi phương tiện giáo dục”. Và ở nhà trường nước ta cũng đang tiếp cận xu hướng
này, tuy vậy do mới vận dụng nên những chuyển biến về phương pháp chỉ là khởi đầu.
Hơn 20 năm qua, gắn với những thành tựu chung của công cuộc đổi mới sâu sắc, toàn
diện trên đất nước ta, sự nghiệp giáo dục đào tạo đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ,
tạo nguồn động lực đưa nhà trường tiến kịp với yêu cầu của thời đại mới đặt ra. Sự chuyển
biến của quá trình giáo dục – đào tạo đã làm thay đổi nhận thức về mục đích, nội dung và
phương pháp dạy, đưa đến cuộc cách mạng thực sự về quan điểm giáo dục. Nguyên bộ
trưởng Bộ Giáo dục Trần Hồng Quân đã từng nói: “Cuộc cách mạng về phương pháp đang
diễn ra trên thế giới có phạm vi rất rộng bao gồm các phương pháp lựa chọn nội dung, các
phương pháp dạy học, các phương pháp sử dụng phương tiện kĩ thuật hiện đại… và chính
cuộc cách mạng về phương pháp này sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục ở
thời đại mới”.
Trong bối cảnh đó, các môn học ở nhà trường đều có sự điều chỉnh, bổ sung phù hợp
với bước phát triển mới của chiến lược giáo dục, góp phần hoàn thiên mô hình nhân cách
học sinh, người chủ nhân tương lai của đất nước. Môn Văn, môn học giữ vị trí quan trọng

trong nhà trường lại càng phải nhanh chóng bước vào đổi mới, khắc phục sự trì trệ, xơ cứng
kéo dài.
Nhìn vào tiến trình học Văn, qua việc phê phán, xóa bỏ những cách thức dạy học cũ –
được gọi là phương pháp truyền thống – và thay thế bằng một số phương pháp dạy học Văn
mới, tình hình dạy học Văn có sự chuyển biến, ý định về cuộc canh tân phương pháp dạy
học được khởi xướng. Tuy nhiên, việc đề xuất phương pháp dạy học Văn đó vẫn chưa hội tụ
đủ điều kiện để tạo ra những chuyển biến thực sự sâu rộng, vững chắc làm cho việc đổi mới
phương pháp dạy học có khả năng hiện thực. Thực tế dạy học Văn ở trường THPT vẫn còn
đặt ra nhiều đòi hỏi cấp thiết, bởi vì các phương pháp dạy học Văn được lựa chọn chưa
khẳng định rõ ưu thế của nó như chủ định. Vì thế, người giáo viên Văn gặp lúng túng, dễ bị
níu kéo trở lại mối mòn của phương pháp dạy học cũ. Từ đó, vấn đề mấu chốt của phương
pháp dạy Văn mới là ở sự thuyết phục của những cơ sở lý luận khoa học và tính khả thi của
5
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
nó qua thực tế dạy học. Có như vậy phương pháp dạy học mới trở thành công cụ hiệu
nghiệm giúp cho người dạy, người học vươn lên hoàn thành nhiệm vụ dạy học đặt ra.
Việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học Văn đòi hỏi người giáo viên Văn phải
bằng suy nghĩ mới, phải tìm ra những cách thức dạy học thích hợp, sáng tạo để làm cho việc
cảm thụ tiếp nhận tác phẩm văn chương được tiến hành theo đúng đặc trưng, tính chất của
môn học đặc thù. Bởi vậy việc thường xuyên quan tâm tìm tòi và lựa chọn những cách thức
dạy học tích cực, hiệu quả cần được xem là mối quan tâm hàng đầu của người giáo viên
trong hoạt động dạy học hiện nay. Muốn vậy, chúng ta phải tiến hành một cách xác lập toàn
diện hệ thống cơ sở lý luận khoa học cũng như kiểm chứng qua thực tiễn dạy học để đề xuất
phương pháp dạy học đạt kết quả tốt nhất.
3. Giới hạn đề tài
Hiện nay các phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học môn Ngữ văn
nói riêng xuất hiện khá nhiều và tập trung lại thành một hệ thống phương pháp giáo dục. Ở
đây, người viết chỉ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu thực tế khách quan và quy luật khách
quan và việc vận dụng một số phương pháp dạy học nhất định dựa trên những điều kiện cụ
thể (khảo sát thực tế tại một trường THPT ở Q 6, Tp.HCM). Trong quá trình tiến hành công

việc, người viết gặp một số khó khăn về tài liệu, về kinh nghiệm thực tế nên việc áp dụng
phương pháp mới vào bài giảng còn nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, với ý nghĩ muốn góp một
phần nhỏ vào công việc đổi mới phương pháp đang rất cần thiết của ngành giáo dục hiện
nay, người viết có thêm cơ sở để tự tin vào công việc mình thực hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tiểu luận một cách hệ thống, hoàn chỉnh và chính xác người viết đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu, tham khảo tài liệu; Phương
pháp khảo sát, thực hành.
6
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
NỘI DUNG
Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I.1. VẬT CHẤT
Theo Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Vật chất là cái tồn tại khách quan cho dù cái tồn tại ấy con người có nhận thức được
hay chưa nhận thức được.
Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên
giác quan của con người.
Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
I.1. Ý THỨC
I.1.1. Bản chất của ý thức
Thứ nhất, ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ
óc con người. Là sự phản ánh chủ động, có chọn lọc gắn liền với nhu cầu, mục đích của con
người. Nghĩa là, không phải mọi sự tác động của thế giới khách quan vào trong bộ óc của
con người cũng hình thành nên ý thức. Là quá trình xâm nhập của lý trí vào hiện thực, làm
hiện thực bộc lộ các thuộc tính, trên cơ sở đó, con người nắm bắt được bản chất và qui luật
của hiện thực. Tính năng động sáng tạo của ý thức còn được biểu hiện dưới dạng ý tưởng. Ý

