Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

BÀI TIỂU LUẬN-phép biện chứng duy vật vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong hoạt động của các doanh nghiệp nói chung cũng như trong công tác của các cán bộ từ quản lý đến nhân viên trong doanh nghiệp nói riêng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.28 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
I. Lời nói đầu…………………………………………………………………….2
II. Khái niệm phép biện chứng duy vật……………………………………… 3
III. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật…………………………….4
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến……………………………………… 4
1.1. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến…………………………………4
1.2. Các phạm trù cơ bản của phép biện chứng…………………………4
1.2.1. Cái chung, cái riêng, cái đơn nhất………………………………4
1.2.2. Nguyên nhân, kết quả………………………………………… 5
1.2.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên…………………………………………6
1.2.4. Nội dung và hình thức………………………………………… 6
1.2.5. Bản chất và hiện tượng………………………………………….7
1.2.6. Khả năng và hiện thực………………………………………… 8
2. Nguyên lý về sự phát triển…………………………………………………8
2.1. Khái niệm về sự phát triển………………………………………….8
2.2. Các quy luật chung nhất của phép biện chứng duy vật phản ánh sự
phát triển…………………………………………………………….9
2.2.1. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập………… 9
2.2.2. Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những
sự thay đổi về chất…………………………………………… 10
2.2.3. Quy luật phủ định của phủ định……………………………… 10
3. Ý nghĩa của phép biện chứng trong hoạt động thực tiễn của con người….11
IV. Liên hệ công tác của bản thân…………………………………………… 14
1. Ý nghĩa của việc vận dụng phép biện chứng duy vật trong thực tiễn công
việc quản lý của bản thân tại doanh nghiệp đang công tác:………………14
2. Vận dung phép biện chứng duy vật để nâng cao hiệu quả làm việc trong
công tác quản lý của bản thân tại doanh nghiệp đang công tác:………….16
2.1. Người quản lý phải nắm bắt chính xác các quy luật khách quan 16
2.2. Phát huy tính sáng tạo của nhân viên trong công việc…………….16
2.3. Phát hiện kịp thời, phân tích và giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng
chỗ, đúng điều kiện……………………………………………… 17


2.4. Khắc phục biểu hiện của phương pháp siêu hình trong công tác 17
V. Kết luận………………………………………………………………………18
I. Lời nói đầu
Trong thực tiễn, hoạt động của con người tồn tại trên nhiều lĩnh vực khác
nhau với nhiều mục tiêu khác nhau. Nhằm đạt được những mục tiêu đó, con người
phải nắm bắt được các mối liên hệ và các quy luật chung nhất về sự vận động,
1
phát triển của mọi sự vật, hiện tượng để tránh mắc phải những sai lầm không đáng
có. Điều đó đòi hỏi mỗi chúng ta phải có những lý luận đúng đắn soi đường mà
trong đó triết học nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng đóng vai trò vô
cùng quan trọng.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật chung nhất, phổ biến nhất
về sự vận động, phát triển của hiện thực khách quan và của nhận thức khoa học,
nó thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất giúp con người đề ra những
nguyên tắc tương ứng, định hướng hoạt động lý luận và thực tiễn.
Chính vì thế việc nghiên cứu và nắm vững phép biện chứng duy vật vừa có ý
nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong hoạt động của các doanh nghiệp nói
chung cũng như trong công tác của các cán bộ từ quản lý đến nhân viên trong
doanh nghiệp nói riêng. Trong công tác của bản thân, tại vị trí quản lý kỹ thuật
cho một doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc nắm vững các nguyên lý, phạm trù, quy
luật của phép biện chứng duy vật đóng vai trò rất lớn góp phần định hướng công
việc quản lý và từ đó tạo nên hiệu quả cao hơn cho công tác của bản thân tôi.
II. Khái niệm về phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật là khoa học nghiên cứu những quy luật phổ biến của
sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. Do
2
đó phép biện chứng chính là “học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức
của con người phản ánh vật chất phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không
ngừng”.

Sự ra đời của phép biện chứng duy vật gắn liền với những thành tựu phát triển
rực rỡ của khoa học tự nhiên và thực tiễn cách mạng trong thế kỷ XIX, do đó phép
biện chứng này là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp biện chứng. Đây trở thành quy luật chung nhất của cả 03 lĩnh vực: tự nhiên,
xã hội, tư duy. Phép biện chứng duy vật đã khắc phục toàn bộ tính tự phát của
phép biện chứng cổ đại, vượt qua phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển
Đức, đẩy lùi phương pháp siêu hình, đưa phép biện chứng từ tự phát lên tự giác.
Phương pháp biện chứng duy vật trở thành phương pháp tư duy khoa học mới
nghiên cứu những quy luật chung nhất, phổ biến nhất về sự vận động, phát triển
của hiện thực khách quan và nhận thức khoa học, nó trở thành phương pháp luận
chung nhất giúp con người đề ra những nguyên tắc định hướng hoạt động lý luận
và nhận thức.
Phép biện chứng duy vật qua sự thống nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng không chỉ dừng lại ở phương pháp giải thích thế giới mà còn trở thành
phương pháp cải tạo thế giới. Nó định hướng việc nghiên cứu sự vật, hiện tượng,
từ việc thấy trước phương hướng vận động chung của sự vật, hiện tượng, xác định
được các giai đoạn của việc nghiên cứu, đề ra các phương pháp nghiên cứu cũng
như giải thích kết quả đạt được. Từ những kết quả đạt được do công tác thực
nghiệm khoa học, trải qua quá trình khái quát, trừu tượng hóa để thâm nhập sâu
vào bản chất của sự vật, hiện tượng từ đó phát hiện ra các quy luật.
Những đặc trưng mang tính phổ quát của toàn bộ thế giới hiện thực được khái
quát thành hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
III. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
1.1. Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học dùng để khái quát sự quy định, tác
động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau và tách biệt nhau giữa các sự vật, hiện tượng
3
hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới. Các mối liên hệ có

