Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Đề cương ôn tập môn bảo hiểm lý thuyết và bài tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.06 KB, 33 trang )

Câu 1. Tại sao nói BH là một trong những biện pháp đối phó với rủi ro có hiệu
quả. Trình bày những quy tắc cơ bản trong bồi thường BH? Nếu có 1 hợp đồng
trách nhiệm tài sản ô tô (BH thân vỏ và động cơ) chỉ ra những nguyên tắc cơ bản
trong bồi thường BH?
Trả lời:
*) Bảo hiểm là một trong những biện pháp đối phó với rủi ro có hiệu quả, vì:
Đối với rủi ro có 2 nhóm biện pháp để đối phó là: kiểm soát rủi ro (tránh né rủi ro,
ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro), tài trợ rủi ro (chấp nhận rủi ro, bảo hiểm).
Tránh né rủi ro là hạn chế thưc hiện hành động chứa đựng rủi ro; ví dụ: tránh tai
nạn giao thông – hạn chế đi lại. Ngăn ngừa rủi ro là nâng cao hiểu biết, thực hiện
hành động nhằm giảm mức độ thiết hại khi gặp rủi ro; ví dụ: thực hiện công tác
phòng cháy chữa cháy. Giảm thiểu rủi ro là thực hiện hành động khi rủi ro xảy ra
để giảm thiểu tổn thất; ví dụ: dập lửa khi xảy ra hỏa hoạn. Chấp nhận rủi ro: tụ
chấp nhận rủi ro, tự bảo hiểm; ví dụ: tự lập quỹ dự trữ, vay mượn để khắc phục hậu
quả. Đối với các biện pháp trên hiệu quả mang lại không cao, ta không thể sợ rủi ro
mà không thực hiện các hành đồng chứa đựng rủi ro, không thể ngăn chặn nó khi
nó xảy ra bất ngờ và nghiêm trọng, Và khi thực hiện các biện pháp trên rủi ro vẫn
gây thiệt hại, liên quan đến 1 các nhân, tổ chức riêng biệt mà không làm tăng độ
phân tán để giảm thiểu rủi ro. Bảo hiểm là một biện pháp có thể khắc phục những
vấn để trên, biện pháp chyển giao rủi ro có hiệu quả. Khái niệm về BH có nêu BH
là dịch vụ tài chính nhằm tái phân phối những chi phí mất mát không mong đợi
(góc độ tài chính) hay BH là một cơ chế trong đó công ty BH nhận chuyển nhượng
rủi ro, thực hiện bồi thường và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người
tham gia bảo hiểm (góc độ kinh doanh). Như vậy ngay trong khái niệm về BH có
nêu rõ bảo hiểm mang lại sự đền bù thiệt hại cho những rủi ro xảy ra, nhằm giảm
thiểu những hậu quả thiệt hại do tủi ro đó gây ra; đồng thời phân chia giá trị thiệt
hại giữa tất cả những người tham gia bảo hiểm.
Thúy Hằng
*) Những quy tắc cơ bản trong bồi thường bảo hiểm
Thứ nhất: biến cố ngẫu nhiên.
Việc xảy ra rủi ro và hậu quả không phụ thuộc vào sự mong muốn của người tham


gia bảo hiểm, người được bảo hiểm cũng như người được hưởng quyền lợi bảo
hiểm. Tính ngẫu nhiên liên quan tới sự không chắc chắn về khả năng xảy ra và thời
điểm xảy ra. Riêng bảo hiểm nhân thọ lại có thể bảo hiểm đượeddc cho biến cố
chắc chắn xảy ra trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm nhưng vẫn bấp bênh về mặt
thời điểm xảy ra (chẳng hạn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trọn đời bảo hiểm cho sự
cố chết của người được bảo hiểm) hoặc sự cố tự tử đã không còn là ngẫu nhiên đối
với người được bảo hiểm vẫn có thể được bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm đã có
hiệu lực được một khoảng thời gian nhất định (thường là từ hai năm trở lên). Điều
này xuất phát từ đặc tính của bảo hiểm nhân thọ: không chỉ chuyển giao rủi ro đơn
thuần mà còn nhằm đáp ứng các nhu cầu khác như là tích luỹ tài chính, đầu tư
của khách hàng bảo hiểm nhân thọ.
Căn cứ vào tiêu thức ngẫu nhiên, những rủi ro khách quan từ tự nhiên, từ hoạt
động của xã hội loài người nói chung, những rủi ro có nguyên nhân từ hoạt động
của cá nhân, tổ chức khác gây nên cho người được bảo hiểm nhìn chung là có thể
được bảo hiểm. Đối với rủi ro do chính hoạt động, hành động của bên được bảo
hiểm gây nên cần phân biệt dạng cố ý là không cố ý - trường hợp cố ý đã không
còn là ngẫu nhiên đối với bên được bảo hiểm nên không bao giờ được bảo hiểm;
trường hợp không cố ý, dù là bên được bảo hiểm không mong muốn nhưng nếu
kèm theo yếu tố mắc lỗi nặng và đủ khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm
trong hành động gây nên cũng không thể bảo hiểm được.
Cũng cần phải nói thêm, vẫn là biến cố ngẫu nhiên nhưng nếu xuất hiện hiếm hoi
thất thường sẽ rất khó bảo hiểm vì xác suất rủi ro không đủ độ tin cậy cho việc
định phí bảo hiểm. Những biến cố có hậu quả hàng loạt trên phạm vi rộng (chiến
Thúy Hằng
tranh, khủng hoảng chính trị ) việc bảo hiểm cũng rất hạn chế. Những rủi ro dễ bị
chi phối bởi nguy cơ tinh thần từ phía bên được bảo hiểm rất hiếm được bảo hiểm
bằng các sản phẩm bảo hiểm truyền thống. Giả định nếu chấp nhận bảo hiểm cho
rủi ro thua lỗ trong kinh doanh - một loại rủi ro phụ thuộc rất lớn vào cố gắng chủ
quan của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ khó kiểm soát được các
trạng thái ỷ lại, trông chờ vào sự bảo đảm của bảo hiểm từ phía bên được bảo