tưởng dù tồn tại dưới dạng nào bao giờ cũng dựa trên những tiền đề vật chất nhất định.
Thứ hai, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là hình ảnh tinh
thần, không mang tính vật chất, nó nằm trong bộ óc con người nên nó gắn liền với trình độ
tổ chức kết cấu của bộ óc. Ý thức gắn liền với tâm tư, tình cảm, nhu cầu, sở thích, trạng thái,
xúc cảm của con người. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan vì nội dung
7
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
của ý thức mang tính khách quan, do thế giới khách quan qui định, chứ không thể xuyên tạc
thế giới khách quan.
Thứ ba, ý thức mang bản chất xã hội. Ý thức gắn liền với các mối quan hệ xã hội đan
xen chằng chịt với nhau. Chính bản chất xã hội của ý thức là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt
ý thức của con người với tâm lý của động vật.
I.1.2. Kết cấu của ý thức
I.1.2.1. Kết cấu chiều ngang
Tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Theo Mác, tri thức là phương thức tồn tại của ý
thức.
Tình cảm là những rung động của con người trong các quan hệ với hiện thực. Nhờ có
tình cảm mà tri thức mới có sức mạnh và là cơ sở cho hành động.
Niền tin là một trong nhưng hoạt động tinh thần định hướng hoạt động của con người.
Ý chí biểu hiện sức mạnh của con người giúp vượt qua nhưng khó khăn, trở ngại để
thực hiện mục đích của mình.
Tình cảm, niềm tin, ý chí là quan trọng nhưng không được tuyệt đối hóa nó. Nếu tuyệt
đối hóa nó thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan duy ý chí.
I.1.2.2. Kết cấu chiều dọc
Tự ý thức là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên
ngoài.
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng gần như đã trở
thành bản năng, thành kĩ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng
tiềm tàng.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái

độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm chưa có sư truyền tin bên
trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
8
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
I.2. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
I.2.1. Vai trò quyết định của vật chất với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người. Các
Mác đã chỉ ra rằng: “Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất đã được chuyển vào bộ óc con người
và được cải biến trong đó”.
Biểu hiện của mối quan hệ này trong đời sống xã hội là tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội (lĩnh vực vật chất quyết định lĩnh vực tinh thần). Cụ thể là nhân tố vật chất (điều
kiện khách quan, quy luật khách quan) quyết định nhân tố tinh thần (tư tưởng, đường lối,
quan điểm, lý luận, đường lối chính sách, mục tiêu, phương pháp, biện pháp, giải pháp,…).
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: không có vật chất thì sẽ không có
ý thức (có thực mới vực được đạo, có bột mới gột nên hồ,…).
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức: nội dung của ý thức mang tính khách
quan, do thế giới khách quan quy định.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: bản chất sáng tạo và bản chất xã hội
của ý thức cũng phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định.
Thứ tư, vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức.
I.2.2. Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
Ý thức có sự tác động trở lại với vật chất bởi vì: ý thức là ý thức của con người, gắn
liền với tính tích cực, năng động của con người (nhân tố chủ quan); ý thức là sự phản ánh
năng động sáng tạo của thế giới khách quan.
Nếu ý thức phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát
triển. Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của
các quá trình vật chất.
Tự bản thân ý thức không thể có sức mạnh để tác động vào vật chất mà phải thông

quan hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức quyết định sự thành công hay thất bại của
9
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
con người trong thực tiễn. Vì mọi hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động thực tiễn,
đều được diễn ra dưới sự chỉ đạo của ý thức. Nếu ý thức phản ánh đúng bản chất của các
quy luật khách quan, con người xác định mục tiêu, phương hướng một cách đúng đắn, đề ra
biện pháp, giải pháp một cách phù hợp thì hoạt động thực tiễn của con người sẽ thành công.
Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai, con người đề ra biện pháp, giải pháp không phù hợp,
không đúng đắn thì con người sẽ thất bại.
I.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi
hỏi xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng và hành
động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng
động, chủ quan, nghĩa là cấn phải phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ, trì trệ.
Thứ tư, khi giải thích bất kì một hiện tượng xã hội nào đều phải tính đến cả những điều
kiện vật chất lẫn những nhân tố tinh thần, phải tính đến cả những điều kiện khách quan lẫn
những nhân tố chủ quan, phải tính đến vật chất và ý thức.
10
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
Chương II. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN
II.1. VẬT CHẤT QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC – THỰC TẾ KHÁCH QUAN,
QUY LUẬT KHÁCH QUAN QUYẾT ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
II.1.1. Nhân tố vật chất và ý thức trong hoạt động dạy học
II.1.1.1. Nhân tố vật chất trong hoạt động dạy học
Trong hoạt động thực tiễn, nhân tố vật chất là thực tế khách quan, quy luật khách quan
trong miền hoạt động của con người.