tính khách quan, phổ biến và giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và
tư duy đều tồn tại các mối liên hệ. Sự phong phú đa dạng của các sự vật hiện
tượng dẫn đến sự đa dạng các mối liên hệ giữa chúng.
Nguyên lý này khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới trong những mối liên
hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Mối liên hệ phổ biến là đặc
trưng khái quát về sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Từ nguyên
lý này, con người rút ra được các quan điểm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
1.2. Các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
Các mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng được phép biện chứng
duy vật khái quát thành các phạm trù cơ bản như cái riêng, cái chung, cái đơn
nhất; tất nhiên và ngẫu nhiên; bản chất và hiện tượng; nguyên nhân và kết quả;
khả năng và hiện thực; nội dung và hình thức. Nguồn gốc của các phạm trù này là
thực tiễn, chúng được hình thành và phát triển trong quá trình nhận thức, cải tạo tự
nhiên và xã hội của con người. Các phạm trù này luôn vận động và phát triển, bổ
sung thêm để phản ánh đúng đắn và đầy đủ về những sự vật, hiện tượng của thế
giới khách quan. Do vậy, các phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là
hệ thống bất biến mà chúng phát triển cùng với sự phát triển của khoa học.
1.2.1. Phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất và ý nghĩa của nó trong
nhận thức thực tiễn
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng nhất
định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính
lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng. Cái đơn nhất là phạm trù triết học để chỉ
những mặt, những đặc điểm chỉ có trong một sự vật, hiện tượng mà không lặp lại
ở các sự vật hiện tượng khác.
Mối liên hệ giữa cái đơn nhất và cái chung thể hiện trong mối liên hệ lẫn nhau
trong một thể thống nhất giữa các yếu tố riêng lẻ vốn có trong một sự vật, hiện
tượng và các yếu tố lặp lại trong các sự vật, hiện tượng khác. Còn mối liên hệ giữa
cái chung và cái riêng, cái riêng và cái đơn nhất biểu hiện ở mối liên hệ lẫn nhau

giữa cái toàn bộ và cái bộ phận. Trong đó cái riêng là cái toàn bộ, còn cái bộ phận
có thể là cái chung hoặc cái đơn nhất bởi bên cạnh cái chung thì bất cứ cái riêng
nào cũng có cái đơn nhất, bên cạnh những mặt được lặp lại còn có những mặt cá
biệt, không lặp lại. Trong cùng một lúc, sự vật, hiện tượng vừa là cái đơn nhất,
vừa là cái chung.
Từ đây ta thấy được ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù cái riêng,
cái chung, cái đơn nhất. Bất cứ cái chung nào cũng tồn tại trong cái riêng, như một
4
mặt của cái riêng, có mối liên hệ chặt chẽ với cái đơn nhất và tạo cho nó một hình
thức riêng biệt, thì các phương pháp thực tiễn dựa trên việc vận dụng một quy luật
chung nào đó đều không thể như nhau đối với tất cả sự vật, hiện tượng có liên hệ
với cái chung đó. Bản thân cái chung trong tất cả các sự vật, hiện tượng là cái
chung được cá biệt hóa, phương pháp luận cũng vì vậy phải thay đổi hình thức
cho phù hợp với từng trường hợp. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước là
khác nhau, việc bắt chước mù quáng hay việc coi kinh nghiệm của các nước đi
trước là đặc thù của nước đó đều là các khuynh hướng gây tổn thất cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Nguyên nhân và kết quả
Những cái làm cho cái này sinh ra cái kia, quyết định sự xuất hiện của cái kia
là nguyên nhân, còn cái được xuất hiện, được quyết định là kết quả. Như vậy,
nguyên nhân là sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định. Kết
quả là những biến đổi xuất hiện do do sự tương tác qua lại nhau giữa các mặt
trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Phép biện chứng duy vật cho rằng mối liên hệ nhân quả có tính khách quan,
phổ biến và tất yếu. Từ quan niệm kết quả cho nguyên nhân sinh ra phụ thuộc vào
những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, phép biện chứng duy vật cho rằng, một
nguyên nhân nhất định trong điều kiện nhất định chỉ có thể gây ra kết quả nhất
định, bởi vậy, nguyên nhân càng ít khác nhau bao nhiêu, kết quả do chúng gây ra
càng ít khác nhau bấy nhiêu. Tuy nhiên quan niệm duy vật biện chứng về phạm

trù này không cứng nhắc, trong quá trình vận động và phát triển, nguyên nhân và
kết quả có thay đổi vị trí lẫn nhau và chuyển hóa lẫn nhau. Cái trong thời điểm
hay mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong thời điểm, mối quan hệ khác là kết
quả. Trên thực tế, một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra.
Từ đây có thể rút ra ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù nguyên
nhân và kết quả. Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân của nó và do nguyên
nhân quyết định nên để nhận thức được một sự vật, hiện tượng cần tìm nguyên
nhân xuất hiện của nó. Để loại bỏ một sự vật hiện tượng thì phải trừ bỏ nguyên
nhân sinh ra nó. Khi cần nhận thức tác dụng của một sự vật, hiện tượng thì cần
nghiên cứu sự vật, hiện tượng đó trong mối quan hệ mà nó giữ vai trò kết quả
cũng như trong những mối quan hệ mà nó giữ vai trò nguyên nhân. Có nhiều
nguyên nhân sinh ra sự vật, hiện tượng nên muốn gây ra một sự vật, hiện tượng có
ích cho thực tiễn cần phải lựa chọn phương án thích hợp nhất với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể. Đặc biệt lưu ý việc nhận thức và hành động phải dựa vào các nguyên
nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong trước.
1.2.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
5
Tất nhiên do mối liên hệ bản chất, do những nguyên nhân cơ bản bên trong
của sự vật, hiện tượng quy định và trong những điều kiện nhất định phải xẩy ra
đúng như thế chứ không thể khác. Ngẫu nhiên do mối liên hệ không phải bản
chất, do những nguyên nhân, hoàn cảnh bên ngoài quy định; có thể xuất hiện, có
thể không xuất hiện; có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế khác. Theo
quan niệm của phép biện chứng duy vật, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách
quan trong sự thống nhất hữu cơ, thể hiện ở chỗ, tất nhiên bao giờ cũng vạch
đường đi cho mình thông qua vô số ngẫu nhiên, còn ngẫu nhiên là hình thức biểu
hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò
nhất định trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Nếu tất nhiên đóng vai
trò chi phối sự phát triển, thì ngẫu nhiên có thể làm cho sự phát triển ấy diễn ra
nhanh hoặc chậm. Tuy mỗi một sự vật, hiện tượng đều có tất nhiên và ngẫu nhiên,
nhưng trong quá trình vận động và phát triển, thông qua mối liên hệ này thì đó là