hiểm. Tuy nhiên, một số loại rủi ro như là biến động giá cả, biến động tỷ giá hối
đoái, mất lợi nhuận gần đây cũng đã được các nhà bảo hiểm hướng tới trong các
sản phẩm ART (Alternative Risk Transfer - phương pháp chuyển giao rủi ro lựa
chọn) mới xuất hiện trên thị trường bảo hiểm của các nước phát triển.
• Thứ hai: lượng hoá được về mặt tài chính.
Cam kết của bảo hiểm cốt yếu là về mặt tài chính - một khoản bồi thường hoặc một
khoản tiền trả bảo hiểm khi xảy ra rủi ro. Vì vậy, các nhà bảo hiểm cũng chỉ bảo
hiểm được cho những trường hợp, những loại hậu quả lượng hoá được về mặt tài
chính. Việc lượng hoá về mặt tài chính có thể thực hiện được một cách trực tiếp
hoặc rất tương đối thông qua những quy định chủ quan của con người. Chẳng hạn:
đối với rủi ro phát sinh trách nhiệm về ô nhiễm hoặc thiệt hại về tinh thần của con
người trong tai nạn giao thông thì quy định về việc xác định thiệt hại không hẳn là
giống nhau các quốc gia. Sự tương đối này khiến cho các loại rủi ro có thể được
bảo hiểm cũng có thể thay đổi theo quy định của con người. Những cái ngày hôm
nay không bảo hiểm được, rất có thể sẽ được bảo hiểm trong tương lai.
• Thứ ba: việc bảo hiểm không trái pháp luật và lợi ích công cộng.
Quan hệ bảo hiểm được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật. Luật pháp về bảo hiểm
của các quốc gia thường đưa ra các quy định không cho phép bảo hiểm đối với một
số trường hợp. Sự cấm đoán ở các nước không hẳn là giống nhau, nhưng nhìn
chung đều dựa trên nguyên tắc cơ bản là hợp đồng bảo hiểm không được đi ngược
Thúy Hằng
lại luật pháp của nhà nước, lợi ích chung của xã hội; không thể trái với những
chuẩn mực về đạo đức và lẽ phải đã được xã hội công nhận. Không một quốc gia
nào lại cho phép một người tránh được trách nhiệm hình sự bằng cách mua bảo
hiểm hoặc cho phép bảo hiểm sự cố tử vong của người đang mắc bệnh tâm
thần.Tuy nhiên, trong khi bảo hiểm cho số tiền chuộc trong trường hợp bị bắt cóc
bị cấm ở nước Pháp thì người Pháp lại có thể mua loại bảo hiểm này ở Anh Quốc.
Như vậy, quan niệm về rủi ro có thể được bảo hiểm hoặc không thể được bảo hiểm
không cố định. Nhưng dù sao các tiêu chí nói trên vẫn là những cơ sở kỹ thuật,
pháp lý nền móng cho việc soạn thảo điều khoản phạm vi bảo hiểm và điều khoản

loại trừ trong hợp đồng bảo hiểm. Hai loại điều khoản này xác định những trường
hợp mà bên bảo hiểm phải chịu trách nhiệm (phạm vi bảo hiểm) hoặc không chịu
trách nhiệm (loại trừ) trước những hậu quả bất lợi xảy ra cho đối tượng bảo hiểm.
Các trường hợp đó được mô tả dưới dạng các loại rủi ro, sự kiện, sự cố, chẳng
hạn: phương tiện vận chuyển đâm va, mất tích, cướp biển, trộm cắp, lây bẩn, lây
hại trong bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. Hơn nữa, phạm vi bảo
hiểm và loại trừ bảo hiểm còn xác định cụ thể về loại nguyên nhân của sự kiện,
loại hậu quả của sự kiện (loại tổn thất, thiệt hại, chi phí phát sinh) và sự giới hạn
về không gian, địa bàn lãnh thổ cần thiết trong một số loại nghiệp vụ bảo hiểm
như là bảo hiểm hàng không, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm Loại trừ có thể là
loại trừ tuyệt đối (không bao giờ được chấp nhận bảo hiểm) hoặc loại trừ tương
đối (có thể được bảo hiểm với điều kiện đặc biệt), đó là một sự linh hoạt cần thiết
của sản phẩm bảo hiểm nhằm đáp ứng các nhu cầu bảo hiểm đa dạng của xã hội.
Rõ ràng không phải tất cả các rủi ro có thể được bảo hiểm đều phải được xếp vào
phạm vi bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm rộng hay hẹp; loại trừ ít hay nhiều còn phụ
thuộc vào nhiều vấn đề khác mà người bảo hiểm cần phải xem xét khi thiết kế sản
phẩm bảo hiểm, như là: sự đánh giá nhu cầu bảo hiểm và khả năng trả phí của số
khách hàng tiềm năng; yêu cầu quản lý rủi ro; yếu tố cạnh tranh của sản phẩm
Thúy Hằng
bảo hiểm Hơn nữa, hai loại điều khoản này còn phải được thiết kế trong sự tương
quan hợp lý với các điều khoản khác của hợp đồng bảo hiểm.
*) Những nguyên tắc cơ bản trong bồi thường trong hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm tài sản ô tô (thân vỏ và động cơ)
- Đối với một hợp đồng BH thiệt hại vật chất xe cơ giới trong hợp đồng có nêu các
TH BH là: những thiệt hại và chi phí phát sinh do thiên tai, tai nạn bất ngờ và do
trộm cắp gây ra; không chịu trách nhiệm về những tổn thất và chi phí phát sinh do
hành vi cố ý của người được bảo hiểm; hư hỏng do hao mòn tự nhiên; mất cắp bộ
phận; chiến tranh; hư hỏng do sửa chữa và tai nạn xảy ra do chủ xe, lái xe vi phạm
nghiêm trọng luật lệ giao thông. Như vậy đây là đặc trưng thể hiện cho nguyên tắc
Biến cố ngẫu nhiên

- Khi ký hợp đồng BH các bên tham gia đã đánh giá giá trị của các bộ phận được
BH (thân vở, động cơ). Giá trị xác định dựa trên giá trị thực tế của xe hoặc bộ phận
được bảo hiểm vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm của xe
cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo
hiểm mua bảo hiểm. Thứ hai phí bảo hiểm thiệt hại vật chất xe cơ giới xác định
trên cơ sở tỷ lệ phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm thỏa thuận. Như vậy tất cả số tiền
BH , phí BH, đều có thể lượng hóa về mặt tài chính – nguyên tắc thứ 2 trong bồ
thường BH
- Tham gia BH thiệt hại vật chất xe cơ giới không hề trái pháp luật, mặt khác còn
đảm bảo giảm thiểu thiệt hại nghiêm trọng khi có sự cố giao thông xảy ra – đảm
bảo lợi ích cộng đồng.
Câu 2: Trình bày những chức năng và tính chất của BHXH. Chỉ ra những điểm
khác nhau cơ bản giữa BHXH và BHTM.
*) Những chức năng cơ bản của BHXH là:
Thúy Hằng
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao dộng hoặc mât việc làm.
Khi hết tuổi lao động người lao động sẽ được hưởng một khoản thu nhập theo các
điều kiện quy định của BHXH. Khi mất việc, mất khả năng lao động tạm thời, mất
thu nhập người lao đọng cũng sẽ được hưởng một khoản thu nhập phù thuộc vào
thời điểm, thời hạn, các điều kiện cần thiết theo đúng quy định. Đây là chức năng
cơ bản nhất của BHXH.
-Phân phối và tái phân phối thu nhập giữa những người tham gia BHXH.
Cả người lao động và người sử dụng lao động đều tham gia đóng góp hình thành
quỹ BHXH. Quỹ này dùng để chi trả thu nhập nhập cho người lao động khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập. Số người này ít hơn nhiều so với số người tham gia
BHXH chính vì vậy theo quy luật số đông bù số ít BHXH thục hiện phân phối lại
thu nhập. Chức năng này gớp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Kích thích lao động sản xuất trong xã hội.
BHXH giúp đảm bảo thu nhập cho người lao động khi họ ốm đau, thai sản, tai