Thực tế khách quan trong hoạt động dạy học bao gồm một số yếu tố cơ bản sau: Điều
kiện kinh tế - xã hội ở địa phương nơi diễn ra hoạt động dạy học; cơ sở vật chất, trang thiết
bị, đồ dùng phục vụ cho hoạt động dạy học; trình độ tâm sinh lý của học sinh;…
Ở đây, người viết xin được tập trung làm rõ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng
dạy học và trình độ tâm sinh lý của học sinh, bởi đây là những yếu tố có ảnh hưởng quyết
định hơn cả đến việc đổi mới, lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
Cơ sở vật chất của trường học là tất cả các phương tiện vật chất được giáo viên và học
sinh sử dụng nhằm thực hiện có hiệu quả các chương trình giáo dục, giảng dạy. Khác với
trước kia, nhà trường chỉ lấy việc dạy chữ làm mục đích chủ yếu, nhà trường chỉ là một hệ
thống phòng học. Ngày nay, mục đích đó đã thay đổi, tất yếu nhà trường phải có một cấu
trúc tương ứng. Trường lớp là bộ phận quan trọng của cơ sở vật chất nhà trường, đó là tập
hợp những tòa nhà, mặt bằng, không gian… nơi thực hiện quy trình công nghệ của hoạt
động giáo dục đào tạo.
Cái cốt lõi của cơ sở vật chất trường học chính là thiết bị dạy học. Nhận định về thiết
bị dạy học, V.P.Golov viết: “Phương tiện dạy học là một trong những điều kiện quan trọng
nhất để thực hiện nội dung giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh trong quá trình dạy
học”. Thiết bị dạy học là công cụ lao động của người giáo viên; là công cụ nhận thức của
11
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
học sinh như N.M.Sacmaep đã nói: “Đối với học sinh, thiết bị dạy học là công cụ mà nhờ đó
các em hiểu biết được thế giới xung quanh chúng”. Chính vì vậy, Nghị quyết 40/2000/QH10
của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đổi mới giáo dục phổ thông đã
nêu rõ: “Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực
hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học”.
Quy luật khách quan trong hoạt động dạy học bao gồm một số quy luật: quy luật nhận
thức, quy luật tâm lý, quy luật xã hội,…
Ta biết rằng, bản chất của quá trình dạy học là hoạt động nhận thức độc đáo của học
sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Lênin đã xác định con đường biện chứng của nhận
thức là: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng lại đến thực
tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách

quan.” Đối với học sinh phổ thông, quá trình nhận thức có đặc điểm riêng: Từ chỗ quan sát
và tri giác trực tiếp để hình thành các biểu tượng và khái niệm khoa học; học sinh tri giác
các hình ảnh của các vật và các hiện tượng, lúc này hiện tượng thực tiễn đã được trừu tượng
hóa một bước, để thực hiện con đường này cần trang bị cho nhà trường mô hình, bản đồ,
tranh ảnh, các phương tiện nghe nhìn; học sinh nhận thức được hiện thực xung quanh qua
ngôn ngữ và kí hiệu, để thực hiện con đường này cần có sách vở, báo chí, biểu đồ.
Như chúng ta đã biết, quá trình học được thực hiện thông qua những hoạt động tâm
sinh lý của người học; cũng như vậy, quá trình dạy phải thông qua những hoạt động tâm
sinh lý của người dạy. Những hiện tượng tâm lý về các mặt nhận thức như cảm giác, tri
giác, biểu tượng, ký ức, tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ, chú ý, về mặt tình cảm và xúc cảm,
say mê, xúc động, về mặt ý chí và hành động, kỹ năng kỹ xảo, lý tưởng, niềm tin… là
những hiện tượng tâm lý thường xuyên xảy ra trong quá trình dạy học. Những quy luật tâm
lý đóng vai trò quan trọng, cơ bản trong việc xây dựng các quy tắc về dạy học, đặc biệt là
phương pháp dạy và học.
Trong quá trình giáo dục, xảy ra những mối quan hệ xã hội như quan hệ giữa thầy và
trò, giữa trò và trò, giữa thầy và thầy, giữa cá nhân với tập thể, giữa tập thể này với tập thể
kia. Các mối quan hệ đó chịu sự chi phối của những quy luật xã hội và đương nhiên nó chi
phối lại sự vận động quá trình giáo dục.
12
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
II.1.1.2. Nhân tố ý thức trong hoạt động dạy học
Nhân tố ý thức trong hoạt động thực tiễn của con người là tri thức, tình cảm, ý chí, lý
tưởng của con người (chủ thể hoạt động). Trong hoạt động dạy học, nhân tố ý thức bao
gồm: mục tiêu của hoạt động dạy học; phương hướng, chủ trương của hoạt động dạy học;
phương pháp dạy học; cách thức tổ chức dạy học,…
II.1.2. Vai trò quyết định của nhân tố vật chất với nhân tố ý thức trong lịch sử
dạy học văn ở nhà trường nước ta
Thực tế khách quan nói chung và cơ sở vật chất, thiết bị dạy học nói riêng là một trong
những điều kiện quan trọng trong thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng
cao chất lượng dạy học ở trường phổ thông