ngẫu nhiên, còn thông qua những mối liên hệ khác thì đó là tất nhiên và trong
những điều kiện nhất định, chúng chuyển hoá lẫn nhau. Ranh giới giữa tất nhiên
và ngẫu nhiên chỉ có tính tương đối, cần tránh quan niệm cứng nhắc khi nghiên
cứu sự vật, hiện tượng.
Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù tất
nhiên và ngẫu nhiên. Nếu tất nhiên nhất định phải xảy ra đúng như thế, thì trong
hoạt động thực tiễn cần phải dựa vào tất nhiên chứ không dựa vào ngẫu nhiên.
Nếu tất nhiên không tồn tại dưới dạng thuần tuý, thì trong hoạt động nhận thức chỉ
có thể chỉ ra được tất nhiên bằng cách nghiên cứu những ngẫu nhiên mà tất nhiên
phải đi qua. Ngẫu nhiên có ảnh hưởng thậm chí biến đổi nhịp độ phát triển, do
vậy, không nên bỏ qua ngẫu nhiên mà luôn có những phương án dự phòng trường
hợp các sự cố ngẫu nhiên xuất hiện bất ngờ. Do ranh giới giữa tất nhiên với ngẫu
nhiên chỉ là tương đối, thì sau khi đã nhận thức được những điều kiện có thể tạo ra
sự chuyển hoá trên, có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi để biến ngẫu nhiên phù
hợp với thực tiễn thành tất nhiên và tất nhiên không phù hợp thực tiễn thành ngẫu
nhiên.
1.2.4. Nội dung và hình thức
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng ấy; là
hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật, hiện
tượng không chỉ là cái biểu hiện ra bên ngoài, mà còn là cái biểu hiện cấu trúc bên
trong của sự vật, hiện tượng.
Nội dung và hình thức của sự vật, hiện tượng tồn tại thống nhất chặt chẽ trong
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, trong đó nội dung giữ vai trò quyết định và trong
những điều kiện nhất định, cái này chuyển hoá thành cái kia. Hình thức xuất hiện
trong sự quy định của nội dung và sau khi xuất hiện, hình thức tồn tại tương đối
6
độc lập và ảnh hưởng tới nội dung và đem lại các hệ quả nhất định. Khi hình thức
phù hợp với nội dung, nó là động cơ thúc đẩy nội dung phát triển, còn khi không
phù hợp hình thức sẽ cản trở sự phát triển của nội dung. Cùng một nội dung có thể

thể hiện dưới nhiều hình thức và cùng một hình thức có thể thể hiện những nội
dung khác nhau. Sự vật, hiện tượng phát triển thông qua sự đổi mới không ngừng
của nội dung và sự thay đổi theo chu kỳ của hình thức.
Từ đây, có thể rút ra một số phương pháp luận cơ bản của phạm trù nội dung
và hình thức. Muốn biến đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải tác động, thay
đổi nội dung của nó. Nếu hình thức phù hợp với nội dung, để thúc đẩy một sự vật,
hiện tượng nào đó phát triển nhanh chóng, cần phải chú ý đến mối quan hệ giữa
nội dung đang phát triển và hình thức ít thay đổi, và khi hình thức không phù hợp
với nội dung, cần phải can thiệp vào tiến trình khách quan, tạo thay đổi cần thiết
về hình thức để hình thức dần phù hợp với nội dung đã phát triển.
1.2.5. Bản chất và hiện tượng
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối
ổn định bên trong quy định sự vận động, phát triển và thể hiện mình qua các hiện
tượng tương ứng của sự vật, hiện tượng. Hiện tượng là sự biểu hiện của những
mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương đối ổn định ở bên ngoài; là mặt dễ biến đổi
hơn và là hình thức biểu hiện bản chất của sự vật, hiện tượng.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan trong mối liên hệ hữu cơ. Mỗi
sự vật, hiện tượng đều là sự thống nhất giữa bản chất với hiện tượng và sự thống
nhất đó được thể hiện ở chỗ, bản chất tồn tại trong sự thể hiện mình thông qua
hiện tượng còn hiện tượng phải là sự thể hiện của bản chất. Tuy nhiên bản chất
vẫn là cái tương đối ổn định, ít biến đổi còn hiện tượng động hơn, thường xuyên
biến đổi. Bản chất gắn liền với cái chung, phản ánh cái chung tất yếu, cái chung
quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng, còn hiện tượng phản ánh
cái cá biệt, đặc thù.
Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù
bản chất và hiện tượng. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, không
nên dừng lại ở cái biểu hiện bên ngoài (hiện tượng) mà cần phải đi sâu vào bên
trong để tìm hiểu và làm sáng tỏ bản chất thực sự, thường ẩn giấu đằng sau hiện
tượng, dựa vào những quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng. Khi bản chất có sự biến đổi trong quá trình phát triển, chuyển