nạn lao động, già yếu vì vậy họ yên tâm sản xuất, gắn bó với công việc và nơi làm
việc nâng cao năng suất chất lượng lao động.
- Gắn bó giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Giữa người lao động và người sử dụng lao động luôn tồn tại mâu thuẫn về mặt lợi
ích. Thông qua BHXH có thể điều hào mối quan hệ này. Qua BHXH người sử
dugnj lao động thể hiện sử qua tâm của mính với người lao động, đảm bảo thu
nhập cho người lao động cảu mình qua 1 thời gian họ đã cống hiến lao động phục
vụ doanh nghiệp.
*) Tính chất của BHXH:
Thúy Hằng
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
Sản xuất càng phát triển những rủi ro với người lao động và khó khăn với người
sử dụng lao động càng nhiều, mâu thuẫn lợi ích giữa 2 đối tượng trên càng căng
thẳng vì vậy BHXH là một biện pháp hữu hiệu, khách quan để giải quyết vấn đề
này.
- Tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian va không gian.
Hoạt động sản xuất diễn ra liên tục, rủi ro phát sinh cũng ngẫu nhiên theo thời
gian và không gian chính vì vậy BHXH cũng phát sinh ngẫu nhiên, không đồng
đều the thời gian và không gian.
-Vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồn g thời cón có tính dịch vụ.
Tính kinh tế: quỹ BHXH hình thành trên cơ sở đóng góp giữa các bên. Người lao
động được hưởng trợ cấp nếu rủi ro xảy ra; người sử dụng lao động không phải
chi 1 khoản lớn khi rủi roa xay ra với người lao động. Nhà nước được giảm gánh
nặng ngân sách, là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Tính xã hội va
tính dịch vụ gắn liền với nhau, BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống đảm bảo xã
hội.
*) So sánh giữa BHXH và BHTM
- Mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận. Mục tiêu hoạt động
bảo hiểm xã hội là nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước, góp phần ổn
định đời sống cho người lao động và các thành viên trong gia đình họ. Vì vậy, hoạt

động bảo hiểm xã hội là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội.
- Phạm vi hoạt động của bảo hiểm xã hội liên quan trực tiếp đến người lao động và
các thành viên trong gia đình họ và chỉ diễn ra trong từng quốc gia. Hoạt động bảo
hiểm thương mại rộng hơn, không chỉ diễn ra trong từng quốc gia mà còn trải rộng
Thúy Hằng
xuyên quốc gia, có mặt ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội bao gồm
cả bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ.
- Có sở nguồn tiền đóng, mức đóng, tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội hoàn toàn dựa vào
thu nhập từ tiền lương, tiền công của người lao động. Bảo hiểm xã hội thực hiện
các quy định theo chính sách xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ để đảm bảo
sự phát triển kinh tế – xã hội, sự ổn định chính trị của quốc gia.
- Bảo hiểm thương mại thực hiện theo cơ chế thị trường và nguyên tắc hạch toán
kinh doanh. Quan hệ giữa mức đóng góp và mức hưởng là quan hệ tương đồng
thuần tuý, tức là ứng với mỗi mức đóng góp bảo hiểm nhất định thì khi xảy ra rủi
ro sẽ nhận được một mức quyền lợi tương ứng quy định trước.
Câu 3: Trình bày các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội? So sánh đối tượng bảo hiểm
và điều kiện bảo hiểm giữa trợ cấp thất nghiệp (thuộc bảo hiểm xã hội) với bảo
hiểm thất nghiệp? Hiện nay, Anh (Chị) đang sử dụng loại hình bảo hiểm nào trong
số hai loại hình nêu trên?
*) Các nguyên tắc cơ bản của BHXH:
- Mọi người lao động đều có quyền tham gia và hưởng trợ cấp BHXH.
Ngày nay BHXH đã trở thành quyền của nười lao động trên thế giới. Tại Việt Nam
quyền tham gia và hưởng BHXH được quy định trong Hiến pháp (Đ56) và Bộ luật
lao động (điều 7). Các hệ thống BH được thiết kế để ngay cả những người ít có khả
năng cũng có cơ hội được tham gia BH ở mức độ nhất định. Quyền tham gia
BHXH không phân biệt vùng miền, giới tính, thành phần kinh tế, có tham gia quan
hệ lao động hay không,
- Mức hưởng trợ cấp BHXH phải tương quan với mức đóng góp
BHXH là một trong những hình thức phân phối lại thu nhập giữa những người
tham gia BH nên cần xác định mức ưởng một cách công bằng hợp lý. Khi họ đóng

