Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.81 KB, 30 trang )

Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
-----Lãi suất cơ bản, vấn đề nóng bỏng trong thời gian qua đã trở thành đề tài cho
nhiều bài báo khi mà nền kinh tế tài chính tồn cầu rơi vào khủng hoảng.
Với tư cách là một trong những cơng cụ của chính sách tiền tệ, lãi suất đã và
đang được nhiều nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên
thế giới sử dụng như một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ
chế thị trường lãi suất trở thành công cụ đắc lực để NHTW thực thi chính sách tiền tệ
nhằm điều tiết các mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư, lạm phát và tăng trưởng kinh
tế... trong từng thời kỳ nhất định. Việc thi hành một chính sách lãi suất thích hợp là vơ
cùng phức tạp mà vai trị đó thuộc về NHNN. Với trọng trách to lớn đó NHNN đã
thường xuyên điều chỉnh lãi suất cho phù hợp, làm cơ sở ổn định hoạt động cho các
NHTM. Chính vì vậy mà việc điều chỉnh lãi suất cơ bản của NHNN trong thời gian qua
đã tác động nhiều mặt đến hệ thống NHTM trên cả nước.
Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự trên, em mạnh dạn trình bày đề tài:
“Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động đến hệ thống
Ngân hàng thương mại giai đoạn từ năm 2008 đến nay”.
Đến đây, em xin chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn Th.S Bùi Thị Thanh
Ngân, gia đình cùng nhiều bạn bè khác đã giúp em hoàn thành đề án này.
Kết cấu đề án gồm 3 phần:
• Phần I: Lý luận chung.
• Phần II: Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước và những tác động
đến hệ thống Ngân hàng thương mại giai đoạn từ 2008 đến nay.
• Phần III:Những vấn đề gặp phải và một số đề xuất trong thời gian tới
SVTH: Trương Thị Thúy Bình


1


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

Do giới hạn về trình độ, kinh nghiệm cũng như thời gian tìm hiểu thực tế nên đề án
khó lịng tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ
của giáo viên hướng để bài viết được hoàn thiện hơn.
Quy Nhơn, ngày tháng 11 năm 2010.
Sinh viên thực hiện:

Trương Thị Thúy Bình

Phần I: LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Khái niệm và tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế

1.1.1 Chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất là một trong những cơng cụ chính của chính sách tiền
tệ. Tuỳ thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, ngân hàng Nhà nước áp
dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị
trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có
hiệu quả các nguồn vốn trong nền kinh tế.
1.1.2 Tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế
- Chính sách lãi suất là một trong những sách lược vĩ mô quan trọng
của mỗi quốc gia. Sự tác động của chính sách lãi suất ở mỗi quốc gia là khác
nhau bởi nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thực trạng của nền kinh tế, mức phát
triển của thị trường tiền tệ.
- Một chính sách lãi suất phù hợp sẽ làm ổn định thị trường tiền tệ,

góp phần kiềm chế được tình trạng lạm phát, kinh tế vĩ mơ được điều tiết hợp lý,
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong đó có các ngân hàng thương mại
được đảm bảo thông qua việc đưa lãi suất huy động của các NHTM trở về mức
hợp lý hơn trong mối tương quan giữa tỷ lệ lãi suất và cơ cấu kì hạn, phản ánh
đúng quan hệ cung cầu vốn của thị trường, đảm bảo hài hịa lợi ích giữa người
gửi, ngân hàng thương mại và doanh nghiệp vay vốn. Ngược lại, một chính sách
lãi suất khơng phù hợp sẽ làm cho nền kinh tế đi ngược lại với các mục tiêu mà
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

2


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

Nhà nước đã định, gây nguy hại đến thị trường tiền tệ và làm cho lợi ích của các
cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế bị xâm phạm. Bên cạnh đó cịn gây khó khăn
cho các NHTM trong hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là các ngân hàng
quy mơ nhỏ.
1.2 Cơ sơ điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước
Lãi suất là cơng cụ có ý nghĩa khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHTW sẽ
căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để quy định một số chỉ tiêu lãi suất áp
dụng trong toàn hệ thống ngân hàng. Thông thường, người ta quy định ba chỉ
tiêu cơ bản là lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn.
1.2.1. Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất khác
hình thành trong nền kinh tế thị trường. Đó là loại lãi suất chiếm vị trí quan trọng
trong cơ chế thị trường.
Lãi suất cơ bản do NHTW xác định và công bố trên cơ sở tình hình thực tế

của thị trường và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Lãi suất cơ bản có một số chức năng nhất định. Nó là cơng cụ để điều
hành chính sách tiền tệ quốc gia. Qua lãi suất cơ bản, NHTW tác động vào thị
trường tiền tệ, thúc đẩy, mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức tương quan cần
thiết giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. Mặc khác, lãi suất cơ bản là giá cả sử
dụng vốn trong hoạt động tín dụng, là cơ sở hình thành lãi suất thị trường, tức là
lãi suất kinh doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hịa một cách tự nhiên lợi ích của
người gửi tiền, của người vay tiền và của tổ chức tín dụng.
Lãi suất cơ bản được xác định một cách trực tiếp dưới nhiều góc độ. Nếu
đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của khách hàng (người gửi tiền và người vay
vốn) người ta quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa. Điều
này có nghĩa là, vì lợi ích của người gửi tiền, các tổ chức tín dụng khơng được hạ
lãi suất một cách tùy tiện và vì yêu cầu phát triển sản xuất, các tổ chức tín dụng
khơng được tăng lãi suất cho vay quá mức. Nếu đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích
của các tổ chức tín dụng, tạo khn khổ cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo an tồn
hệ thống các TCTD, người ta quy định lãi suất cơ bản theo chiều hướng ngược
lại đó là quy định lãi suất tiền gửi tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu. Tuy nhiên
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