hóa sự vật, hiện tường từ dạng này sang dạng khác, thì phương pháp áp dụng vào
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cũng phải thay đổi bằng những
phương pháp mới phù hợp với bản chất đã thay đổi của sự vật, hiện tượng.
1.2.6. Khả năng và hiện thực
7
Khả năng là cái hiện chưa có, chưa xẩy ra, nhưng nhất định sẽ có, sẽ xẩy ra
khi có các điều kiện thích hợp. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự bao
gồm tất cả những sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại khách quan trong thực tế
và những hiện tượng chủ quan đang tồn tại trong ý thức.
Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của phạm trù
khả năng và hiện thực. Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ chặt chẽ
với nhau, không tách rời nhau và luôn chuyển hoá lẫn nhau, hiện thực được chuẩn
bị bằng khả năng còn khả năng hướng tới sự chuyển hoá thành hiện thực. Vì khả
năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai nên
khi đề ra các kế hoạch phải tính đến các khả năng để kế hoạch đó sát với thực tiễn.
Nhiệm vụ của hoạt động nhận thức là phải xác định được khả năng phát triển
của sự vật, hiện tượng. Nếu phát triển chính là quá trình mà trong đó khả năng
chuyển hoá thành hiện thực, còn hiện thực này trong quá trình phát triển của mình
lại sinh ra các khả năng mới, các khả năng mới ấy trong những điều kiện thích
hợp lại chuyển hoá thành hiện thực, tạo ra một quá trình vô tận. Trong quá trình
thực hiện khả năng đã lựa chọn, cần chú ý mỗi sự vật, hiện tượng có thể chứa
đựng nhiều khả năng khác nhau, do vậy cần tính đến mọi khả năng để dự kiến các
phương án thích hợp cho từng trường hợp có thể xảy ra. Trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn phải lựa chọn trong các khả năng hiện có, lưu ý đến
các khả năng gần, khả năng tất nhiên vì đó là những khả năng dễ chuyển hóa
thành hiện thực. Khi cần phải tạo ra các điều kiện đầy đủ và cần thiết để chuyển
hóa khả năng thành hiện thực. Cần tránh sai lầm hay tuyệt đối hóa vai trò của
nhân tố chủ quan cũng như tránh xem thường vai trò ấy trong quá trình biến đổi
khả năng thành hiện thực.
2. Nguyên lý về sự phát triển

2.1. Khái niệm về sự phát triển
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, phát triển là một phạm trù dùng
để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp,
từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là sự vận động đi lên, thông qua
bước nhảy, sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời.
Đặc điểm của sự phát triển là tính kế thừa, tính tiến lên theo đường “xoáy ốc”.
Nguồn gốc của sự phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật,
hiện tượng.
Phát triển là nguyên tắc chung chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn. Thông qua nguyên lý này, chúng ta nhận thức được rằng, muốn nắm được
bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải đặt chúng trong sự vận động, phải phát
hiện được các xu hướng biến đổi, phát triển của chúng.
8
2.2. Các quy luật chung nhất của phép biện chứng duy vật phản ánh sự
phát triển
Các quy luật chung nhất của phép biện chứng duy vật phản ánh hình thức
chung của sự phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của con người về thế
giới đó, đồng thời các quy luật này còn là cơ sở cho phương pháp chung nhất của
tư duy biện chứng. Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân bên trong của sự phát triển, quy
luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất
và ngược lại chỉ ra cách thức của sự phát triển thì quy luật phủ định của phủ định
chỉ ra xu hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển đó.
2.2.1. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Khi nghiên cứu những mối liên hệ lẫn nhau giữa các mặt tạo nên sự vật, hiện
tượng, chúng ta nhận thấy nhiều mặt bên trong có khuynh hướng biến đổi và phát
triển khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trực tiếp. Các mặt như vậy được gọi là
các mặt đối lập. Sự tồn tại của mặt đối lập này phải lấy sự tồn tại của mặt đối lập
kia làm tiền đề gọi là sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Những mối liên hệ, tác
động qua lại với nhau giữa các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn giữa chúng.

Những mối liên hệ, tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau
gọi là đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Tóm lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập phản ánh quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn và khẳng định đấu tranh là phương thức giải
quyết mâu thuẫn. Theo đó, mọi sự vật, hiện tượng đều có những mặt đối lập nhau
tạo thành những mâu thuẫn bên trong, việc giải quyết mâu thuẫn đó là nguyên
nhân, là động lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của sự
vật, hiện tượng cũ và sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới.
Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của quy luật.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập giúp chúng ta nhận thức
đúng bản chất của sự vật, hiện tượng và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho
hoạt động thực tiễn bằng con đường đi sâu nghiên cứu, phát hiện và giải quyết
mâu thuẫn của nó. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập đòi hỏi
khi phân tích mâu thuẫn phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu
thuẫn, xem xét vị trí, vai trò và mối quan hệ lẫn nhau của các mặt đối lập, quá
trình phát sinh, phát triển của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại, điều
kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới hiểu đúng sự vật, hiểu
đúng xu hướng vận động để giải quyết mâu thuẫn. Quy luật này giúp chúng ta
nhận thức rằng, để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển thì phải tìm cách giải
quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn và mâu thuẫn chỉ được giải
quyết khi có điều kiện chín muồi, không nên nóng vội hay bảo thủ, trì trệ khi giải
quyết mâu thuẫn.
9
2.2.2. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những
sự thay đổi về chất và ngược lại
Thuộc tính là những cái làm cho sự vật, hiện tượng này phân biệt với sự vật
hiện tượng khác. Những thuộc tính nào chỉ rõ sự vật, hiện tượng và bản chất của
nó là cái gì được gọi là chất của sự vật, hiện tượng, còn những thuộc tính nào chỉ
rõ thể tích, chiều dài, chiều rộng, tốc độ phát triển, trình độ thể hiện của những
thuộc tính nào đó v.v của sự vật, hiện tượng được gọi là lượng. Phạm vi, trong đó