Thúy Hằng
tiền BH trên mức thu nhập nào đó có nghĩa khi thu nhập này bị giảm đi hoặc mất
thì BHXH phải đảm bảo cho họ mức thu nhập đã nhận bảo hiểm. Tuy nhiên
BHXH do nhà nước bảo trợ và không vì mục đích nhất định nên BH thương bị
khống chế ở mức trần nhất định. Mức trợ cấp cần được tính toán một cách hợp lý
trong tương quan nhiều yếu tố trong đó mức đóng, thời gian đóng, có chia sẻ là
những yếu tố chủ yếu nhất.
- Nguyên tắc số đông bù số ít
Khi bị giảm hoặc mất thu nhập nguwoif LD sẽ được hưởn mức trọ cấp nhất định.
Khoản này nói chung luôn cao hơn khoản phí Bh mà hộ đóng góp. Để thực hiện
điều này là nhờ nguyên tắc lấy số đông bù số ít, lấy số đông người đóng bảo hiểm
hỗ trọ số ít người bị giảm, mất thu nhập.
- Nhà nước thông nhất quản lý BHXH
BHXH là chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhà nước
có trách nhiệm thực hiện chính sách xã hội, quản lý BHXH để đảm bảo ổn định và
công bằng xã hội.
-Kết hợp hài hòa các lợi ích, các mục tiêu và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
của đất nước
BHXH ngoài mục đích đảm bảo thu nhập cho người lao động còn phải tính đến lợi
ích chung của người sử dụng lao động, kết hợp các mục tiêu đó là mực tiêu của
toàn xã hội. Nó vừa là cơ sỏ thiết kế hệ thống, vừa là điều kiện kinh tế xã hội củ
đất nước.
*) So sánh đối tượng BH và điều kiện BH cảu BHTN và BHXH
- Đối tượng BH:
+ BHXH: Người lao động và người sử dụng lao động
Thúy Hằng
+ BHTN: Người sử dụng lao động và người lao động làm công ăn lương trong DN,
những người lao động làm theo hợp đồng lao động (thường là 1 năm trở lên) và
trong các tổ chức khác (không tính công chức, viên chức)
Như vậy đối tượng tham gia BHXH (hưởng trợ cấp thất nghiệp) rộng hơn BHTN.

BHXH dành cho tất cả mọi đối tượng người lao động còn BHTN thì có loại trừ
một số đối tượng đã nêu trên.
- Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp thuộc BHXH và BHTN:
Điều kiện hưởng BHTN chát chẽ hơn ở BHXH: trọ cấp thất nghiệp của BHTN
được hưởng khi:
+ Phải nộp BH phí trong một thờ gian nhất định (đủ 12 tháng trở lên trong vòng 24
tháng trước khi thất nghiệp)
+ Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động
+ Phải đăng ký thất nghiệp và dăng ký tìm việc ở cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
(trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ khi mất việc làm, nếu đăng ký chậm sau 7
ngày sẽ không được giải quyết quyền lợi về BHTN)
+ Phải sẵn sàng làm việc (chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký
thất nghiệp.)
+ Có sổ BHTN đúng quy định
KL: Ta có thể thấy từ giác độ trợ cấp, có thể nói BHTN là một bộ phận của BHXH.
Chính vì vậy, ở đa số các nước, BHTN nằm trong hệ thống BHXH nói chung. Tuy
nhiên, do tính đặc thù, BHTN không chỉ đơn thuần là trợ cấp thất nghiệp và còn có
những hỗ trợ khác để người lao động nhanh chóng quay trở lại thị trường lao động,
như hỗ trợ dạy nghề; hỗ trợ tìm kiếm việc làm,…Vì vậy, có những nước tách
BHTN ra thành hệ thống riêng.
Thúy Hằng
Câu 6: Nêu khái niệm và đặc trưng cơ bản của bảo hiểm tài sản?Thế nào là bảo
hiểm trùng, cho ví dụ minh họa?
Trả lời : 1. Định nghĩa bảo hiểm tài sản
Bảo hiểm tài sản là một loại hình của bảo hiểm thương mại mà đối tượng là
tài sản. Bảo hiểm tài sản giúp cho người được bảo hiểm giảm, tránh được thiệt hại
về vật chất khi rủi ro được bảo hiểm xảy ra.
2. Đặc trưng của bảo hiểm tài sản
Đặc trưng của bảo hiểm tài sản
- Vấn đề giới hạn trách nhiệm theo giá trị tài sản.

Nhìn chung, tài sản chỉ có thể được bảo hiểm khi xác định được giá trị của tài sản.
Trường hợp giá trị đối tượng bảo hiểm không thể xác định trực tiếp bằng thước đo
giá cả thị trường thông thường, giá trị sẽ được ước tính bằng các phương pháp thoả
thuận thích hợp với từng loại đối tượng bảo hiểm (ví dụ: lợi nhuận trong bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh, giá trị sản lượng thu hoạch trong bảo hiểm cây trồng hàng
năm ) Giá trị của đối tượng bảo hiểm là một yếu tố cơ bản quyết định đến việc
thoả thuận về số tiền bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Về nguyên tắc, doanh
nghiệp bảo hiểm chỉ chấp nhận giao kết hợp đồng bảo hiểm với số tiền bảo hiểm
tối đa là bằng giá trị đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn xuất hiện các
hiện tượng bảo hiểm trên giá trị bên cạnh bảo hiểm đúng giá trị và bảo hiểm dưới
Thúy Hằng
giá trị. Hợp đồng bảo hiểm dưới giá trị tài sản (under – insurance of property) có
số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm. Lý do của bảo hiểm dưới
giá trị có thể từ chủ ý của các bên khi giao kết hợp đồng bảo hiểm hoặc từ các yếu
tố khách quan như là giá cả của đối tượng bảo hiểm biến động trong thời hạn bảo
hiểm
Tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, các bên cần có cách xử lý thích hợp và nói chung
nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm, việc bồi thường của bảo hiểm sẽ áp dụng tỷ lệ: số tiền
bảo hiểm/giá trị bảo hiểm hoặc một số ít trường hợp thực hiện bồi thường theo tổn
thất thứ nhất. Nếu hợp đồng được giao kết với số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị của
tài sản được bảo hiểm mà không phải do ý chí của người bảo hiểm, trước khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể mua bảo hiểm bổ sung cho
phần giá trị chưa được bảo hiểm này. Trong một số nghiệp vụ bảo hiểm, nếu việc
bảo hiểm bổ sung này xuất phát từ lý do tăng đột biến giá cả thì người ta coi đó là
bảo hiểm giá trị gia tăng.
Hợp đồng bảo hiểm trên giá trị (over- insurance of property) có số tiền bảo hiểm
lớn hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm. Mặc dù nguyên tắc bảo hiểm không cho
phép giao kết hợp đồng bảo hiểm trên giá trị nhưng có nhiều lý do chủ quan và
khách quan dẫn đến tình trạng trên. Việc định giá đối tượng bảo hiểm không chính
xác; giá cả đối tượng bảo hiểm biến động và cả ý đồ trục lợi vẫn được xem là