Tuy nhiên trong lịch sử giáo dục nước ta, vấn đề cơ sở vật chất kĩ thuật của công tác
giáo dục, mặc dù là không thể thiếu nhưng chưa được xem là một trong những vấn đề cơ
bản, ngang hàng với những vấn đề mục tiêu, nội dung, phương pháp,… Sở dĩ như vậy là vì
từ thời xa xưa, hễ có thầy có trò và một ít giấy bút để viết là có thể tổ chức được công việc
giáo dục; nội dung và phương pháp giáo dục là ở thầy, còn chỗ học có thể là trong nhà,
ngoài sân, một mái chùa…Về sau, với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về cơ sở vật chất kĩ
thuật cho công tác giáo dục tăng lên không ngừng. Ngày nay, cơ sở vật chất kĩ thuật còn mở
ra những khả năng đưa đến những thay đổi lớn trong phương pháp giáo dục.
Bên cạnh đó, chúng ta đang sống trong thế giới tràn ngập thông tin, học sinh thời nay
dễ dàng tiếp cận với những nguồn tri thức mới, phong phú, ngoài trường học nên đặc điểm
tâm sinh lý cũng có nhiều thay đổi so với thế hệ học trò ngày trước. Điều này cũng có tác
động quan trọng đến việc đổi mới và lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp. Tất cả đó
đều thể hiện rõ vai trò quyết định của nhân tố vật chất đến nhân tố ý thức trong hoạt động
dạy học.
II.1.2.1. Nhà trường phong kiến
Dưới chế độ phong kiến trì trệ hàng ngàn năm, thực tại khách quan và quy luật khách
quan không tác động nhiều đến phương pháp dạy học, hình mẫu lớp học phổ biến là thầy
13
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
đồ, cái tráp, con roi, chiếc phản (hay chiếu); học sinh nằm bò ra viết hay ngồi ê a theo nhịp
roi của thầy.
Mục tiêu của giáo dục
phong kiến là nhằm đào
tạo lớp sĩ phu theo lý
tưởng Nho học để trở
thành những người làm
chính sự phục vụ cho
giềng mối đất nước.
Văn chương thời phong
kiến lấy tư tưởng Nho

giáo, đạo Khổng Tử làm
chân lý để thầy và trò
cùng hướng tới, vì vậy
cách học này đã hạn chế tính độc lập và sáng tạo của người học. Nhà trường thời phong kiến
đã tồn tại các hình thức dạy học như:
Lối giảng sách: thầy giải nghĩa các từ khó, câu khó, trò học thuộc.
Lối làm văn: rèn luyện trí nhớ cho người học để thuộc luật làm văn, làm thơ theo
khuôn mẫu có sẵn.
Lối bình văn, bình thơ: cách cảm thụ văn chương, phân tích, đánh giá nội dung, nghệ
thuật tác phẩm văn học của người xưa.
Nhà trường phong kiến đã hình thành phương pháp dạy học: nghe thầy giảng – học
thuộc lòng – nhớ suốt đời.
II.1.2.2. Nhà trường Pháp – Việt
Từ cuối thế kỷ XIX và gần nửa thế kỷ XX, trong hơn 80 năm nước ta bị thực dân Pháp
xâm lược. Dưới chế độ thuộc địa, nền giáo dục Nho học được thay thế dần bằng nền giáo
dục Pháp - Việt, chủ yếu để đào tạo người phục vụ cho bộ máy cai trị của thực dân.
Cái nghiên mực tàu, cái bút lông, giấy bản được thay thế nhanh chóng ào ạt bởi những
vật liệu, phương tiện học hành hiện đại hơn. Lớp học có bàn ghế, bảng treo, trống điểm giờ
14
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
hay chuông báo. Các môn học được xây dựng có quy củ theo chương trình, có kế hoạch
từng môn khác nhau.
Môn Văn thời kì này trở thành một môn học có tính khoa học và nghệ thuật rõ rệt, sâu
sắc hơn, phương pháp dạy học cũng có sự thay đổi hợp lý. Người ta chú ý đến sự phối hợp
giữa ba phân môn: ngữ pháp, giảng văn, làm văn để học sinh có kiến thức văn chương đầy
đủ và khoa học.
Nhà trường Pháp – Việt phân cấp cụ thể, mỗi cấp học có một yêu cầu riêng:
Tiểu học cao đẳng: học sinh được tập đọc, viết chữ biểu hiện tư tưởng tình cảm với tác
phẩm, phát biểu đại ý, bố cục, xác định giá trị tác phẩm. Ở bậc cao đẳng tiểu học, cách học
chủ yếu là học thuộc lòng, chú ý đến những hình tượng nghệ thuật, tiết tấu bài thơ hoặc bài

văn vần nhằm phát triển óc quan sát và khả năng phán xét của học sinh. Bên cạnh đó học
sinh còn được học về từ ngữ, ngữ pháp nhằm rèn luyện cho học sinh cách sử dụng câu, chữ
trong khi nói, viết. Khi học hai năm cuối của bậc cao đẳng tiểu học, học sinh học những bài
văn khó hơn như: những bài văn nghị luận, trữ tình, anh hùng ca,… đồng thời làm quen với
khuynh hướng văn học ở các giai đoạn.
Trung học: vẫn trên cơ sở dạy học ở bậc cao đẳng tiểu học nhưng được mở rộng về
chương trình, thể loại môn học… Công trình biên soạn lần đầu bằng tiếng Việt đề cập đến
công việc của giảng văn là cuốn “Quốc văn trích diễm” của Dương Quảng Hàm (1928). Nội
dung sách gồm những kiến thức tổng quát về văn học sử, thể loại văn học, tác phẩm văn học
được tuyển chọn trong chương trình… với cấu trúc bài giảng theo trình tự:
1. Giới thiệu tiểu sử tác giả
2. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
3. Xuất xứ, đại ý, bố cục
4. Giải nghĩa về tiếng, ý tưởng và pháp văn
5. Xác định giá trị tác phẩm
6. Kết luận.
Công việc chuẩn bị của thầy và trò trước khi lên lớp:
1. Xem xét chú thích và tra cứu chữ khó, điển tích
15
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
2. Trả lời câu hỏi sách giáo khoa về ý tưởng và lời văn của tác phẩm văn chương.
Mục tiêu cao nhất của phương pháp này là “chớ nên biện nạn đến nỗi nói sai hoặc nói
quá nguyên ý tưởng của tác giả”. Lối giảng văn này độc tôn trong nhà trường Pháp – Việt
và còn ảnh hưởng đến ngày nay.
II.1.2.3. Nhà trường thời kì sau Cách mạng tháng Tám
Nhà trường Việt Nam kể từ sau Cách mạng tháng Tám đã có những thay đổi về mục
đích, nội dung và phương pháp giáo dục.
a) Giai đoạn 1945-1975
Đến Cách mạng tháng Tám, cùng với sự đổi đời của dân tộc, một nền văn hóa mới
được xây dựng trên đất nước ta. Nền giáo dục thực dân phong kiến từng bước được thay thế