3


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

vì muốn tạo lợi thế trong cạnh tranh mà nâng lãi suất huy động quá cao hoặc cho
vay theo lãi suất quá thấp sẽ gây thiệt hại chung cho toàn hệ thống các tổ chức
tín dụng.
Khi xác định lãi suất cơ bản phải tính đến tổng thể quan hệ cung cầu vốn

thơng qua hàng loạt các yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thơng thường.
Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân, mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát dự
kiến, lãi suất thực dương cho người gửi tiền, bù đắp chi phí và có lãi cho TCTD,
u cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kì, rủi ro trong hoạt động tín dụng,
mức độ dự trữ bắt buộc, lãi suất hình thành trên thị trường tiền tệ nói chung, mối
tương quan giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, mối tương quan giữa lãi suất
và tỷ giá hối đối…
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản, cách thức xác định và
điều hành lãi suất cơ bản. Có thể lấy lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa, lãi
suất cho vay tối đa, lãi suất tái chiết khấu của NHTW đối với các tổ chức tín
dụng hoặc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu: đây là phương pháp phổ biến
được NHTW các nước áp dụng. Do lãi suất này được chủ động cơng bố và được
xem xét, tính tốn tương đối thường xun nên thực sự đóng vai trị quyết định
đối với các mức lãi suất kinh doanh cũng như cung cầu vốn của các TCTD.
Nhưng lại mang nặng tính chất điều hành chính sách tiền tệ.
Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa: Thực chất của lãi suất cơ bản loại
này là NHTW công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hóa lãi suất
cho vay. Các tổ chức tín dụng sẽ ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi
khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể phù
hợp với cung cầu về vốn.
Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa: NHTW công bố một mức lãi suất
trần nhưng có thể quy định biên độ phù hợp vời từng loại hình TCTD, thời hạn
khác nhau.
Lãi suất cơ bản là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng: Lãi suất liên
ngân hàng là lãi suất cho vay giữa các NHTM. Lãi suất liên ngân hàng được hình
thành trên cở sở thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và quan hệ cung cầu vốn
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

4



Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

trong nền kinh tế. Do vậy, lãi suất liên ngân hàng gắn liền với thị trường nhiều
hơn và dễ biến động hơn. Thông thường, lãi suất cơ bản bằng lãi suất liên ngân
hàng cộng với một biên độ gồm chi phí quản lý món vay, chi phí rủi ro…
Sử dụng lãi suất cơ bản phải linh hoạt tùy vào từng thời điểm như: hạn chế
tăng trưởng tín dụng bằng cách tăng lãi suất tiền vay và tăng lãi suất tiền gửi.
Biện pháp tăng lãi suất tiền vay nhằm khống chế tình trạng đồng vốn vay được
sử dụng tự do trên thị trường. Tăng lãi suất tiền gửi để thu hút một lượng tiền
nhàn rỗi trong lưu thông. Hai biện pháp này sẽ hỗ trợ cho nhau giúp NHNN chủ
động “cầm nắm” được thị trường tiền tệ. Nhờ vậy mà góp phần kiềm chế được
tình trạng lạm phát, kinh tế vĩ mơ được điều tiết hợp lý, hiệu quả hoạt động của
các doanh nghiệp trong đó các ngân hàng thương mại được đảm bảo.
1.2.2. Lãi suất tái chiết khấu
Khi nền kinh tế phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, NHTW chuyển
sang điều hành lãi suất một cách gián tiếp, mang nặng yếu tố kinh tế. Đó là lãi
suất tái chiết khấu của NHTW. Lãi suất tái chiết khấu tác động và có ý nghĩa
hướng dẫn lãi suất thị trường một cách gián tiếp, tức là tác động đến lãi suất kinh
doanh của các tổ chức tín dụng.
Lãi suất chiết khấu chủ yếu tác động đến cung tiền tệ bằng cách ảnh
hưởng đến khối lượng cho vay chiết khấu và cơ số tiền tệ. Một sự giảm xuống
cho vay chiết khấu sẽ làm giảm bớt cơ số tiền tệ và thu hẹp cung ứng tiền tệ. Còn
một sự tăng lên trong cho vay chiết khấu sẽ làm tăng cơ số tiền tệ và tăng cung
ứng tiền tệ.
Ngồi việc sử dụng làm cơng cụ để tác động đến cơ số tiền tệ và cung ứng
tiền tệ, lãi suất chiết khấu còn được sử dụng để giúp cho việc tránh khỏi những

cơn sụp đổ tài chính vì NHTW đóng vai trị là người cho vay cuối cùng. NHTW
cung cấp hệ thống dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi các ngân hàng bị đe dọa
phá sản, do đó ngăn chặn những cơn sụp đổ tài chính.
Như vậy, lãi suất chiết khấu chính là một cơng cụ điều hành lãi suất của
NHTW sao cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
1.2.3. Lãi suất tái cấp vốn

SVTH: Trương Thị Thúy Bình

5


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của NHTW đối với các NHTM. Khi
tái cấp vốn cho NHTM, NHTW đã tăng lượng tiền cung ứng, đồng thời tạo cơ sơ
cho NHTM tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán cho họ.
NHTW điều chỉnh tăng, giảm lãi suất tái cấp vốn phù hợp với mục tiêu
thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, từ đó làm giảm hay tăng lượng tiền trong lưu
thông. NHTW cũng sử dụng hạn mức tái cấp vốn để tác động trực tiếp về mặt
lượng đối với dự trữ của hệ thống NHTM.