những thay đổi về lượng chưa gây ra những thay đổi về chất của sự vật, hiện
tượng được gọi là độ. Những thay đổi về chất không phải ở bất cứ lúc nào, mà chỉ
chỉ diễn ra khi nào sự thay đổi về lượng vượt quá giới hạn của độ, vượt qua một
độ nhất định hay nói cách khác, sự chuyển hoá của một trạng thái về chất này sang
một trạng thái về chất khác là sự chuyển hoá từ một độ này sang một độ khác.
Thời gian khi sự chuyển hoá đó được thực hiện gọi là điểm nút. Như vậy, sự xuất
hiện của bất cứ một chất mới nào cũng đều liên quan tới sự thay đổi của lượng,
đều do kết quả của sự thay đổi về lượng gây nên. Những thay đổi về lượng và chất
diễn ra khách quan và quyết định sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy vậy, sự
thay đổi về lượng thường diễn ra từ từ, sự thay đổi về chất thường diễn ra đột
ngột, dứt đoạn. Do đó những thay đổi về lượng có tính tiệm tiến, tiến hoá, còn
những thay đổi về chất có tính cách mạng, gọi là bước nhảy.
Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của quy luật.
Quy luật này giúp chúng ta nhận thức được rằng, sự vận động và phát triển của sự
vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về lượng đến một giới
hạn nhất định (đến độ), qua đó sẽ thực hiện bước nhảy để chuyển hoá về chất. Vì
thế trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải biết từng bước tích lũy
về lượng để làm biến đổi về chất. Trong hoạt động thực tiễn, phải tích lũy đầy đủ
về lượng, phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy, phải kịp thời chuyển những thay
đổi về lượng thành những thay đổi về chất. Cần phải hiểu rõ bản chất, quy luật các
yếu tố tạo thành sự vật và tác động vào các yếu tố đó.
2.2.3. Quy luật phủ định của phủ định
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, phủ định biện chứng là quá
trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra
đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng cũ (sự vật,
hiện tượng bị phủ định). Quy luật này chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật,
hiện tượng theo hình “xoáy ốc”, sau khi đã trải qua một số lần phủ định biện
chứng có chu kỳ. Trong quá trình của những phủ định biện chứng đó, có những
lúc các sự vật, hiện tượng mới xuất hiện dường như lặp lại những giai đoạn đã đi
qua trên cơ sở mới, cao hơn và như vậy, phát triển không thể đi theo con đường

10
thẳng, mà theo con đường “xoáy ốc”, mỗi vòng tròn kế tiếp dường như lặp lại
vòng tròn trước đó, nhưng trên cơ sở cao hơn. Quy luật phủ định của phủ định chỉ
ra sự thống nhất giữa tính tiến lên, tiến bộ và kế thừa của sự phát triển. Trong sự
xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới có lặp lại tương đối một số đặc tính của sự
vật, hiện tượng cũ và kết quả là trong sự vật, hiện tượng mới, tồn tại một số đặc
tính của sự vật, hiện tượng cũ đã được cải tạo cho phù hợp.
Từ đây, có thể rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cơ bản của quy luật.
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về khuynh
hướng của sự phát triển. Quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra
một cách thẳng tắp, ngược lại, diễn ra quanh co, phức tạp. Trong tự nhiên, sự xuất
hiện của sự vật, hiện tượng mới diễn ra tự phát. Trong xã hội, sự vật, hiện tượng
mới xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt động có ý thức của con người.
Tuy sự vật, hiện tượng mới chiến thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong một
thời gian nào đó, sự vật, hiện tượng cũ còn mạnh hơn sự vật, hiện tượng mới. Vì
vậy, quan điểm của chúng ta là ủng hộ sự vật, hiện tượng mới, tạo điều kiện cho
sự vật, hiện tượng mới phát triển hợp quy luật, biết kế thừa có chọn lọc những yếu
tố tích cực và hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ, làm cho chúng phù hợp với xu thế
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.
3. Ý nghĩa của phép biện chứng trong hoạt động thực tiễn của con người
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt các phạm trù, những
nguyên lý, những quy luật được phản ánh từ hiện thực, phù hợp với hiện thực.
Cho nên nó có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển
của tự nhiên, xã hội và tư duy. Tùy theo nhu cầu thực tiễn và trình độ nhận thức
của con người mà phạm vi các vấn đề được bao quát trong phép biện chứng duy
vật ngày càng được phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu. Nhưng trong bất kỳ cấp độ
phát triển nào của nó, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển vẫn được xem là những nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho biết sự liên hệ đó là tất yếu khách quan
của thế giới hiện thực. Từ đó rút ra quan điểm toàn diện như là nguyên tắc phương

pháp luận chung nhất chỉ đạo mọi suy nghĩ và hành động của con người. Quan
điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải quán triệt các yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải xem xét toàn diện các mối liên hệ, không bỏ qua mối liên hệ
nào.
Thứ hai, trong toàn bộ các mối liên hệ của sự vật, phải xác định được các mối
liên bản chất, mối liên hệ chủ yếu để đề ra nhiệm vụ, phương pháp hành động cho
phù hợp.
Thứ ba, cần đặt các mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu trong sự tác
động qua lại với toàn bộ các mối liên hệ khác của sự vật để bảo đảm tính đồng bộ
11
khi giải quyết bất cứ công việc gì. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chống lại mọi sự
suy nghĩ và hành động mang tính phiến diện, chung chung, siêu hình.
Nguyên lý về sự phát triển chỉ ra tính tất yếu của sự vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Đây chính là cơ sở lý luận của quan điểm phát triển. Quan
điểm này được coi là nguyên tắc chung chỉ đạo suy nghĩ, hành động của con
người. Yêu cầu của nguyên tắc là phải xem xét sự vật trong sự vận động và phát
triển, phải nhìn thấy chiều hướng biến đổi của của nó; đòi hỏi tư duy của chúng ta
phải năng động, linh hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức được cái mới, ủng hộ cái mới
và phải có niềm tin vững chắc ở tương lai.
Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là mối liên hệ khách quan và phổ biến.
Đồng thời, mỗi sự vật, hiện tượng có đời sống riêng, có đặc điểm hình thành, phát
triển không giống nhau. Từ đó, việc quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể cũng là
yêu cầu rất quan trọng về mặt phương pháp luận. Quan điểm này đòi hỏi chúng ta
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải "phân tích cụ thể trong một
tình hình cụ thể". V.I.Lênin coi nguyên tắc lịch sử - cụ thể là bản chất linh hồn
sống của chủ nghĩa Mác, bởi chân lý bao giờ cũng mang tính cụ thể chứ không có
chân lý trừu tượng, chung chung. Chân lý là cụ thể vì thế nên cách mạng phải
sáng tạo, có sáng tạo mới giành được thắng lợi. Đây là yêu cầu bắt buộc đòi hỏi
chúng ta phải tuân thủ, nếu xa rời nguyên tắc này nhất định sẽ rơi vào vũng lầy
của căn bệnh giáo điều, kinh nghiệm chủ nghĩa, máy móc,v.v