bằng nền giáo dục cách mạng.
Non nửa thế kỉ, chúng ta phải đương đầu với hai đế quốc đầu sỏ. Mọi nghị lực tinh
thần và vật chất phải huy động cho lẽ sống còn của dân tộc “Giảng văn trong nhà trường
không còn chỉ là câu chuyện chữ nghĩa, văn chương mà trở thành vũ khí chính trị có tác
dụng cổ vũ giáo dục tinh thần yêu nước đánh giặc, xây dựng cuộc sống mới”.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã thay đổi nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Nhiệm vụ chính của cả nước lúc này là: xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu
tranh thống nhất đất nước. Nền giáo dục dân chủ có nền móng vừa xây dựng qua chặng đầu
là điểm tựa vững chắc tạo điều kiện cho nhà trường phát triển. Mục tiêu, nội dung và
phương thức đào tạo ngày càng xác định cụ thể, thích hợp, quy mô giáo dục từng bước được
mở rộng, đội ngũ giáo viên tăng cường hơn trước cả về số lượng lẫn chất lượng, số học sinh
tăng nhanh,… Nhiều công trình nghiên cứu phục vụ cho việc giảng văn xuất hiện, mở đầu
cho công việc xây dựng khoa giảng dạy Văn học ở trường phổ thông. Đội ngũ giáo viên dần
dần nắm được đường lối phương hướng giáo dục đúng đắn của Đảng. Chương trình đào tạo
và phương pháp giảng dạy sát hợp với hoàn cảnh đất nước. Một số hội thảo lớn chuyên đề
về dạy văn đã thu hút được nhiều giáo viên đi vào cải tiến nội dung và phương pháp giảng
dạy. Đồng thời các nguyên tắc dạy Văn như: trực quan, phát huy tính tích cực, tự giác của
học sinh, giảng dạy Văn gắn với đời sống đã được chú ý vận dụng.
b) Giai đoạn 1975 đến nay
16
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
Sau giải phóng miền Nam, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng đất nước, khắc phục mọi
hậu quả của chiến tranh. Trong giai đoạn cách mạng mới, giáo dục là nền tảng, đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo ra nguồn lực cho công cuộc xây dựng đất nước. Do đó, nhiệm vụ
đặt ra lúc này là nhanh chóng cải tạo hệ thống giáo dục.
Hiện nay, sự đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường THPT không còn mang tính
chất tự phát ở một số giáo viên có năng lực và tâm huyết với nghề mà đã trở thành nghĩa vụ
công dân của mọi thế hệ giáo viên. Mục tiêu của giáo dục nước ta là “nâng cao dân trí, đào
tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, luật giáo dục cũng nêu rõ: “Phương pháp giáo
dục phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng

năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Cùng với sự phát triển của đất nước, cơ sở vật chất, trường lớp ở các địa phương trong
cả nước cũng có nhiều thay đổi khác trước, tuy nhiên vẫn còn tình trạng không đồng đều
giữa các địa phương nên việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới
phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng ở các địa phương cụ thể, các trường cụ thể
cũng khác nhau.
Bên cạnh đó, đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT không thể không chú
trọng đến đặc điểm trí tuệ và lối sống của lứa tuổi học sinh từ 16 đến 18 này. Họ là thế hệ
thanh niên có hoài bão, được nuôi dưỡng và phát triển khá toàn diện về thể chất và tinh
thần. Thế hệ học sinh THPT có vốn văn hóa phong phú, có đầu óc phê phán và biết gắn
cuộc sống cá nhân với tương lai và xu thế phát triển của đất nước và thời đại. Họ là những
người trẻ tuổi có ý chí và muốn hòa mình vào thử thách. Đó là những điều kiện tốt thuộc
nhân tố “vật chất” để thực hiện việc đổi mới phương pháp lên lớp của giáo viên tương thích
với cách học của học sinh THPT.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng phương pháp dạy học Văn, chúng ta mắc phải
một số khó khăn hạn chế.
Một là, thực tế cơ sở vật chất của nhiều trường phổ thông hiện nay ở nước ta còn
nghèo nàn, thiếu thốn, không thể áp dụng “phương pháp dạy học mới” với những máy vi
tính, Projector… rất hiện đại nhưng cũng rất tốn kém. Bên cạnh đó, thực tế sĩ số lớp học
bình quân ở các trường phổ thông ít gì cũng từ 35 đến 45 học sinh nên giáo viên không thể
17
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
tổ chức thuyết trình hay seminar theo yêu cầu của “phương pháp dạy học mới” được. Giáo
viên không thể nào kiểm soát nổi buổi thuyết trình hay seminar với mấy chục học sinh một
cách toàn diện và chu đáo (đó là chưa nói đến yêu cầu của giáo viên phổ thông là phải tìm
hiểu nhằm phân loại học sinh yếu, kém để từ đó có phương án bồi dưỡng kèm cặp thêm cho
các em).
Hai là, có một thực tế mà giáo viên dạy văn ở phổ thông ai cũng sợ là nếu áp dụng
“phương pháp dạy học mới” sẽ bị “cháy giáo án” do áp lực thời gian và chương trình dạy.
Để tổ chức một buổi thuyết trình hay seminar theo yêu cầu đổi mới là dạy học tương tác, lấy