Phần II: CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
(GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY)
2.1 Khủng hoảng tài chính năm 2008 và thực trạng nền kinh tế Việt Nam
2.1.1 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008

Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Mỹ cũng đã qua nhưng cho đến nay
dư âm và tác động của nó vẫn cịn. Năm 2008, khủng hoảng tài chính bùng phát
tại Mỹ và lan rộng toàn cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài
chính khổng lồ, thị trường chứng khốn khuynh đảo. Nguyên nhân sâu xa của
cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ.
Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp
đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Cho
vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà
đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả
năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ USD của năm
2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Vào
cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là tiền đi vay
với một phần ba các khoản này là nợ khó địi. Trước đó, để đối phó với lạm phát,
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

6


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm
2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà. Thị
trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu hiệu đóng băng và sụt giảm.
Trước tình hình trên, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, tổ chức tài chính...
đã mua lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản đảm bảo để phát
hành trái phiếu ra thị trường. Loại sản phẩm phái sinh này được đánh giá cao bởi
các tổ chức định giá tín dụng, nên thanh khoản tốt. Không chỉ dừng lại ở đó,
nhiều cơng ty bảo hiểm, trong đó có AIG, cịn sẵn sàng bảo lãnh cho những hợp

đồng hoán đổi này. Chiến lược trên được đưa ra với mục đích giảm rủi ro cho
những khoản vay bất động sản. Tuy nhiên, trái lại nó tạo ra hiệu ứng sụp đổ dây
chuyền và khiến rủi ro bị đẩy lên cao hơn. Những bất ổn từ hoạt động cho vay
dưới chuẩn khiến giá nhà sụt giảm mạnh, thị trường nhà đất đóng băng. Cuộc
khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động sản sang thị trường tín dụng và
cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nước châu
Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản.
2.1.2 Thực trạng nền kinh tế Việt Nam từ cuộc khủng hoảng đến nay
Biến cố kinh tế thế giới tác động rõ nét tới độ ổn định và tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Năm 2008 đã đi qua với lãi suất cao và vấn đề
thanh khoản của hệ thống tín dụng, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng,
sụt giảm của TTCK đang tiếp diễn…
2.1.2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu và suy thoái kinh tế đã làm chậm tốc
độ phát triển của kinh tế Việt Nam. Kế hoạch đầu năm 2008, tăng trưởng GDP
dự kiến từ 8,5 – 9%. Tháng 5 năm 2008 Quốc hội đã điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng
GDP xuống 7%, nhưng đến tháng 10 năm 2008 tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế
chỉ là 6,52%.
Tổng cục Thống kê cho biết, theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối
năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý 1/2009 chỉ đạt 3,14%, là
quý có tốc độ thấp nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý 2, quý 3 và quý 4
của năm nay đã nâng dần lên, lần lượt là 4,46%, 6,04% và 6,9%. Và tính chung
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

7


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân


cả năm tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, vượt mục tiêu kế hoạch là 5% đã
điều chỉnh trước đó.
Tính theo khu vực kinh tế, năm 2009, khu vực nông lâm nghiệp và thủy
sản có tốc độ tăng trưởng 1,83%; cơng nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực
dịch vụ tăng 6,63%.
Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009
vẫn thấp hơn tốc độ tăng 6,18% của năm 2008 nhưng đã vượt mục tiêu 5% của
kế hoạch đề ra trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng
trưởng âm, và kết quả trên là một thành công lớn.
Mặt khác, tốc độ tăng trưởng GDP quý 1 và 2 của năm 2009 thấp hơn quý
1 và 2 của năm 2008, nhưng quý 3/2009 đã tăng cao hơn tốc độ của quý 3/2008
(6,04% so với 5,98%); tương tự quý 4/2009 cũng tăng cao hơn quý 4/2008 (6,9%
so với 5,89%).
“Điều này cho thấy kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tăng
trưởng, chứng tỏ các giải pháp ngắn chặn suy giảm kinh tế triển khai trong năm
qua đã phù hợp với tình hình thực thế, đã và đang phát huy hiệu quả tích cực”,
Tổng cục Thống kê nhận định
2.1.2.2. Hệ thống tài chính – ngân hàng
Khủng hoảng làm mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam
với thị trường tài chính bên ngồi và với ngân hàng Mỹ gặp khó khăn. Khả năng
giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tế giảm, ảnh hưởng đến nợ vay ngắn hạn của
Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp.
Trong ngắn hạn, do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính, lợi
nhuận của nhiều ngân hàng giảm, thậm chí một số ngân hàng nhỏ bị thua lỗ; nợ
xấu tăng lên; nên hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam cho đến nay vẫn còn
dấu hiệu của sự ảnh hưởng. Cụ thể, sau một giai đoạn thắt chặt trong năm 2008
để giải quyết tình trạng q nóng, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng đáng kể
nhằm hỗ trợ nhu cầu nội địa. Ngân hàng Nhà nước đã cắt giảm một nửa lãi suất
với các khoản vay chính sách xuống cịn 7% từ giữa năm 2008 đến tháng 2/2009.

Cắt giảm lãi suất đối với vay chính sách và hỗ trợ lãi suất đã thúc đẩy tăng

SVTH: Trương Thị Thúy Bình

8


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

trưởng tín dụng của ngân hàng. Chỉ số định lượng về chất lượng danh mục đầu
tư của ngân hàng (dựa trên thời gian thiếu nợ và nợ lũy tiến) đã cho thấy nợ xấu
tăng. Do lãi suất cho vay không được phép cao hơn lãi suất đối với vay chính
sách quá 50%, nên mức chênh lệch lãi suất của các Ngân hàng thương mại bị thu
hẹp đáng kể. Lãi suất thấp còn gây khó khăn cho chính phủ trong việc phát hành
trái phiếu và gây ra tâm lý lưỡng lự của các nhà xuất khẩu khi bán ngoại hối.
Nhận ra các nguy cơ đang nổi lên từ chính sách nới lỏng tiền tệ, Ngân hàng Nhà
nước gần đây đã yêu cầu các Ngân hàng thương mại lớn phải giữ tốc độ tăng
trưởng tín dụng ở mức 25% trong năm 2009.
2.1.2.3. Hoạt động xuất khẩu
Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng
20% đến 21% kim ngạch xuất khẩu. Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc
độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ
đang trên đà giảm mạnh. Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị
trường Mỹ đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam
trong năm 2008 và cả năm 2009.
Khủng hoảng tài chính Mỹ cịn tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế
khác trên thế giới, đặc biệt là EU và Nhật Bản – đây là hai thị trường xuất khẩu
quan trọng của Việt Nam. Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị

trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, các nhà nhập khẩu khơng có khả năng
thanh tốn do khó khăn về tài chính, theo đó nhập khẩu đối với hàng hố xuất
khẩu của Việt Nam có xu hướng giảm. Thực tế những tháng gần đây, với tác
động tiêu cực của khủng hoảng tài chính, xuất khẩu của Việt nam đã bắt đầu có
biểu hiện giảm sút, kim ngạch xuất khẩu tháng 11 đã tiếp tục giảm và xuống
dưới ngưỡng 5 tỷ USD/tháng. Đây là tháng thứ ba kim ngạch xuất khẩu suy
giảm. Tháng 11 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 4,8 tỷ USD
giảm so với mức 5,044 tỷ USD của tháng 10. Trong đó: Dệt may giữ được kim
ngạch ở mức 780 triệu USD, giày dép tăng nhẹ lên 400 triệu USD so với 396
triệu USD của tháng 10/2008. Một số mặt hàng khác cũng suy giảm trong đó đặc
biệt là dầu thơ giảm mạnh do giá dầu đã giảm 60% so với mức tháng 7/2008.
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