Lý luận về các cặp phạm trù và các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật như là sự cụ thể hóa và làm sáng tỏ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển. Khác với các nguyên lý (những quan điểm bao quát về
những đặc tính chung của thế giới), các cặp phạm trù, các quy luật của phép biện
chứng duy vật là lý luận nghiên cứu tính tất yếu của các mối liên hệ trong khuynh
hướng phát triển của hiện thực.
Các cặp phạm trù cái riêng và cái chung, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và
hiện tượng vừa thể hiện ý nghĩa thế giới quan duy vật vừa là cơ sở phương pháp
luận trực tiếp của các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn
dịch, khái quát hóa, trừu tượng hóa nhằm giúp chúng ta rút ra mối liên hệ bản
chất, từ đó hiểu được toàn bộ các mối liên hệ theo một hệ thống nhất định.
Các cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực là cơ sở
phương pháp luận để hiểu rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát
triển là một quá trình lịch sử tự nhiên. Con người cần xác định nguyên nhân nào
dẫn đến kết quả, tìm các nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân
bên trong và tạo những điều kiện cần thiết để nguyên nhân có thể dẫn đến kết quả.
Con người phải phát hiện, lựa chọn khả năng và góp phần tác động tích cực để
khả năng biến thành hiện thực.
Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để tìm tòi và
sử dụng các hình thức phù hợp với nội dung. Có thể sử dụng nhiều hình thức khác
12
nhau trong cùng một nội dung trên cơ sở xuất phát từ các yếu tố nội tại cấu thành
nội dung chứ không được tùy tiện sử dụng các hình thức không phù hợp với lôgíc
khách quan của nội dung. Cũng qua đây, ta thấy rằng phương pháp nhận thức,
hoạt động thực tiễn là rất đa dạng, con người có thể sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau để đạt được mục đích đã đề ra.
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận
chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, quan
điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể trên cơ sở nhận thức nguồn gốc,
động lực, cách thức và xu hướng phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế

giới.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được coi là "hạt nhân"
của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch rõ nguồn gốc, động lực của sự
phát triển là quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn vốn có của sự vật. Từ đó, về
mặt phương pháp luận, yêu cầu phải nhận thức đúng đắn mâu thuẫn của sự vật,
quá trình triển khai và đấu tranh giải quyết mâu thuẫn; phải xác định đâu là mâu
thuẫn cơ bản, đâu là mâu thuẫn chủ yếu, phân biệt rõ mâu thuẫn nào là mâu thuẫn
đối kháng, mâu thuẫn nào là mâu thuẫn không đối kháng; cần quán triệt nguyên
tắc: đã là mâu thuẫn thì chỉ có thể giải quyết bằng sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập, tuy nhiên hình thức đấu tranh rất đa dạng, linh hoạt, tùy thuộc vào tính chất và
hoàn cảnh cụ thể của từng loại mâu thuẫn. Quy luật mâu thuẫn là cơ sở phương
pháp luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội, là
cơ sở của nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn có lợi cho cách mạng, hòa bình và tiến
bộ xã hội.
Quy luật chuyển hóa từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi về
chất và ngược lại phản ánh cách thức của quá trình phát triển là đi từ những biến
đổi tuần tự (dần dần) về lượng đến giới hạn của độ thì gây ra sự biến đổi cơ bản về
chất thông qua bước nhảy vọt và ngược lại. Đó là cơ sở phương pháp luận chung
cho mọi cơ chế phát triển trong đời sống tự nhiên, xã hội và tư duy. Quy luật này
đòi hỏi chúng ta phải quán triệt các yêu cầu sau:
Thứ nhất, kiên trì, tích cực, tích lũy về lượng để tạo điều kiện cho sự thay đổi
về chất, chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, thái độ nôn nóng, "tả khuynh".
Thứ hai, khi lượng đã được tích lũy đến giới hạn độ thì phải mạnh dạn thực
hiện các bước nhảy vọt cách mạng, chống thái độ do dự, bảo thủ, trì trệ, "hữu
khuynh".
Thứ ba, tích cực vận dụng linh hoạt các hình thức nhảy vọt thích hợp để đẩy
nhanh quá trình phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển theo hình
thức "xoáy ốc", tính chất chu kỳ trong sự vận động và phát triển của thế giới hiện
thực. Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo

phương pháp tư duy và hành động của con người. Phủ định biện chứng đòi hỏi
13
phải tôn trọng tính kế thừa, song kế thừa phải có chọn lọc, kế thừa theo tinh thần
phê phán, cải tạo cho phù hợp với điều kiện mới. Do đó, cần chống cả hai khuynh
hướng: hoặc là kế thừa ""nguyên xi"", máy móc, rập khuôn hoặc là phủ định sạch
trơn đối với quá khứ theo kiểu hư vô chủ nghĩa. Vấn đề phủ định và kế thừa có ý
nghĩa phương pháp luận vô cùng thiết thực đối với việc xây dựng một nền văn hóa
tiên tiến đậm đã bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay.
Tóm lại, mỗi nguyên lý, mỗi phạm trù, mỗi quy luật của phép biện chứng duy
vật đều chứa đựng ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, vì thế phải biết vận dụng
tổng hợp chúng trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn cách mạng cũng
như trong công tác của bản thân mỗi người chúng ta.
IV. Liên hệ công tác của bản thân
1. Ý nghĩa của việc vận dụng phép biện chứng duy vật trong thực tiễn công
việc quản lý kỹ thuật của bản thân tại doanh nghiệp đang công tác:
Trong công tác của bản thân, chúng ta cần phải trang bị cho mình những tri
thức về phương pháp biện chứng duy vật, điều này sẽ khắc phục những sai lầm
đáng tiếc và giúp chúng ta giành được thằng lợi trong hoạt động thực tiễn cũng
như góp phần xây dựng công ty:
- Phải biết chống lại căn bệnh chủ quan, duy ý chí. Đây là khuynh hướng cường
điệu, tuyệt đối hóa vai trò của ý chí, tác rời, thậm chí đối lập ý chí với ý thức,
coi ý chí có tính độc lập tuyệt đối, tách rời hiện thực khách quan, dễ lấy nhiệt
tình cách mạng thay cho sự yếu kém tri thức khoa học. Vì vậy, trước hết bản
thân phải luôn đấu tranh với chính mình trong việc tự học, tự rèn luyện, phải
tôn trọng quy luật khách quan, phải đánh giá sự vật, hiện tượng trên quan
điểm lịch sử, toàn diện. Để góp phần xây dựng cơ quan đơn vị hoàn thành tốt
công tác của đơn vị mình, không thể tách rời sự cố gắng nỗ lực hoàn thành tốt
công tác của từng cá nhân. Bản thân phải không ngừng học hỏi lý luận chủ
nghĩa Mác-Lê Nin, đồng thời không ngừng học hỏi nâng cao hiểu biết làm cơ
sở cho việc đánh giá, giải quyết các vấn đề thực tiễn một cách khách quan và