người học làm trung tâm, ngoài việc lớp học phải được trang bị đầy đủ những thiết bị dạy
học cần thiết (bàn ghế nhỏ, gọn dễ di chuyển, máy chiếu, máy vi tính…) hay sĩ số học sinh
vừa phải thì vấn đề thời gian là một trong những vấn đề cực kì quan trọng. Thế nhưng, thực
tế thì thời lượng phân bổ cho chương trình dạy văn ở phổ thông đã được Bộ Giáo dục quy
định rất rõ ràng nên nếu áp dụng theo “phương pháp dạy học mới” người dạy sẽ không thể
theo đúng theo tiến độ.
Ba là, cũng có số ít giáo viên muốn áp dụng “phương pháp mới” nhưng lại rất lo lắng
vì bị thêm một áp lực nữa đó là sợ ảnh hưởng đến kết quả thi tốt nghiệp cuối cấp của học
sinh. Có thể nói hiện nay, tuy nhiều nơi buộc giáo viên phải dạy văn theo “phương pháp
mới” trong khi quy trình chấm thi môn văn gần như không có thay đổi gì (nếu không muốn
nói là vẫn giữ nguyên theo phương pháp dạy học cũ). Tức là, kết quả học tập chung của học
sinh vẫn được thực hiện trên cơ sở lấy điểm bình quân kiểm tra và thi cuối học kì, cuối năm
là chủ yếu. Đó là chưa kể việc khi chấm thi vẫn giữ nguyên cách chấm “có ý là có điểm”
chứ ít chú ý đến “sự sáng tạo” mà theo yêu cầu của “phương pháp dạy học mới” đã đề ra.
Từ áp lực này nên có giáo viên phổ thông thậm chí đã cho rằng: “dạy học theo “phương
pháp mới” có khi không khéo học sinh không thi đậu tốt nghiệp”.
Về phía học sinh, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ
và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh
chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo,
suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng
những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ
18
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
của sách vở. Người học chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm
của cá nhân trước tập thể, cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy khá khó khăn.
II.2. Ý THỨC CÓ SỰ TÁC ĐỘNG TRỞ LẠI VỚI VẬT CHẤT
Về sự tác động trở lại của nhân tố ý thức với nhân tố vật chất trong định hướng đổi
mới phương pháp dạy học Ngữ văn nói riêng và đổi mới phương pháp dạy học nói chung là
một công việc cần nghiên cứu, thống kê, tìm hiểu công phu và khoa học. Ta biết rằng thực tế
khách quan và quy luật khách quan thể hiện nội dung cũng như phương pháp dạy học, cho

nên sự thay đổi về chương trình và phương pháp cũng sẽ làm thay đổi thực tế khách quan và
quy luật khách quan. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, người viết xin chỉ tập trung vào vai
trò của quyết định của nhân tố vật chất với nhân tố ý thức trong việc định hướng đổi mới
phương pháp, lựa chọn phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT.
19
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
Chương III. ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT BÌNH
PHÚ, Q.6, TP HCM
Việc thay đổi hay triển khai, áp dụng vào thực tế dạy học một “phương pháp mới” nào
đó theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trước hết, phải nhìn thẳng vào thực tế và
hoàn cảnh mỗi trường, mỗi vùng, miền… xem có thể áp dụng “phương pháp mới” được hay
không? Như đã nói, thực tế hiện nay ở nước ta, ngoài một số trường đại học trọng điểm có
cơ sở vật chất tương đối hiện đại (có thể áp dụng “phương pháp dạy học mới” nào đó từ mô
hình của các nước có nền giáo dục tiên tiến) thì hầu hết trường và lớp học của chúng ta đều
rất khó khăn, thiếu thốn. Việc các “nhà phương pháp” cứ máy móc yêu cầu giáo viên phải
áp dụng “phương pháp mới” vào dạy học văn như hiện nay là rất không nên. Học hỏi, tiếp
thu những thành tựu, phương pháp dạy học của bạn bè thế giới là cần thiết nhưng không nên
rập khuôn theo họ. Không thể nói rằng nước ngoài họ làm vậy, chúng ta cứ áp dụng theo là
sẽ thành công. Tại sao chúng ta không nhìn thẳng vào một thực tế là đất nước ta còn nghèo,
cơ sở vật chất, trường lớp cho con em chúng ta học còn thiếu thốn mà đề ra một phương
pháp dạy học nào đó cho phù hợp? Sao chúng ta không học theo “phương pháp” của cha
ông ta ngày xưa đã dạy là “liệu cơm gắp mắm” hay “nhập gia tùy tục”?
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quyết định của vật chất với
ý thức, nhưng để nghiên cứu đầy đủ về mối quan hệ này trên phương diện rộng cần nhiều có
sự nghiên cứu công phu và khoa học, ở đây, người viết chỉ tìm hiểu sự tác động của nhân tố
vật chất đến việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở một trường THPT (trường
THPT Bình Phú, Q.6, Tp.HCM) mà người viết đang tham gia giảng dạy.
1. NHÂN TỐ VẬT CHẤT
1. Thực tế khách quan