9


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

Khủng hoảng tài chính dẫn đến suy thối kinh tế, nhiều mặt hàng thế mạnh của
Việt Nam giảm giá tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu.
2.1.2.4. Vốn đầu tư nước ngồi
Khủng hoảng làm chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn, thị trường xuất khẩu bị
thu hẹp nên dòng vốn chảy vào Việt Nam giảm sút. Thêm vào đó, hầu hết các dự
án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng số vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính, các ngân hàng gặp khó
khăn đã làm cho nhiều hợp đồng vay vốn không được ký kết hoặc không thể giải
ngân được. Mặc dù vậy, nhưng lượng vốn FDI cam kết dành cho Việt Nam vẫn
tăng cao kỷ lục. Theo Tổng cục Thống kê, trong 11 tháng của năm 2008, 1059

dự án FDI được đăng ký mới với qui mô vốn cam kết vượt trên 60 tỷ USD. Đây
là con số rất ấn tượng, gấp hơn 3 lần năm 2007 và hơn 8 lần so với năm 2005.
Giải ngân vốn FDI năm 2008 cũng lập một kỷ lục với 10,1 tỷ USD cho đến hết
tháng 11/2008, tăng 44,2% so với cùng kỳ năm 2007, nhưng cho đến nay tỷ lệ
vốn giải ngân mới chỉ bằng 17% con số đăng ký.
Theo số liệu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố hôm qua, trong năm
2009, Việt Nam chỉ thu hút được tổng cộng khoảng hơn 21 tỷ đôla đầu tư, vượt
qua chỉ tiêu đề ra cho năm nay là 20 tỷ đôla. Tuy nhiên, số vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi chỉ bằng 30% so với năm ngối. Cũng theo các số liệu của Bộ Kế
hoạch và đầu tư, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được sử dụng chỉ đạt
khoảng từ 9-10 tỷ đôla, thấp hơn mức 11,5 tỷ đơla của năm ngối. Trong năm
tới, theo dự báo đầu tư nước ngồi cũng sẽ khơng khá gì hơn, nhất là vì tại Việt
Nam cịn nhiều cản lực đặc biệt là cơ sở hạ tầng yếu kém và nạn quan liêu tham
nhũng.
Cùng với nguồn tiền cho người Việt ở nước ngoài gởi về vẫn là nguồn
ngoại tệ chủ yếu để Việt Nam giảm bớt thâm thủng mậu dịch. Vào tuần trước,
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố là kinh tế Việt Nam sẽ đạt mức tăng
trưởng trong năm nay, nhưng mức tăng trưởng này chưa thật sự ổn định do mức
thâm thủng mậu dịch tăng cao trong khi lượng ngoại tệ dự trữ sụt giảm, do hậu

SVTH: Trương Thị Thúy Bình

10


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

quả của việc sụt giảm đồng loạt vốn đầu tư nước ngoài, kim ngạch xuất khẩu và

tiền gởi của Việt kiều.
2.1.2.5. Hoạt động của thị trường chứng khốn
Khủng hoảng tài chính ảnh hưởng rộng trên thị trường tài chính thế giới,
theo đó các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngồi gặp khó khăn hơn trong
việc huy động vốn, họ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi
các thị trường lớn của họ đang gặp khó.
Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết
trên thị trường chứng khoán chịu những tác động xấu, đặc biệt là doanh nghiệp
xuất khẩu, theo đó giá cổ phiếu sụt giảm. Đến cuối năm 2008, giá trị các chỉ số
chứng khoán giảm tới 70% so với đầu năm. Ngay một số cổ phiếu thuộc nhóm
“blue-chip” cịn có mức sụt giảm lớn hơn nhiều, như SSI (- 84%) và FPT (78%). Khủng hoảng tài chính cịn tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu
tư chứng khốn Việt Nam, do đó TTCK cũng bị tác động xấu. Nửa đầu năm
2008, chỉ số chứng khoán tụt dốc nhanh chóng. Đầu tháng 1/2008, VNIndex cịn
trên 900 điểm. Tới đầu tháng 6/2008, hàn thử biểu kinh tế lần đầu rơi xuống dưới
ngưỡng 400 điểm. Thị trường tiếp tục giằng co trong quí III/2008. Từ sau tháng
10/2008, TTCK liên tục giảm điểm. Tới ngày 11/12/2008, VNIndex chỉ còn 288
điểm. Tại Hà Nội, HaSTC-Index cịn 101 điểm. Trước đó, thị trường Hà Nội
thậm chí cịn lùi về sau vạch xuất phát, tụt xuống 97,61 điểm vào kết thúc phiên
giao dịch ngày 27/11/2008.
Năm 2009 là năm nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do tác động của
khủng hoảng tài chính tồn cầu. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng,
Chính phủ, nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua được khủng hoảng và tiếp tục đà
tăng trưởng, cùng với sự hồi phục của nền kinh tế, thị trường chứng khốnViệt
Nam đã có dấu hiệu hồi phục, tạo đà cho các bước tăng trưởng của những năm
tiếp theo. Trong năm 2009 hoạt động của các công ty chứng khoán (CtyCK)
được thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, mạng lưới, quy mô hoạt động của CtyCK ngày càng được mở
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