khoa học. Bênh cạnh đó, phải ra sức đấu tranh, kịp thời ngăn chặn, phê phán
các biệu hiện của tư tưởng duy tâm chủ quan, siêu hình. Đây là vấn đề bức
thiết trong việc tạo dựng lên tố chất của người quản lý hiện nay.
- Phải quán triệt nguyên tắc khách quan trong xem xét, phân tích sự vật, hiện
tượng. Nguyên tắc khách quan là đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành
động phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ bản thân sự vật, phản ánh sự vật
một cách trung thực như nó vốn có, không được xuất phát từ ý muốn chủ
quan, không lấy ý muốn chủ quan của mình thay cho điều kiện khách quan,
không lấy ý muốn chủ quan của mình áp đặt cho thực tế, phải tôn trọng sự thật
14
trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật. Có như vậy mới tránh được thái độ chủ
quan, nóng vội, phiến diện, định kiến, không trung thực.
- Cần phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con
người. Vai trò của ý thức là nhận thức đúng đắn thế giới khách quan làm cho
con người hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp, ý chí cần
thiết cho hoạt động thực tiễn. Mặt khác chống tư tưởng thụ động, ỷ lại, ngồi
chờ, bảo thủ, trì trệ thiếu sáng tạo. Bên cạnh đó, việc phát huy tính năng động
của nhân tố chủ quan của con người, cần nhận thức và vận dụng đúng đắn lợi
ích, biết kết hợp hài hòa các loại lợi ích khác nhau, như lợi ích kinh tế, lợi ích
chính trị, lợi ích tinh thần … lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.
Phải có động cơ trong sáng, thái độ khách quan, khoa học, không vụ lợi …
trong hành động của mình.
- Trong công việc của doanh nghiệp, luôn có những biến động về hoạt động của
con người và của sự vật, do vậy tư duy của người quản lý phải linh động,
mềm dẻo phù hợp với những điều kiện khách quan của doanh nghiệp luôn
biến động, thay đổi. Không nên chỉ đạo thực hiện kế hoạch theo kiểu “tuyệt
đối không sửa đổi” hoặc “tùy tiện sửa đổi” hay “giữ nguyên tắc” hoặc “phát
huy tính sáng tạo”. Hậu quả của những biểu hiện cứng nhắc hay dễ dãi này sẽ
trượt dài sang chủ nghĩa giáo điều hoặc biểu hiện thành chủ nghĩa kinh
nghiệm.

- Trong doanh nghiệp có nhiều bộ máy, nhiều phòng ban khác nhau, do đó trong
quá trình hoạt động, mấu thuẫn bên trong các mặt và giữa các mặt với nhau
đang phát sinh, phát triển và chuyển hóa không ngừng. Những mâu thuẫn này
không ngừng sinh ra và không ngừng được khắc phục. Vị trí quản lý đòi hỏi
chúng ta không ngừng rèn luyện và trang bị kiến thức về chủ nghĩa duy vật
biện chứng, về nghệ thuật quản lý để tránh mất phương hướng, bị động trong
giải quyết công việc.
- Trong việc xác định chỉ tiêu, lập kế hoạch cần phải bám sát hiện thực khách
quan, đưa ra các biện pháp kỹ thuật và tổ chức hiệu quả. Khi gặp những vấn
đề phức tạp, cần tìm ra đầu mối, vạch ra được mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu
để chuyển hóa những nhân tố tiêu cực thành nhân tố tích cực để thúc đẩy công
việc riêng của bản thân cũng như công việc chung của doanh nghiệp.
2. Vận dụng phép biện chứng duy vật để nâng cao hiệu quả làm việc trong
công tác quản lý kỹ thuật của bản thân tại doanh nghiệp đang công tác:
2.1. Phải nắm bắt chính xác các quy luật khách quan.
Chúng ta biết rằng, chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật máy móc, chủ
nghĩa cơ hội và chủ nghĩa phiêu lưu, đều có đặc trưng tách rời tính chủ quan với
khách quan, tách rời lý luận với thực tiễn. Các nhà triết học duy vật biện chứng đã
dạy chúng ta cần phải xuất phát từ sự vật tồn tại khách quan, rút ra những quy luật
15
trong đó để hướng dẫn cho hành động chúng ta. Để đạt được mục đích đó, chúng
ta phải thu thập được những tài liệu một cách tỉ mỉ để phân tích, xử lý một cách
khoa học. Xa rời thực tế, ngại xâm nhập, tìm hiểu và coi thường thực tế sinh động
mà chỉ đề cao lý luận, chỉ nghiên cứu lý luận suông, thoát ly thực tế, ngược lại chỉ
lao vào công tác thực tế mà không chú ý đến việc nghiên cứu tình hình khách
quan, khái quát thông tin lý luận, chỉ đơn thuần dựa vào nhiệt tình, lấy ý muốn
chủ quan của mình định ra chủ trương, đưa ra những quyết định công việc đều
không đúng về cả lý luận và phương pháp công tác. Trong doanh nghiệp, việc chủ
quan xuất phát từ quan điểm hẹp hòi, vận dụng máy móc kinh nghiệm của người
khác, không chịu nghiên cứu tình hình của doanh nghiệp, không tính đến điều