Điều kiện kinh tế - xã hội ở quận 6:
20
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
Quận 6 Tp Hồ Chí Minh hiện có 2 trường THPT công lập là Mạc Đĩnh Chi và Bình
Phú, 2 trường THPT dân lập là Phan Bội Châu và Phạm Ngũ Lão, ngoài ra còn có trường
THKT Phú Lâm và Trung tâm Giáo dục thường xuyên.
Thành phần dân cư đa số là dân lao động, mức độ phân hóa giàu nghèo khá gay gắt.
Người Hoa chiếm tỉ lệ khá cao trong dân cư.
Tình hình học sinh bỏ học ngày càng giảm và thấp hơn so với tỉ lệ bỏ học của toàn
thành phố.
Các cấp lãnh đạo địa phương ngày càng quan tâm nhiều hơn đến sự nghiệp giáo dục.
Cơ sở vật chất của trường THPT Bình Phú:
Chỉ danh Số lượng Diện tích Qui cách kỹ thuật Công năng
Phòng học 36 51.8m
2
7.2m × 7.2m Dạy học
Phòng TN Lý 1 51.8m
2
7.2m × 7.2m Thí nghiệm
Phòng TN Hóa 1 51.8m
2
7.2m × 7.2m Thí nghiệm
Phòng TN Sinh 1 51.8m
2
7.2m × 7.2m Thí nghiệm
Phòng TN LHS 0
Phòng TN HS 0
Phòng Lab 1 51.8m
2
7.2m × 7.2m Dạy Anh Văn

Phòng vi tính 2 51.8m
2
7.2m × 7.2m Dạy Tin học
Phòng nghe nhìn 2 51.8m
2
7.2m × 7.2m Thao giảng, dạy học
Hội trường 1 300m
2
17.2m × 17.2m Họp, hội thảo
Thư viện 1 181.3m
2
13.4m ×13.4m Kho sách, đọc sách
Trong đó, nhóm thiết bị phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn
gồm có các thiết bị nghe nhìn, máy chiếu được lắp đặt tại 2 phòng nghe nhìn của trường
THPT Bình Phú. Nếu giáo viên muốn sử dụng những thiết bị này phải đăng kí trước một
tuần, và đến giờ học phải di chuyển cả lớp đến một trong hai phòng này, nên nhìn chung,
việc đổi mới phương pháp dạy học Văn còn nhiều khó khăn khi áp dụng thiết bị dạy học…
Trình độ, đặc điểm tâm sinh lý của học sinh:
Học sinh có những đặc điểm của vùng ven: mộc mạc, chân chất, sớm tiếp thu cái mới
và dễ bị tiêm nhiễm thói hư tật xấu.
Trình độ học vấn chưa thể so sánh với vùng nội thành như quận 1, quận 3… nhưng
đang có chiều hướng tiến triển nhanh về số lượng và chất lượng.
21
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
2. Quy luật khách quan
Nhóm các quy luật khách quan tác động đến hoạt động dạy học ở trường Bình Phú
cũng không nằm ngoài những quy luật khách quan chi phối hoạt động dạy học nói chung.
Bản thân các quy luật phát huy tác dụng không phụ thuộc vào ý muốn con người, không
phải vì lợi ích của con người. Nhưng con người lại có thể vận dụng các quy luật đó để phục
vụ lợi ích của mình. Vận dụng quy luật là trên cơ sở hiểu biết quy luật, hoặc không hành

động trái với quy luật, hoặc tác động tới các điều kiện phát huy tác dụng của quy luật để làm
cho quy luật đó hoạt động nếu tác dụng của nó có lơi, hoặc không hoạt động nếu tác dụng
của nó có hại cho lợi ích của con người. Có nghĩa là, xét đến cùng, con người không thể làm
trái quy luật, làm trái quy luật nhất thiết sẽ thất bại. Con người vận dụng các quy luật để dự
đoán, dự kiến những việc sẽ xảy ra, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, quy tắc, phương pháp,
biện pháp hành động phù hợp.
2. NHÂN TỐ Ý THỨC
Căn cứ vào thực tế khách quan và quy luật khách quan, nhà trường đã đưa ra mục tiêu
cụ thể cho trường mình là: “Phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo, tạo uy tín cho nhà
trường và trang bị cho học sinh có đủ khối lượng kiến thức cần thiết trong cấp học THPT và
các bậc học cao hơn. Tạo môi trường học tập thân thiện, tránh áp lực cho giáo viên trong
quá trình giảng dạy và học sinh trong quá trình học tập”.
Như chúng ta biết, nhân tố vật chất có vai trò quyết định đối với nhân tố ý thức, nên
với từng trường học cụ thể cần căn cứ vào thực tế khách quan và quy luật khách quan cụ thể
của nhà trường để đưa ra những mục tiêu, nội dung dạy học từng môn học phù hợp, từ đó có
những định hướng đổi mới và lựa chọn phương pháp thích hợp với đặc điểm riêng của nhà
trường. Từ mục tiêu chung nói trên, và từ sự hiểu biết về vai trò quyết định của nhân tố vật
chất với nhân tố ý thức, người viết cũng xin đề xuất mục tiêu và một số phương pháp, biện
pháp dạy học môn Ngữ văn tại trường THPT Bình Phú.
1. Mục tiêu và nội dung dạy học môn Ngữ văn
Không có mục tiêu xác định, dù có phương pháp tốt thì “mũi tên phương pháp” sẽ bay
vô hướng trong không gian. Hệ thống phương pháp dạy học môn Ngữ văn có hiệu lực hay
22
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
không là tùy thuộc vào mục tiêu có chính xác, cụ thể hay không. Điều cần lưu ý trong đổi
mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở THPT hiện nay là phải tìm cách để học sinh cũng
quan tâm và thấm nhuần mục tiêu môn Ngữ văn trong chương trình cấp học.
Việc xác định mục tiêu môn học và mục đích từng bài sẽ chỉ là ảo tưởng, không bao
giờ có thể thực hiện trọn vẹn nếu người giáo viên và những nhà sư phạm không tìm cách
xác định con đường đi đến mục tiêu ấy.