những lý do cơ bản dẫn đến bảo hiểm trên giá trị. Cách xử lý bảo hiểm trên giá trị
sẽ tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, chẳng hạn bảo hiểm trên giá trị có lý do là lỗi
vô ý của bên mua bảo hiểm thì theo doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên
mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá
giá trị thị trường của tài sản được bảo hiểm sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên
quan; nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại tính theo giá thị trường của tài sản.
- Nguyên tắc bồi thường
Thúy Hằng
Để có thể ngăn ngừa trục lợi, bồi thường của hợp đồng bảo hiểm không được tạo ra
cơ hội kiếm lời hoặc có lợi bất hợp lý cho các bên liên quan đến sự kiện bảo
hiểm.Vì thế, số bồi thường mà người được bảo hiểm có thể nhận được trong mọi
trường hợp không lớn hơn thiệt hại của họ trong sự kiện bảo hiểm chính là nội
dung của nguyên tắc cơ bản chi phối việc bồi thường mọi hợp đồng bảo hểm tài
sản.
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm căn cứ vào thiệt hại thực tế
của bên được bảo hiểm để xác định số tiền bồi thường. Việc bồi thường của doanh
nghiệp bảo hiểm chỉ có mục đích đền bù những thiệt hại của bên được bảo hiểm
trong sự kiện bảo hiểm. Thông thường, doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường cho bên
được bảo hiểm những chi phí thực tế, hợp lý để sửa chữa, thay thế, tái tạo lại tài
sản như trước khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trường hợp phải thay mới bộ phận tài
sản trong quá trình sửa chữa, nếu hợp đồng không có thỏa thuận gì khác, doanh
nghiệp bảo hiểm được quyền khấu trừ phần giá trị khấu hao của bộ phận tài sản bị
thay thế (nếu có).
Thực hiện nguyên tắc bồi thường đòi hỏi một số biện pháp đi kèm trong trường
hợp đặc biệt, đó là Thế quyền hợp pháp và Đóng góp trong trường hợp bảo hiểm
trùng.
Áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp khi xuất hiện người thứ 3 có lỗi và do đó
có trách nhiệm đối với thiệt hại tài sản. Theo nguyên tắc này, sau khi trả tiền bồi
thường, công ty bảo hiểm sẽ được thay quyền của người được bảo hiểm để thực

hiện việc truy đòi trách nhiệm của người thứ 3. Tuy nhiên có một số trường hợp
ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp, đó là khi người gây lỗi là trẻ
em, con cái, vợ chồng, cha mẹ… của người được bảo hiểm.
Áp dụng nguyên tắc đóng góp khi xảy ra bảo hiểm trùng. Vì bảo hiểm trùng
thường liên quan đến sự gian lận của người tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo
Thúy Hằng
hiểm. Do đó, về nguyên tắc doanh nghiệp bảo hiểm có thể hủy bỏ hợp đồng bảo
hiểm nếu phát hiện thấy có dấu hiệu gian lận. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chấp
nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp đối với tổn thất sẽ
được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận.
- Quyền lợi có thể được bảo hiểm và chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm
Tài sản được bảo hiểm phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền chiếm hữu,
sử dụng hợp pháp của bên mua bảo hiểm. Nói cách khác, bên mua bảo hiểm chỉ có
quyền giao kết hợp đồng bảo hiểm cho những tài sản mà mình có quyền sở hữu
hoặc được người sở hữu giao quyền chiếm hữu, sử dụng. Trường hợp tài sản đang
được bảo hiểm bị chuyển quyền sở hữu do bên mua bảo hiểm bán, trao đổi, cho,
tặng, để lại thừa kế thì doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm có thể thoả
thuận chấm dứt hợp đồng bảo hiểm hoặc chuyển nhợng hợp đồng cho người chủ sở
hữu mới. Nếu hợpđồng được chuyển nhượng, người chủ sở hữu mới có trách
nhiệm thực hiện mọi nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng
-Bảo hiểm trùng :Trong BHTS, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được bảo
đảm bằng nhiều HĐBH cho cùng 1 rủi ro với những doanh nghiệp bảo hiểm khác
nhau, những HĐBH này có điều kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm
trùng nhau,thời hạn bảo hiểm trùng nhau,và tổng STBH từ tất cả những hợp đồng
này lớn hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm thì gọi là bảo hiểm trùng.
Ví dụ về bảo hiểm trùng:
Chủ tàu A mua bảo hiểm vật chất than tàu ngang giá trị theo điều kiện bảo hiểm
mọi rủi ro và mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự ở mức ¾ tại công ty bảo hiểm X.
Chủ tàu B mua bảo hiểm vật chất than tàu ngang giá trị theo điều kiện bảo hiểm
mọi rủi ro và mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự ở mức ¾ tại công ty bảo hiểm Y.

Thúy Hằng
Tai nạn xảy ra hai tàu A và B đâm va, xác định lỗi và tiệt hại của các bên. Như vậy
khi xác định lỗi và TNDS của từng chủ tàu để bồi thường sẽ thấy tàu A được bảo
vệ bởi HĐBH của cty X và phần trách nhiệm dân sự của tàu B đối vớ lỗi của mìh
gây ra đối với tàu A. Như vậy khi xác định STBH chúng ta phải xác định phần bảo
hiểm trùng của TNDS và phần BH đã mua của cty X để loại bỏ phần bảo hiểm
trùng này. ( theo t thấy có lẽ phần này nên lấy số liệu thì minh họa rõ hơn )
Câu 5:Nêu khái niệm bảo hiểm nhân thọ? Chỉ ra sự khác biệt giữa những loại hình
bảo hiểm con người bao gồm bảo hiểm trong trường hợp tử vong, bảo hiểm trong
trường hợp sống và bảo hiểm hỗn hợp? hiện nay, anh chj có nhu cầu mua loại hình
bảo hiểm con người nào trong số các loại hình nói trên hay ko? Tại sao?
Trả lời : - Khái niệm BHNT : BHNT là sự cam kết giữa nười bảo hiểm và người
tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia bảo
hiểm (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm)một số tiền nhất định khi có
những sự kiện định trước xảy ra ( người được bảo hiểm bị chết hoặc sống tới một
thời điêm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn.
Hay BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và
tuổi thọ của con người.
BHNT có 3 loại hình cơ bản :
- BH trong trường hợp tử vong:là loại bảo hiểm được ký kết bảo hiểm cho cái
chết xảy ra trong thời gian quy định của hợp đồng. Nếu người mua không
chết trong thời gian đó, người BH không phải trả bất kỳ số tiền BH nào.
- BH trong trường hợp sống:là loại hình được ký kết bảo hiểm cho sự song
xảy ra trong thời hạn quy định của hợp đồng. Người bảo hiểm cam kết trả
những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong
suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm.
Thúy Hằng
- BHNT hỗn hợp:là loại hình được ký kết bảo hiểm cho cả sự sống và cái chết
xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Người bảo hiểm cam kết
chi trả số tiền bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong

hay còn sống.
So sánh sự khác biệt cơ bản giữa 3 loại hình bảo hiểm nhân thọ
Đặc điểm so sánh BH trong trường hợp tử
vong
BH trong trường hợp
sống
BHNT hỗn hợp
Điều kiện nhận
tiền BH
Cái chết xảy ra trong
thời gian quy định của
hợp đồng
Sống trong thời gian
quy định của hợp
đồng
Trong trường họp
người được bảo hiểm
bj tử vong hay còn
sống
Trả tiền BH Trả 1 lần khi người được
BH bị chết
Trợ cấp định kỳ cho
người được BH
khi hết hạn hợp đồng
hoặc khi người được
bảo hiểm bị tử vong
Phí bảo hiểm đóng 1 lần hoặc định kỳ,
không thay đổi trong
suốt quá trình bảo hiểm
Đóng 1 lần Thường đóng định kỳ

và không thay đổi
trong suốt quá trình
bảo hiểm
Thời hạn bảo hiểm Xác đinh( BH tử kỳ)
Khong xác đinh( BH
trọn đời)
Thường xác định trừ
trường hợp trợ cấp
dịnh kỳ đến khi chết
Xác định
Hiện nay có nhu cầu sử dụng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp vì:
- Trong cuộc sống có rất nhiều rủi ro có thể xảy đến với bản than và gia đình
bất cứ lúc nào mà bảo hiểm là 1 trong những biện pháp hữu hiệu để đối phố
với rủi ro. Như vậy lựa chọn 1 loại hình bảo hiểm để bảo vệ cho bản than và
gia đình là rất phù hợp.
- Mục đích của bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp là khách hàng sẽ nhận được só
tiền không đổi và bảo tức trong tương lai khi sự kiện bảo hiểm xảy ra để
cung cấp tài chính cho 1 dự định mua nhà trong tương lai( mua nhà, du
học…) phù hợp với những dự định của bản thân.
- Cách thức đóng phí và thời hạn bảo hiểm khá linh hoạt; nguồn thu nhập của
bản thân phù hợp với loại hình bao hiểm này.
Thúy Hằng
Câu 4: Trong bảo hiểm con người có áp dụng nguyên tắc bồi thường hay ko? Nếu
có áp dụng thì trong tường hợp nào? Trong bảo hiểm con người có bảo hiểm nào
dưới giá tri, trên giá trị hay không? Tại sao?
- Nguyên tắc bồi thường (indemnity): Theo nguyên tắc bồi thường, khi có tổn
thất xảy ra, người bảo hiểm phải bồi thường như thế nào đó để đảm bảo cho
người được bảo hiểm có vị trí tái chính như trước khi có tổn thất xảy ra,
không hơn không kém. Các bên không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi.
áp dụng nguyên tắc này :Áp dụng nguyên tắc này STBH mà người được bảo

hiểm nhận được trong mọi trường hợp không vượt quá thiệt hại thực tế
trong sự cố bảo hiểm.
Cơ sở để xem xét nguyên tắc này có được áp dụng hay không:
+ Trong mọi trường hợp STBH ko vượt quá tổn thất => Có bồi thường.
+Đo thiệt hại thưc tế của đối tượng bảo hiểm ( ở trường hợp này là con
người )
Đầu tiên chúng ta xem xét các trường hợp bảo hiểm con người STBH được
chi trả có vượt quá thiệt hại hay không?
Trong phương trình tính phí bảo hiểm ta có : tổng số thu = tổng số chi
Ta xem xét các trường hợp bảo hiểm :
+ Bảo hiểm trong trường hợp tử vong : Khi cái chết xảy ra có nhiều hợp
đồng bảo hiểm có thể thấy số tiền bảo hiểm có thể lên tới 200% hoặc 300%
STBH, vậy ở đây đặt ra câu hỏi có vi phạm nguyên tắc bồi thường hay
không?
Nếu xét trên 1 cá nhân thì số tiền bảo hiểm có thể cao hơn nhưng những giả
định của bảo hiểm là áp dụng trên nguyên tắc số lớn vì vậy không hề vi
phạm nguyên tắc bồi thường.
+ Bảo hiểm trong trường hợp sống : con người đóng góp để tạo ra một quỹ
chung và từ quỹ đó sẽ cùng chia cho các đối tượng bảo hiểm. Vì vậy cũng
không hề vi phạm nguyên tắc bồi thường.
+ Trong trường hợp bảo hiểm phi nhân thọ: những chi phí được chi trả
trong BHYT, BHXH, BHTT là ko hề vi phạm nguyên tắc bồi thường
=> Như vậy trong bảo hiểm con người có bồi thường.
Xét cơ sở thứ 2
Thúy Hằng
Bảo hiểm con người có đối tượng được bảo hiểm là tuổi thọ tính mạng tình
trạng sức khỏe con người hoặc các sự kiện liên quan đến cuộc sống và có
ah tới cuộc sống con người.
Tổn thất thực tế ở trong bảo hiểm con người là tính mạng, sức khỏe, sự sống
của con người. Vậy làm sao để đánh giá được những tổn thất thực tế này có

giá trị lượng hóa bao nhiêu. Tính mạng và tình trạng sức khỏe con người là
vô giá nên không thể xác định bằng giá trị 1 khoản tiền nào được. STBH
trong các HĐBH con người hoàn toàn không phải sự biểu hiện giá trị của
bản thân người được bảo hiểm mà trên cơ bản chỉ có ý nghĩa là 1 số tiền
người tham gia bảo hiểm khoán cho DN bảo hiểm khi sự kiện rủi ro xảy ra.
Vì vậy không thể tính toán được tổn thất thiệt hại thực tế trong bảo hiemr
con người.
=> trong bảo hiểm con người không áp dụng nguyên tắc bồi thường mà
thay vào đó là nguyên tắc khoán
* Trong bảo hiểm con người có bảo hiểm nào trên giá trị, dưới giá trị hay
không, tại sao?
- Trước hết chúng ta phải hiểu giá trị bảo hiểm là gì, thế nào là trên giá trị,
dưới giá trị?
Theo BHTS định nghĩa: GTBH là giá trị của các tài sản được bảo hiểm và
nó được lấy làm căn cứ để xác định số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
-STBH: là khoản tiền được xác định trong HĐBH thể hiện giới hạn trách
nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm.
Khi STBH< GTBH được gọi là bảo hiểm dưới giá trị.
Khi STBH> GTBH được gọi là bảo hiểm trên giá trị.
Vậy thì giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ
trong trường hợp sống, bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp tử vong là gì ?
+Trong bảo hiểm phi nhân thọ, giá trị bảo hiểm để chỉ số tiền ước tính hoặc
thỏa thuận cho giá trị của tài sản (máy móc, nhà máy, hàng hóa) hoặc chi phí
(khám bệnh, nằm viện, thương tật).
+ Trong bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp tử vong thì GTBH ở đây là giá
trị của cái chết.
Thúy Hằng
+ Trong bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp sống thì GTBH ở đây là giá tị
của sự sống.
Thực tế là phải xác định được những tổn thất thực tế rồi quy giá trị thì mới