11



Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

rộng, với 80 chi nhánh, 42 phòng giao dịch đang hoạt động tập trung ở nhiều
tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, T.p Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần
Thơ, Hải Phòng. Cùng với sự phát triển mạng lưới hoạt động, số lượng tài khoản
giao dịch tại các CtyCK cũng tăng mạnh với tổng số tài khoản trên 800.000 tài
khoản, tăng 1,5 lần so với năm 2008.
Thứ hai, Cùng với sự gia tăng khối lượng giao dịch, các CtyCK đã thực
hiện trên 5.000 hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Tính đến cuối năm 2009
đã có gần 80 CtyCK hoạt động có lãi trong năm 2009. Quy mơ vốn hoạt động
của các CtyCK ngày càng được nâng cao. Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn
điều lệ của các CtyCK là 24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008.
Thứ ba, Số lượng người hành nghề kinh doanh chứng khốn ngày càng
tăng. Tính đến nay, UBCKNN đã cấp chứng chỉ người hành nghề chứng khoán
cho 2.744 nhân viên. Nhiều CtyCK đã tuyển dụng được nhân viên có trình độ,
chun mơn cao trong lĩnh vực tài chính, chứng khốn, góp phần nâng cao năng
lực quản lý trong hoạt động. Các CtyCK đã chú trọng đầu tư, hiện đại hóa, hệ
thống công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ chứng khoán. Hoạt động giao
dịch phục vụ khách hàng diễn ra suôn sẻ và ngày một tốt hơn.
2.1.2.6. Thị trường bất động sản
Hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam tiềm lực tài
chính khá hạn hẹp mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài chủ yếu là
vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đây là một khó khăn của doanh
nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng hoảng. Cuối năm 2007 tình trạng
đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao so với giá trị thực. Thị
trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm 2008 nền kinh tế Việt

Nam gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng cao
buộc người dân phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS đóng băng, giá BĐS đã giảm
đến 40%, các doanh nghiệp kinh doanh BĐS rơi vào khó khăn, khơng bán được
sản phẩm lại phải chịu lãi suất cao do chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi suất
ngân hàng tăng cao. Đến nay thị trường cũng chưa có dấu hiệu phục hồi. Giá
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

12


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

BĐS giảm kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho
cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại rơi vào tình thế bất lợi.
Nếu nhìn vào diễn biến cả năm, thì thị trường này nhìn chung ế ẩm, hoặc
chỉ tăng cục bộ ở một số phân khúc. Khảo sát thực tế cho thấy, tại nhiều dự án ở
TP.HCM, giá đã tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm 2008. Ở Hà Nội, cách
nay khoảng một tháng, người dân đổ xô đi mua chung cư và nhà dự án đã đẩy
giá phân khúc thị trường này tăng lên chóng mặt. Ở một số dự án chung cư cao
cấp, giá tăng đến 10 – 15 triệu đồng/m2 so với giá gốc. Đất nền dự án tại khơng
ít dự án cũng bị đẩy lên từ 10 – 20% so với trước đó. Sau đó ít lâu, giá nhà đất tự
dưng tuột dốc nhanh chóng. Một loạt dự án đình đám trở thành tâm điểm của thị
trường đã bắt đầu chững lại và giảm giá.
Mặc dù chịu sức ép của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 nhưng thị
trườngbất động sản vẫn được đánh giá khá hấp dẫn, đặc biệt hai thành phố lớn
Hà Nội và TP HCM. Năm 2009 là năm được mùa của các dự ánbất động sản,
trong đó chủ đầu tư lớn đã liên tiếp tung ra hàng loạt dự án lớn. Một loạt dự án
mới được khởi công và chào bán ra thị trường tạo một nguồn cung lớn

2.1.2.7. Thị trường hàng hóa dịch vụ
Sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dùng. Tình hình kinh tế thế giới
suy thối, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam mặc dầu đã được cải thiện
nhưng nói chung vẫn cịn nhiều khó khăn. Trong thời gian qua nhiều doanh
nghiệp đã cắt giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mơ do chi phí sản
xuất tăng, đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Một số hoạt động dịch vụ bị thu hẹp
trong đó có du lịch.
Tổng cục Thống kê cho biết, hoạt động thương mại và dịch vụ sôi động
hơn trong những tháng cuối năm 2009 do sản xuất trong nước phục hồi, nhu cầu
tiêu dùng tăng lên và giá cả hàng hoá, dịch vụ tương đối ổn định. Tổng mức bán
lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế cả năm ước tính đạt

SVTH: Trương Thị Thúy Bình

13


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

1197,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6%; nếu loại trừ yếu tố giá thì mức tăng đạt 11%
so với năm 2008.
Trong mức tăng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng năm 2009, khu vực kinh tế cá thể tăng 20,3%; kinh tế tư nhân tăng 22,9%;
kinh tế Nhà nước tăng 1,4%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,5%, kinh tế
tập thể tăng 18,8%.
Xét theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp tăng 18,6%;
khách sạn, nhà hàng tăng 18,4%; dịch vụ tăng 20,3%; du lịch tăng 1,9%


2.2 Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Sơ đồ 2.1:
Lãi suất chủ đạo của NHNN Việt Nam năm 2008 và 2009

(Nguồn: Số liệu công bố của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)

SVTH: Trương Thị Thúy Bình

14


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

Trong những thập kỷ gần đây, thị trường tài chính tiền tệ thế giới có sự
phát triển vượt bậc cả về quy mô lẫn chiều sâu, cơ chế điều hành lãi suất của
NHTW các nước thay đổi theo hướng tự do hóa. Tuy nhiên, ở mỗi nước, NHTW
căn cứ vào luật định, điều kiện và bối cảnh phát triển kinh tế xã hội, thị trường
tài chính tiền tệ cũng như địa vị pháp lý của NHTW, mục tiêu của chính sách
tiền tệ (lạm phát hoặc đa mục tiêu) để áp dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp
trong từng thời kì nhằm ổn định và phát triển thị trường tiền tệ, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn
trong nền kinh tế.
Đối với nước ta cơ chế điều hành lãi suất có sự thay đổi qua nhiều giai
đoạn, từ giữa thán 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng cơ
chế điều hành lãi suất.
Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn
định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong
từng thời kỳ. Đây là cơng cụ trực tiếp để kiểm sốt lãi suất kinh doanh của