kiện hiện thực sẽ dẫn đến việc đề ra chủ trương, kế hoạch tùy tiện, chủ quan và
doanh nghiệp sẽ không tránh khỏi sự trì trệ, bất ổn và nảy sinh vấn đề phước tạp.
Người làm vị trì quản lý phải ý thức được rằng muốn công việc thuận lợi phải
đảm bảo điều kiện vật chất và cung cấp kịp thời tư liệu sản xuất. Trong công việc
phải biết căn cứ vào điều kiện nào để tranh thủ được, để ra quyết định và kế hoạch
thực hiện. Việc nhận thức chính xác quy luật khách quan giúp cho người quản lý
thúc đẩy công việc đạt tới kết quả đã định và tạo cho người quản lý sự chủ động,
sáng tạo, linh hoạt trong điều hành công việc.
2.2. Phát huy tính sáng tạo của nhân viên trong công việc.
Là người quản lý, chúng ta phải có cái nhìn bao quát mọi hoạt động, yếu tố
khách quan cũng như chủ quan của doanh nghiệp. Phải có đánh giá hết sức chính
xác tình trạng hiện tại và xu hướng tương lai của doanh nghiệp, cả thế mạnh và
hạn chế, cả cái tích cực và tiêu cực của từng bộ phận, từng con người trong tổ
chức. Chỉ có thể làm tốt được những điều đó một khi có cách nhìn, đánh giá
doanh nghiệp trong quá trình vận động, biến đổi chứ không tĩnh tại; tôn trọng quy
luật khách quan’ tạo ra bầu không khí thực sự dân chủ giữa lãnh đạo và nhân viên;
phê phán mọi tư tưởng chủ quan, bi quan, tiêu cực, khuyến khích, ủng hộ cái tốt,
mạnh dạn, sáng tạo trong lao động, tạo điều kiện phát triển cái mới mặc dù nó
chưa hình thành.
Người quản lý phải thực sự tôn trọng những thành quả do người lao động làm
ra, là lực lượng sản xuất hết sức tối cao. Chỉ thấy mặt hạn chế, khó khăn của tình
hình, chỉ thấy mục tiêu kinh tế, không thấy mục tiêu tinh thần của doanh nghiệp là
rơi vào tư tưởng bi quan. Phép biện chứng duy vật đòi hỏi người quản lý phải nhìn
nhận được tính năng động, sáng tạo của người lao động.
Muốn phát huy đầy đủ tinh thần tích cực và sáng tạo của người lao động trong
tổ chức, nhiệm vụ quan trọng nhất là phải bài trừ tư tưởng cổ hủ, bi quan, mê tín,
xây dựng phong cách làm việc dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, cổ vũ tinh thần làm việc nhiệt tình, hăng hái. Để làm được như vậy cần
quan tâm đến mấy vấn đề sau:
16

- Thứ nhất, triệt để khắc phục tư tưởng “nói theo kiểu cũ, bám lấy truyền
thống, kinh nghiệm” tuy vậy cũng không được phủ nhận toàn bộ truyền
thống và kinh nghiệm có tác dụng tích cực.
- Thứ hai, khắc phục triệt để tư tưởng coi thường “tính sáng tạo” của người
lao động và “chủ nghĩa giáo điều”. Coi thường tính sáng tạo của người lao
động là quan điểm phản biện chứng, chỉ nhìn thấy sự vật mà không thấy
người, không thấy được vai trò then chốt của người lao động đối với mỗi
doanh nghiệp.
2.3. Phát hiện kịp thời, phân tích và giải quyết mâu thuẫn đúng lúc, đúng
chỗ, đúng điều kiện.
Triết học Mác-Lê Nin cho rằng, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập là quy luật cơ bản, là nguồn gốc động lực phát triển của vũ trụ. Trong
doanh nghiệp, việc phát hiện ra mâu thuẫn là vấn đề không hề đơn giản. Làm thế
nào để nhận thức được mâu thuẫn một cách chính xác? Theo Lênin, muốn thật sự
hiểu biết được một đối tượng, phải nắm vững và nghiên cứu được mọi mặt của đối
tượng, mọi mối quan hệ và “môi giới” của nó. Chúng ta có thể hoàn toàn tránh
được điều đó, nhưng cần phải xem xét toàn diện mới tránh khỏi sai lầm, tránh
khỏi cứng nhắc, giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn, kịp thời, đảm bảo tiến
độ và chất lượng trong giải quyết các công việc của tổ chức.
2.4. Khắc phục biểu hiện của phương pháp xem xét siêu hình trong công
việc
Trong công tác quản lý trong một tổ chức, không được xem xét công việc một
cách cô lập, tĩnh tại, không tìm nguyên nhân bên trong mà tin vào các nguyên
nhân bên ngoài, không chủ động giải quyết khó khăn mà chỉ yêu cầu chi viện hay
hỏi kinh nghiệm của người khác, không thúc đẩy nguồn lực bên trong mà chỉ đề
xuất phương án mua mới, bổ sung nhân sự. Tình trạng ấy nảy sinh do việc nhìn
vấn đề một cách chủ quan, phiến diện, bề ngoài mà không tìm hiểu sâu vào bản
chất của sự vật, hiện tượng.
VI. Kết luận
Phép biện chứng duy vật nói riêng, triết học macxit nói chung có vị trí hết sức

quan trọng trong cuộc sống hằng ngày. Những tri thức của các khoa học triết học
đem lại, đang là công cụ tư duy sắc bén để con người nhận thức và cải tạo thế giới
hiện thực vì nhu cầu của chính con người; nó đang được các lĩnh vực hoạt động
của con người vận dụng, ứng dụng có hiệu quả.
17
Doanh nghiệp tồn tại và phát triển tùy thuộc vào phương thức quản lý của các
cấp lãnh đạo và quản lý, nhưng phương thức quản lý lại bị các tư tưởng quản lý
chi phối, cho nên con người trong doanh nghiệp từ giám đốc tới nhân viên, suy
cho cùng đều chịu sự chi phối của các tư tưởng quản lý ấy.
Trong vị trí quản lý của một doanh nghiệp, cần tránh những căn bệnh như duy
tâm chủ quan, duy ý chí sẽ làm cho chúng ta thất bại trong công tác điều hành,
quản lý nhân viên cũng như gây lệch khỏi mục tiêu tổ chức đã đặt ra. Cho nên
muốn thực hiện tốt công tác của mình, chúng ta cần trau dồi kiến thức, hiểu biết
của mình. Áp dụng triết học Mác-Lênin vào thực tế tồn tại của doanh nghiệp mình
cụ thể là phép duy vật biện chứng trong công việc của bản thân nói riêng và trong
quản lý doanh nghiệp nói chung.
18

×