có thể so sánh và biết được là trên hay dưới giá trị. Nhưng để xác định được
giá trị của sự sống hay cái chết, hoặc giá trị của tính mạng, sức khỏe con
người là vô cùng khó. Không ai có thể tính toán được sức khỏe của con
người đáng giá bao nhiêu. Sức khỏe và tính mạng của con người là những
thứ vô cùng quý giá, chúng ta không thể lượng hóa nó một cách dễ dàng
được. Chúng ta không thể tính tán được giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm con
người vì vậy không thể nói trong bảo hiểm con người có bảo hiểm trên giá
trị hay dưới giá trị.
Câu 10: Trình bày khái niệm, đối tượng, phạm viBH TNDS đối với người thứ
ba của chủ xe cơ giới? Hiện tại, Anh (Chị) đang sử dụng loại hình dịch vụ BH
TNDS đối với người thứ ba của chủ xe cơ giới nào hay không?
1. Khái niệm
- TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 là trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi
thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ 3 khi xe lưu hành
gây tai nạn. Công ty BH nhận BH cho phần TNDS của chủ xe phát sinh do sự
hoạt động và điều khiển của người lái xe.
- Người thứ 3 ở đây là người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn,
nhưng loại trừ:
+ Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe.
+ Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái…
+ Hành khách, những người có mặt trên xe.
+ Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên.
2. Đối tượng
Thúy Hằng
Đối tượng được BH là TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3. Đối
tượng này không được xác định trước. Chỉ khi nào việc lưu hành xe gây tai nạn
có phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ 3 thì đối tượng này mới được
xác định cụ thể.
Đối tượng tham gia BH thông thường là chủ xe, có thể là cá nhận hay đại
diện cho 1 tập thể.

3. Phạm vi BH
• Công ty BH nhận bảo đảm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được
gây ra tai nạn và làm phát sinh TNDS của chủ xe. Cụ thể các thiệt hại nằm
trong phạm vi BH gồm:
- Thiệt hại về tính mạng và sức khỏe của bên thứ 3.
- Thiệt hại về tài sản, hàng hóa… của bên thứ 3.
- Thiệt hại về tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu
nhập.
- Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn chế
thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả
biện pháp không mang lại hiệu quả).
- Những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, của những người tham gia cứu chữa,
ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân.
• Phạm vi loại trừ BHmặc dù có phát sinh TNDS:
- Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại.
- Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông
theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ.
- Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ
như:
+ Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật
và môi trường.
+ Lái xe không có bằng lái hoặc bị tịch thu, bằng lái không hợp lệ.
+ Lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như: rượu, bia, ma túy…
Thúy Hằng
+ Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép.
+ Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa
chữa.
+ Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải.
+ Xe không có hệ thống lái bên phải.
- Thiệt hại do chiến tranh, bạo động.

- Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá tri thương mại, làm đình trệ sản
xuất kinh doanh.
- Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn.
- Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thỏa thuận khác.
- Các tài sản đặc biệt như: vàng, bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm,
thi hài, hài cốt.
4. Hiện tại tôi đang sử dụng: BH bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô- xe máy
của Công ty cổ phần BH Hàng không.
- Phạm vi BH theo như quy định ở trên
- Thời hạn BH: 1 năm
- Mức TNDS đối với người thứ 3:
Về người: 70 triệu đồng/ 1 người/ 1 vụ
Về tài sản: 40 triệu đồng/ 1 người/ 1 vụ
- Phí BH đã nộp (có VAT): 66.000 đồng
Câu 9: So sánh BH tài sản và BH TNDS trên những nét cơ bản nhất? Phân
tích các điều kiện làm phát sinhTNDS?
1. So sánh
Cùng là BH thiệt hại, đều áp dụng các nguyên tắc chung của BH nhưng có
những nét khác nhau cơ bản:
BH tài sản BH TNDS
- Đối tượng bảo vệ: giá trị tài sản - Đối tượng BHlà phần TNDS có
Thúy Hằng
nằm trong phạm vi BH.
- Khi mua BH tài sản, tài sản đã
được hình thành rồi nên đối tượng
BH là hiện hữu vào thời điểm ký
kết hợp đồng BH.
- Bảo vệ cho tài sản của mình. Đa
phần là tự nguyện, có thể có giảm
giá.

- Thường khồn có BH trên giá trị tài
sản.
thể phát sinh của người được BH
khi gây tổn hại cho người khác
nhưng do yếu tố khách quan,
không cố ý.
- Khi mua BH TNDS, TNDS chưa
được xác định trước do đối tượng
BH mang tính trừu tượng, chỉ khi
nào gây tổn hại cho người khác có
phát sinh TNDS thì đối tượng này
mới được xác định cụ thể.
- Bảo vệ cho người thứ 3 bị thiệt
hại. Đa phần là bảo hiểm bắt buộc,
không giảm giá, khuyến mại.
- Người tham gia mua BH có thể tự
nguyện thỏa thuận tham gia BH
với mức trách nhiệm cao hơn mức
TNDS bắt buộc (mức TNDS tự
nguyện) mà các DN BH chủ động
đưa ra để khách hàng lựa chọn.
VD:
Đối với chiếc xe máy mua BH vật chất xe cơ giới và BH TNDS bắt buộc của chủ
xe cơ giới tại công ty BH BIC
BH vật chất xe cơ giới BH TNDS của chủ xe cơ
giới
- Là BH tự nguyện
bảo vệ cho chính
chiếc xe của mình
- Có thể có giảm giá