NHTM. Đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp
vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị
trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng
biến động cung - cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân
tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước.
Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ
chênh lệch khoản 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) “Trần” là lãi suất tái cấp
vốn, “sàn” là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 7% - 5%/năm); lãi suất cơ bản và
lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi
suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trị định hướng và thực hiện việc “bơm”
tiền ra hoặc “hút” tiền về, từ đó tác động đến cung – cầu vốn, lãi suất thị trường
liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM.
Ngày 30/01/2008, thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu ký ban hành hai
quyết định số 305 và 306 điều chỉnh lãi suất cơ bản bằng VND, lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất chiết khấu. Theo đó lãi suất cơ bản VND tăng từ 8,25%/năm lên
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

15


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

8,75%/năm áp dụng từ ngày 01/12/2008. Mục đích của việc tăng mức lãi suất là
nhằm tiến tới thiết lập mối quan hệ hợp lý lãi suất điều hành của nhà nước với lãi
suất thị trường, nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ lãi suất, phù hợp
với chỉ đạo của Chính phủ về điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2008. Như
vậy là sau 2 năm được giữ ổn định (từ tháng 12/2005), lãi suất cơ bản VND đã
tăng trở lại. Từ tháng 5 – 9/2008, NHNN điều hành chính sách tiền tệ “thắt

chặt”, các mức lãi suất chủ đạo được điều chỉnh tăng. Lãi suất cơ bản tăng từ
12%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi
suất tái chiết khấu tăng từ 11%/năm lên 13%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường
mở từ 11,7%/năm lên 15%/năm. Từ tháng 10/2008 đến nay, NHNN chuyển
hướng điều chỉnh lãi suất tiền tệ từ “thắt chặt” để chống lạm phát sang “nới
lỏng” nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế điều chỉnh giảm
mạnh lãi suất cơ bản từ 14% - 13% - 11% - 8,5% - 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn
từ 15% - 13% - 12% - 9,5% - 8% - 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 13% - 11%
- 12% - 10% - 7,5% - 6%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 15% - 14,3%
- 13,5% - 11% - 9% - 8% - 7,5% - 7%/năm.
2.3 Tác động của chính sách lãi suất đến hệ thống Ngân hàng thương mại
Chính sách lãi suất là một trong những cơng cụ chính của chính sách tiền
tệ. Tuỳ thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước áp
dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp, nhằm ổn định và phát triển thị trường
tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu
quả các nguồn vốn trong nền kinh tế.
Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân
hàng Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ
tăng tổng phương tiện thanh tốn và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các
mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện
các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi khơng kỳ hạn và
có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi khơng kỳ hạn
và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

16


Đề án chuyên ngành


GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng
dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ
đồng.
Các ngân hàng thương mại đối mặt với khó khăn thiếu hụt nguồn cung
tiền đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu hụt
tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các
ngân hàng trong vịng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các
ngân hàng đến chỗ đua nhau tăng lãi suất huy động.
Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy
động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn
chế cuộc đua này. Đến ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thơng báo những
điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số
16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi
suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150%
của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ;
quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện
cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng
VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất
cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN
ngày 26/02/2008 cũng không cịn hiệu lực.
Qua đó, đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả
năng thanh toán của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm
2008; an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà
đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được
tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng

thương mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mơ ổn

SVTH: Trương Thị Thúy Bình

17


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

định và hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán,
làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định.
Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất
huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu
vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân
hàng Nhà nước , đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và
những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh tốn và tín dụng
phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là
động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã
và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ,
được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và có
phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng.
Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động
tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế
vĩ mô.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân

hàng Nhà nước và Bộ luật Dân sự. Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là
công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của Ngân hàng thương
mại, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín
dụng có độ rủi ro cao, nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường.
Xử lý vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư
số 01/2009/TT-NHNN hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của các Ngân hàng
thương mại đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông
qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống

SVTH: Trương Thị Thúy Bình

18


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro. Thơng tư có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/02/2009.
Thông tư được ban hành nhằm thực hiện Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP
ngày 11 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm
ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội
và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 627/VPCP-KTTH ngày 23
tháng 01 năm 2009 của Văn phịng Chính phủ về áp dụng lãi suất cho vay thoả
thuận của các tổ chức tín dụng.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới, việc Ngân
hàng Nhà nước tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một giải pháp
thích hợp, phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung - cầu vốn thị trường.
Việc điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định, được thực hiện kết hợp giữa

điều tiết khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp, điều hành linh hoạt các
mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông.
Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ sở
đánh giá một cách khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài
chính - tiền tệ ở trong và ngồi nước, cũng như các rủi ro có thể xảy ra và các
biện pháp xử lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mơ, sự an tồn và phát triển của
hệ thống tài chính.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất cơ bản, vừa là công cụ điều tiết thị
trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp
điều hành chính sách tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ, đã
và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ,
được các doanh nghiệp, người dân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các
NHTM quan tâm theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về
hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng,
thể hiện được vai trị và những tác động tích cực của chính sách tiền tệ đối với
việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mơ.