Mục tiêu của dạy học Ngữ văn ngày nay không chỉ nhằm mục đích truyền thụ một
khối lượng kiến thức, rèn luyện một số kĩ năng, giáo dục một số phẩm chất bằng con đường
áp đặt từ giáo viên và học sinh chỉ là một con người thụ động. Dạy học Ngữ văn bây giờ
nhằm mục tiêu cao nhất là giúp học sinh có thể chủ động tự học dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.
Đổi mới dạy học phải gắn liền với đổi mới nội dung. Nội dung dạy học môn Ngữ văn
là nhằm trau dồi năng lực văn kể từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường cho tới lúc ra đời phải
biết xoay xở “lúc phải nói, phải viết thì đó là trước những cảnh ngộ và sự cần thiết diễn tả
những điều xa lạ vô cùng với sách vở , nhà trường”.
2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THPT Bình
Phú
Vấn đề phương pháp dạy học nổi lên như một yêu cầu cấp thiết bởi “dạy như cũ thì
không những việc dạy Văn không hay, mà sự đào tạo cũng không hay” (Phạm Văn Đồng).
Dạy học Văn phải là một quá trình liên kết nhiều khâu: dạy cách viết cách nói, dạy đọc văn,
cảm thụ văn để cuối cùng hiểu cái kì diệu của văn học “là công cụ để dạy những cái đúng,
cái hay, cái đẹp”.
Đặc điểm của môn Ngữ văn ở trường THPT là sự kết hợp của ba phân môn: Đọc văn,
tiếng Việt và Làm văn. Với mỗi phân môn lại có nhưng phương pháp giảng dạy đặc trưng
riêng. Ở đây, người viết chỉ đề cập đến những phương pháp chung nhất của cả ba phân môn
này.
23
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
Ta biết rằng phương pháp mới không phải là cái gì xa lạ, mà chính là biết phối hợp tốt
giữa phương pháp truyền thống và phương pháp hiện đại. Đó là phương pháp tổng hợp bởi
không có phương pháp vạn năng dù đó là phương pháp tốt nhất.
1. Phương pháp giảng dạy truyền thống và sử dụng thiết bị
Với điều kiện và tình hình học sinh của trường hiện nay, phương pháp giảng dạy
truyền thống (phương pháp thuyết giảng) trong đó người giáo viên vẫn đóng vai trò chủ đạo
truyền bá kiến thức, kết hợp với sử dụng thiết bị giảng dạy hiện đại (giáo án điện tử). Việc
sử dụng bài giảng điện tử với những hình ảnh, âm thanh sinh động làm cho người học dễ

dàng tiếp thu, khắc sâu kiến thức và tăng hứng thú học tập của học sinh. Thông qua bài
giảng điện tử, giáo viên có nhiều thời lượng để đặt các câu hỏi gợi mở, tạo điều kiện cho
học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Đó là những tiền đề để sau khi tốt nghiệp
người học sẽ làm chủ kiến thức của mình, biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo những thành
tựu của công nghệ thông tin trong quá trình công tác.
2. Phương pháp tích cực
Đối với môn Ngữ văn ở trường THPT Bình Phú thì phương pháp dạy học tích cực
chưa được sử dụng thường xuyên, tuy nhiên với đặc điểm của học sinh trường vùng ven thì
phương pháp này tin rằng sẽ phát huy hiệu quả cao nhất. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên,
học sinh sẽ biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo, tự mình khám phá kiến thức mới.
3. Phương pháp dạy học theo nhóm
Đây là phương pháp được sử dụng nhiều nhất hiện nay, nó mang lại tính hiệu quả cao
trong giảng dạy và học tập, cũng như sẽ giúp ích rất nhiều cho học sinh trong việc phát triển
kĩ năng làm việc nhóm để ứng dụng làm việc sau khi đã ra trường. Phương pháp dạy học
này sẽ giúp khắc phục những nhược điểm về cơ sở vật chất của trường, học sinh có thể kết
hợp với nhau và bổ sung cho nhau để cùng nhau giải quyết một vấn đề nào đó. Phương pháp
này sẽ phát huy hiệu quả cao nhất trong phân môn Làm văn và Tiếng việt.
Yêu cầu đổi mới của các phương pháp trên là:
1. Dạy học phải hiệu quả và hứng thú
2. Ứng dụng hiệu quả các thiết bị dạy học có được
3. Khai thác nguồn kiến thức vô tận trân Internet phục vụ giảng dạy
24
Tiểu luận Triết học Lê Thị Hằng Nga
4. Khắc phục những nhược điểm của học sinh như: làm việc theo nhóm còn hạn chế,
chưa hiệu quả; diễn đạt còn yếu kém, chưa xác định mục tiêu học tập; không tôn
trọng sản phẩm của mình (các bài tập, các đề tài được giao).
5. Phát huy tính tích cực của học sinh: năng động, thông minh, sáng tạo.
25

×