- Là BH bắt buộc, bảo
vện cho người thứ 3
bị thiệt hại.
- Không giảm giá,
khuyến mại.
Đối tượng BH Vật chất xe máy (thời hạn
sử dụng ≤ 7 năm)
Phần TNDS của chủ xe đối
với người thứ 3 phát sinh
khi việc lưu hành xe gấy
tai nạn thiệt hại cho người
thứ 3.
Phạm vi BH Bồi thường cho những tổn
thất, thiệt hại vật chất xe
Những rủi ro bất ngờ,
khách quan gây tai nạn và
Thúy Hằng
do:
- Tai nạn bất ngờ,
ngoài sự kiểm soát
của chủ xe, lái xe:
đâm va, lật đổ, hỏa
hoạn, cháy nổ
- Tai họa bất khả
kháng: giông bão, lũ
lụt, động đất, song
thần…
- Mất cắp toàn bộ xe
- Tổn thất, hư hỏng xe
do chuyên chở bằng

các phương tiện
khác trong lãnh thổ
VN loại trừ chuyên
chở bằng đường
hàng không
- Chi phí hợp lý và
cần thiết phát sinh
trong tai nạn thuộc
phạm vi BH
làm phát sinh TNDS của
chủ xe
- Thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, tài
sản, hàng hóa… của
bên thứ 3.
- Thiệt hại về tài sản
làm ảnh hưởng đến
kết quả kinh doanh
hoặc giảm thu nhập.
- Các chi phí cần thiết
và hợp lý để thực
hiện các biện pháp
ngăn ngừa hạn chế
thiệt hại; các chi phí
thực hiện biện pháp
đề xuất của cơ quan
bảo hiểm (kể cả biện
pháp không mang lại
hiệu quả).
- Những thiệt hại về

tính mạng, sức khỏe,
của những người
tham gia cứu chữa,
ngăn ngừa tai nạn,
chi phí cấp cứu và
chăm sóc nạn nhân.
Phí BH Tính bằng tỷ lệ % trên số
tiền BH
Theo quy định của bộ tài
chính: 66.000 đồng (có
VAT)
Bồi thường BH BIC chịu trách nhiệm
thanh toán chi phí thực tế
để sửa chữa, thay thế bộ
phận bị tổn thất, hoặc trả
tiền cho chủ xe để bù đắp
tổn thất trên cơ sở xác
định được chi phí sửa
chữa, khắc phục tổn thất
có thể phải trả.
Mức khấu trừ tối thiểu
(chủ xe phải tự chịu) là
BIC thay mặt cho chủ xe
bồi thường thiệt hại về
người và tài sản cho bên
thứ 3 (phần TNDS của chủ
xe do gây ra thiệt hại cho
người thứ 3) với mức tối
đa:
- Về người: 70.000.000

đồng/ 1 người/ 1 vụ
- Về tài sản:
40.000.000 đồng/ 1
Thúy Hằng
300.000 đồng cho mỗi và
mọi vụ tổn thất bộ phận.
vụ tai nạn.
2. Các điều kiện làm phát sinh TNDS
- Căn cứ phát sinh TNDS phải là hành vi vi phạm pháp luật dân sự, cụ thể hơn
là việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ
của người có nghĩa vụ dân sự.
VD: chủ xe cơ giới (lái xe) do vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông
hay các quy định khác của Nhà nước, đó chính là có hành vi vi phạm pháp luật dân
sự.
- Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe của bên thứ 3.
VD: xe máy gây tai nạn đâm vào người đang đi xe đạp làm chiếc xe đạp hư hỏng
nặng, người đi xe đạp bị thương. Như vậy, bên thứ 3 là người đi xe đạp bị thiệt hại
về sức khỏe và tài sản là chiếc xe đạp.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật dân sự của người gây
thiệt hại đối với thiệt hại của người thứ 3.
VD: thiệt hại về sức khỏe và tài sản của người đi xe đạp ở trên do nguyên nhân
trực tiếp là người đi xe máy đâm vào gây tai nạn chứ không phải do bất kỳ nguyên
nhân bên ngoài nào khác.
- Phải có lỗi của người gây thiệt hại.
Trên thực tế chỉ cần đông fthowif xảy ra 3 điều kiện đầu tiên là phát sinh TNDS
đối với người thư 3. Nếu thiếu 1 trong 3 điều kiện đó thfi TNDS không phát sinh
và do đó không phát sinh trách nhiệm của BH. Điều kiện thứ 4 có thể có hoặc
không vì nhiều khi thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ mà không hoàn
toàn do lỗi của người gây thiệt hại. VD: chiếc xe máy trên đang chạy thì bị nổ lốp,
lái xe mất khả năng điều khiển nên đã đâm vào xe đạp gây tai nạn. Trường hợp

này, TNDS vẫn có thể phát sinh nếu có đủ 3 điều kiện đầu tiên.
Thúy Hằng
Câu 8: Trình bày các loại tổn thất cơ bản trong bảo hiểm vận tải hàng
hóaxuất nhập khẩu bằng đường biển? Lấy ví dụ minh họa cho mỗi loại tổn
thất vừa nêu?
Tổn thất trong BH HH XNK là những thiệt hại, hư hỏng của HH do rủi ro gây ra.
1. Căn cứ vào quy mô, mức độ tổn thất có:
• Tổn thất bộ phận (TTBP): 1 phần của đối tượng được BH theo hợp đồng BH
bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại về số lượng, trọng lượng, thể tích, phẩm chất
hoặc giá trị.
VD: 1 tàu chở gạo XK ra nước ngoài nhưng trong quá trình vận chuyển bị ướt
làm giảm giá trị thương mại 15%. Phần giảm giá trị đó là TTBP.
• Tổn thất toàn bộ (TTTB): toàn bộ đối tượng được BH đều bị mất mát, hư
hỏng, thiệt hại. Có 2 loại TTTB:
- TTTB thực tế: trong trường hợp HH bị hủy hoại hoàn toàn, bị tước đoạt
không lấy lại được, HH không còn là vật thể được BH, HH trên tàu được
tuyên bố mất tích.
VD: 1 tàu chở cà phê XK trên hành trình gặp bão lớn, cà phê bị ướt và vón cục,
bị hủy hoại hoàn toàn về chất lượng. Nếu tiếp tục chở đến Nhật Bản thì cũng
không thể giao hàng đực do hàng đẫ bị hỏng toàn bộ. Đó là TTTB thực tế.
- TTTB ước tính: HH chưa tới mức thiệt hại toàn bộ thực tế nhưng không tránh
khỏi TTTB kể cả khi cứu chữa .
VD: 1 tàu chở săt thép xây dựng bị đắm trên hành trình do gặp bão. Nếu tiến
hành trục với thì chi phí phát sinh có thể lớn hơn giá trị ban đầu của lô hàng.
Như vậy TTTB thực tế là không thể tránh khỏi.Đó là TTTB ước tính.
2. Căn cứ vào trách nhiệm BH có:
• Tổn thất riêng (TTR): là tổn thất chỉ gây thiệt hại cho 1 hoặc 1 số quyền lợi
của chủ hàng hoặc chủ tàu trên 1 con tàu.
Thúy Hằng

×