SVTH: Trương Thị Thúy Bình

19


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối
với lãi suất kinh doanh của các NHTM, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm và
đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi
nhuận trên thị trường. Xử lý vấn đề này, NHNN đã ban hành cơ chế lãi suất cho

vay thỏa thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống và phát hành thẻ tín
dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm
hạn chế rủi ro.
2.3.3 Kết quả hoạt động của các Ngân hàng
Năm 2009, nhờ các chính sách kích cầu của Chính phủ, sự điều hành tỉnh
táo và thận trọng của NHNN Việt Nam cộng với những nỗ lực tự thân của các
ngân hàng cũng như các doanh nghiệp nên từ quý II/2009, sự khó khăn đã được
giảm đáng kể và hệ thống ngân hàng đã trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồn
cầu một cách khá êm đẹp. Mặc dù lãi suất cơ bản năm 2009 không biến động
nhiều như năm 2008 nhưng lại được giữ khá lâu ở mức 7% khiến cho hoạt động
ngân hàng có nhiều lúc trở nên khó khăn khi lãi suất cho vay bị khống chế ở mức
trần 10,5% cịn lãi suất huy động thì đã lên tới 9,99%, nhưng hệ thống ngân hàng
vẫn cố gắng phát huy tốt nhất vai trị của mình là kênh truyền dẫn vốn cho nền
kinh tế, đặc biệt là dòng vốn hỗ trợ lãi suất của Chính phủ. Nhiều ngân hàng đã
thận trọng hơn với các khoản cho vay, tìm mọi cách giảm rủi ro trong quá trình
cho vay; đề phòng và miễn dịch với các dự án đầu tư hay cho vay mà ở đó các
khoản nợ xấu, khó đòi là cao; tập trung vào các khoản mục sinh lợi tốt, khả năng
hồn vốn cao và có sự phát triển trong tương lai. Đồng thời, chủ động chuyển
hướng sang các dịch vụ ngân hàng bán lẻ và dịch vụ phi tín dụng. Vì vậy, có
khơng ít ngân hàng thuộc nhóm các ngân hàng lớn trong khối cổ phần đã có tỷ
trọng nguồn thu phi tín dụng khá cao. Tỷ trọng đó tại ACB hay Techcombank
hiện ở khoảng 50%, tại Sacombank khoảng 40%. Cũng nhờ thế, đến giữa năm
2009, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã dần đi vào hoạt động ổn định.
Tính chung cả hệ thống, tăng trưởng tín dụng đến hết tháng 11/2009 là
khoảng 34% trong khi năm 2008, con số này chỉ ở mức 21% đến 22%. Tuy con
số này được đánh giá là quá nóng nhưng nếu nhìn từ khía cạnh tích cực, có thể
thấy rằng đây là một dấu hiệu của sự phục hồi kinh tế. Tổng dư nợ tín dụng tăng
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

20



Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

lên cũng có nghĩa là nhu cầu vốn của nền kinh tế vẫn cịn và cũng có nghĩa là các
doanh nghiệp vẫn cịn “sống” và đang trong q trình “hồi phục” - một dấu hiệu
rất đáng mừng cho thấy nền kinh tế đã qua giai đoạn khủng hoảng. Hơn nữa,
không thể phủ nhận nỗ lực của hệ thống ngân hàng khi nợ xấu toàn hệ thống
hiện đã giảm đáng kể so với thời điểm cuối năm 2008, đầu năm 2009. Tất nhiên,
một phần khơng nhỏ là nhờ gói hỗ trợ lãi suất kích cầu, giúp doanh nghiệp vượt
qua khó khăn, tiếp tục kế hoạch kinh doanh để thu hồi vốn trả nợ vay ngân hàng
nhưng một phần nữa chính là những nỗ lực của bản thân các ngân hàng. Hiện tỷ
lệ nợ xấu của Vietcombank là 3% (con số này thời điểm đầu năm là gần 4%),
của Eximbank chỉ còn trên 2% so với mức 4,71% cuối năm 2008 và 6% thời
điểm đầu năm 2009. Các ngân hàng khác như ACB, Sacombank cũng có tỷ lệ nợ
xấu ở mức rất thấp (đều dưới 1%). Theo đánh giá của ông Lê Xuân Nghĩa, Phó
Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, “với tỷ lệ nợ xấu tồn hệ thống
khoảng 2,46%, khơng có vấn đề gì đáng lo ngại về sức khoẻ của hệ thống ngân
hàng”. Thực tế cho thấy, cho đến hết tháng 11/2009 vừa qua, khơng ít ngân hàng
đã có những kết quả kinh doanh hết sức khả quan. Trong số các NHTM cổ phần,
có nhiều ngân hàng đã có lợi nhuận dự kiến vượt 2.000 tỷ đồng như
Vietcombank, VietinBank, ACB và Techcombank; nhóm các ngân hàng có lợi
nhuận trên 1.000 tỷ đồng gồm: Sacombank, Eximbank, Ngân hàng Quân đội;
nhóm các ngân hàng có lợi nhuận dưới 1.000 tỷ đồng gồm: Ngân hàng Hàng
Hải, Ngân hàng cổ phần Sài Gòn, Ngân hàng Quốc tế, Ngân hàng Đông Á, Ngân
hàng Liên Việt... Tất nhiên, những khó khăn của năm 2008 cũng khiến các ngân
hàng dè chừng hơn trong việc đưa ra các mục tiêu cho năm 2009 nên thường họ
chỉ đưa ra mục tiêu vừa phải, và tập trung vào việc củng cố hoạt động để phát

triển vững chắc hơn. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của năm 2009
dự kiến đạt 19%, tăng so với năm 2007 là 17,8% và vượt xa con số 11,9% năm
2008.
Điều quan trọng là các NHTM Việt Nam cũng như cơ quan quản lý là
NHNN đều đã ý thức được sự cần thiết phải thực hiện những dự phịng tài chính
cho các khoản tín dụng đang tồn đọng và có nguy cơ khó địi, những dự phịng
quan trọng nhằm kiểm sốt và ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tín dụng. Hệ
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

21


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

thống đang hành động hướng đến mục tiêu an toàn hơn và lành mạnh hơn, với sự
tăng cường giám sát rủi ro từ phía các cơ quan quản lý vĩ mơ và một sự tự
nguyện dành ưu tiên cho các mục tiêu an tồn từ phía các ngân hàng. Khi các
ơng chủ ngân hàng hành động đúng đắn, đó là một tín hiệu lạc quan giúp phục
hồi và phát triển niềm tin, sự tín nhiệm của cơng chúng, các doanh nghiệp và các
nhà đầu tư trong và ngoài nước vào hệ thống ngân hàng.

Phần III: NHỮNG VẤN ĐỀ GẶP PHẢI VÀ MỘT
VÀI ĐỀ XUẤT CHO THỜI GIAN TỚI
3.1. Những vấn đề gặp phải
Đối với các nền kinh tế thị trường chưa phát triển như VN, nhiều quan hệ
kinh tế chưa thực sự mang tính thị trường thì việc vận dụng các nền tảng lý
thuyết (điển hình như quy tắc Taylor - giúp cho một NHTW xác định được các
tỷ lệ lãi suất trong ngắn hạn khi các điều kiện kinh tế thay đổi để đạt được hai

mục tiêu là ổn định kinh tế trong ngắn hạn và kiểm soát lạm phát trong dài hạn),
để hoạch định chính sách lãi suất cần có sự linh hoạt, bám sát mục tiêu định
hướng phát triển kinh tế xã hội cũng như các diễn biến thực tế của thị trường.
Trong điều kiện như hiện nay, để đạt được mục tiêu định hướng nêu trên, hoạch
định chính lãi suất của NHNN cần phải xem xét đến các yếu tố thực tế.
Thực trạng của nền kinh tế VN hiện nay đang phải đối mặt với áp lực lạm
phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc. Dù tăng trưởng kinh tế
quý 1/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quý 1/2009, vốn đầu tư
toàn xã hội tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý I/2009, song

SVTH: Trương Thị Thúy Bình

22


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập khẩu đạt 17,5
tỷ USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm sốt nhưng
đang có xu hướng tăng trở lại.
Cho đến thời điểm hiện nay có thể thấy hệ thống Ngân hàng VN đã có sự
phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng các công nghệ
ngân hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh
tranh của các thành viên trên thị trường tài chính khơng đồng đều, tính bền vững
trong phát triển chưa cao. Xét trong hệ thống các TCTD với 73 ngân hàng và 8
tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ có một số ít NHTM có vốn điều lệ và tài sản
lớn. Riêng khối NHTM nhà nước (2 NHTM NN, 3 NHTM mà trong đó Nhà
nước chiếm cổ phần chi phối, 1 ngân hàng chính sách xã hội) vốn điều lệ đã

chiếm 27,28% tổng vốn điều lệ của cả khối, thị phần huy động vốn và cung ứng
tín dụng khoảng 60%. Mức chênh lệch trong chiếm lĩnh thị phần của một ngân
hàng lớn nhất với một ngân hàng lớn kế tiếp là tương đối lớn. Mức độ lớn về vốn
điều lệ và tài sản quyết định khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Đối với những ngân hàng có vốn nhỏ vẫn có sức mạnh trong cạnh tranh
thị trường, song với một cấu trúc thị trường tồn tại nhiều NHTM có vốn và thị
phần thấp thường nảy sinh những hành vi hạn chế cạnh tranh hay cạnh tranh
không lành mạnh. Mặt khác, với nhóm ngân hàng lớn, thơng qua vị thế mạnh của
mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này
có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và
chính sách lãi suất nói riêng.
Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm
2008, và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu
hiện rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi NHNN thực hiện cơ
chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất
cho vay rất cao, khoảng 18%. Mức lãi suất này đã hạn chế khả năng mở rộng tín
dụng của các NHTM (mức tăng trưởng tín dụng quý 1 chỉ đạt 3,34%). Trong q
1/2010, tăng trưởng tín dụng khơng cao, nguồn vốn vay của các NHTM từ
NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng, điều đó cho thấy vốn của các NHTM
không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN đã khuyến cáo
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

23


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng là 10,5% và

lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một mức lãi suất thực
hợp lý cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM là vẫn đua nhau tăng
mức lãi suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những hiện tượng này biểu
hiện sự bất cập lớn của thị trường, nếu khơng có hững biện pháp ngăn chặn sẽ
gây ra những bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng
ngân hàng.
Trong cấu trúc thị trường hiện nay, cịn có một đặc điểm ảnh hưởng khơng
nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức
lãi suất chính sách là khơng nhỏ. Dư nợ tín dụng của ngân hàng chính sách xã
hội và ngân hàng phát triển chiếm khoảng 12,1% tổng dư nợ trong nền kinh tế...
Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì
chúng ta cũng có khơng ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất
ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã
hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác
nữa... Các chính sách ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh
tế hiện nay, nhưng ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự
do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng
cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.

 Cân nhắc lợi ích
Thực tế cho thấy các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy
đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn”- là đặc điểm nổi bật của thị trường tài
chính của VN hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát
trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mơ nào, tạo tín hiệu áp lực lạm
phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là
trụ cột.
Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh
doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường quan tâm đến mức lãi suất thực mà
mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của VN hiện tại, mức lãi
suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình

trong 3 tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

24


Đề án chuyên ngành

GVHD: ThS Bùi Thị Thu Ngân

mãi khác. Tuy nhiên lãi suất thực đang có xu hướng giảm bắt đầu từ tháng 2 do
ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo
đuổi mục tiêu lãi suất thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ được tăng dần. Như
vậy có nghĩa là các NHTM vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu
hút vốn nếu như NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động vào thời điểm này. Hơn
nữa, với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ
vọng về lạm phát.
Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì
hiện nay các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực
tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo
kết quả ước lượng mơ hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng
kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý 1/2000 đến tháng 3/2010 với
mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm
tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Điều này là hoàn toàn phù hợp
với lý thuyết về mối quan hệ ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng
trong nền kinh tế. Tuy nhiên ngồi lãi suất thực cịn nhiều yếu tố khác tác động
lên tăng trưởng kinh tế. Vì vậy mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải
thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế.

 Hướng tới tự do hóa lãi suất

Là một nền kinh tế USD hóa, lãi suất nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ
với lãi suất ngoại tệ cộng (+) với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự
nắm giữ giữa nội tệ và ngoại tệ của các thành viên trong thị trường. Điều này sẽ
gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất
tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề
tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN
cùng hàng loạt chính sách khác (như u cầu các Tổng cơng ty lớn bán ngoại tệ
cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ,
quy định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp...) đã phải hướng
tới sự ổn định này.
3.2. Một số đề xuất
SVTH: Trương Thị Thúy Bình

25


×