Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tìm hiểu phong tục tập quán cưới xin của đồng bào dân tộc Tày - huyện Na Hang -Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.79 KB, 36 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam - quốc gia đa dân tộc với 54 anh em sinh sống rải rác từ Bắc
vào Nam, tõ mũi Cà Mau đến đỉnh đầu Lòng Có. Các dân tộc sống gắn bó, đoàn
kết với nhau trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Tuy cùng
chung mét mục đích là bảo vệ và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh
nhưng mỗi dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển, trải qua các giai
đoạn lịch sử đã nảy nở và sáng tạo cho mình những yếu tố tập tục văn hoá mang
tính truyền thống và có giá trị sâu sắc. Những yếu tố truyền thống đó là những
sắc thái văn hóa riêng của từng dân tộc góp phần tạo nên nền văn hóa
Việt Nam rất đa dạng và phong phó.
Dân tộc Tày ở Việt Nam là mét trong những dân tộc chính, chiếm số dân
cao. Tuy nhiên, do chịu sự tác động nhiều mặt của nền kinh tế thị trường, nhiều
nét bản sắc văn hoá của người Tày cũng đã bị mai một lãng quên hoặc bị đơn
giản hoá. Do vậy, để giữ gìn và phát huy những bản sắc văn hoá đó trước tiên ta
cần phải tìm hiểu và nhận thức đúng đắn về chóng.
Cưới xin còng là một nét đẹp văn hóa. Hôn nhân của người Tày nói
chung và người Tày ở huyện Na Hang - Tuyên Quang nói riêng theo kiểu đối
ngẫu 1 vợ 1 chồng. Việc cưới xin là mét trong những việc hệ trọng nhất trong
cuộc đời gồm cưới vợ, làm nhà và báo hiếu tứ thân phụ mẫu. Với gia đình là
trách nhiệm đối với con cái, với cộng đồng xã hội là duy trì nòi giống, phong
tục mang bản sắc riêng của dân tộc.
Trong quá trình học tập tại trường Đại học Văn hóa. Với kiến thức được
các thầy cô truyền thụ, dưới sự hướng dẫn của Tiến Sĩ Nguyễn Văn Cương, bên
cạnh những tài liệu hiện có. Người viết xin được mạnh dạn chọn đề tài: " Tìm
hiểu phong tục tập quán cưới xin của đồng bào dân tộc Tày - huyện Na Hang -
Tuyên Quang".

2. Phạm vi nghiên cứu:


- Trên địa bàn huyện Na Hang - Tuyên Quang. Đã được so sánh với
những tập tục của đồng bào Cao Lan - Huyện Na Hang - Tỉnh Tuyên Quang.
3. Mục đích nghiên cứu:
- Thông qua việc khảo sát tập quán cưới xin của người Tày Na Hang -
Tuyên Quang, đề tài sẽ giúp người đọc có được một cái nhìn tổng quát, có hệ
thống và sâu sắc hơn về các giá trị văn hoá trong tập tục cưới xin của người Tày
nói chung và người Tày ở Na Hang nói riêng. Không những thế đề tài còn nêu
lên những bất cập, nhưng phong tục lạc hậu cần bài trừ để làm trong sáng hơn
một tục lệ đã trở thành một nét đẹp văn hóa của đồng bào Tày Na Hang - Tuyên
Quang.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp.
- Khảo sát, điều tra dân tộc.
- Phỏng vấn trực tiếp các nhân chứng tại địa bàn nghiên cứu.
- Tổng hợp và hệ thống các tài liệu có trước.
5. Cấu trúc đề tài:
- Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 chương:
+ Chương I: Khái quát về đặc điểm tự nhiên và xã hội ở huyện Na Hang
- Tuyên Quang.
+ Chương II: Đặc điểm trong tập quán cưới xin của người Tày ở huyện
Na Hang - Tuyên Quang.
+ Chương III: Những biến đổi trong tập quán cưới xin của Tày ở huyện
Na Hang - Tuyên Quang.
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
HUYỆN NA HANG - TUYÊN QUANG.

1.1. Vị trí địa lý:
Tỉnh Tuyên Quang là địa bàn cư trú của 22 dân tộc anh em. Tõ buổi sơ
khai của lịch sử nơi đây đó có người nguyên thủy sinh sống. Đất lành chim


đậu, mảnh đất này đã thu hút các dòng người tõ bốn phương tìm về tụ lại,
nhất là những lúc các quốc gia láng giềng có biến cố xảy ra. Na Hang là một
huyện miền núi vùng cao, nằm về phía Bắc của Tỉnh Tuyên Quang. Phía Đông
giáp với huyện Ba Bể tỉnh Bắc Cạn, phía bắc giáp với huyện Bảo Lạc - tỉnh Cao
Bằng và huyện Bắc Mê - Tỉnh Hà Giang. Phía Tây giáp với huyện Vị Xuyên -
tỉnh Hà Giang. Phía Nam giáp huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang.
1.2. Dân số và diện tích đất tự nhiên, nơi cư trú:
Với dân số 66. 561 người trên diện tích đất tự nhiên là 147,166ha. Mật độ
dân số trung bình 2211 người/ km
2
. Na Hang là nơi hội tụ của 5 dân tộc anh em
trong đó dân tộc Tày chiếm 80%. Nguồn thu nhập chính là sản xuất lúa nước. ở
Na Hang, dân sống tập trung ở vùng bằng phẳng để tiện cho việc trồng lúa nước
như liên thôn, liên bản, liên xã.
1.3. Văn hóa, xã hội:
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của TW về xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Các hoạt
động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng ngày càng phát triển.
100% xã, thị trấn có đội văn nghệ, duy trì thường xuyên 371 tổ đội văn nghệ
quần chúng, 285 đội thể thao ở thôn bản, cơ quan, trường học. Quy ước, hương
ước thôn bản được thực hiện có hiệu quả. Phong trào toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa được đông đảo nhân dân tham gia. Đã có 62, 8%gia đình
đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. 64% thôn bản đạt tiêu chuẩn thôn bản văn hoá.
Duy trì thường xuyên hoạt động của nhà văn hóa, thể thao côm xã. 182 nhà văn
hóa thôn bản phục vụ hội họp và sinh hoạt văn hoá của nhân dân. Duy trì
thường xuyên hoạt động của đội thông tin lưu động, đội chiếu bóng lưu động
phục vụ các thôn bản vùng sâu vùng xa.
Xuất phát từ vị trí địa lý, thành phần dân tộc, bố trí dân cư, cấu tróc sinh
hoạt gia đình có thể nói huyện Na Hang là một huyện thuộc tỉnh Tuyên Quang
có phân đông dân là người Tày cư trú. Từ những đặc điểm trên người


Tày ở huyện Na Hang và người Tày tỉnh bạn đã có mối quan hệ dân tộc,
thân tộc
Văn hóa dân tộc Tày ở huyện Na Hang trong đó có văn hóa phong tục hỏi
và cưới xin. Về đặc điểm việc hỏi và cưới xin của người Tày huyện Na Hang là
phải nói đến vai trò của quan làng.
Những năm gần đây dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Về việc
sử dụng các bài hát nói, xu, lượn, cọi đã được cải biên ngắn gọn súc tích, cắt
bỏ các thủ tục, tục lệ rườm rà không cần thiết được các cấp uỷ, chính quyền và
ngành văn hóa khai thác, bảo tồn các giá trị văn hoá ở địa phương, ý nghĩa của
hát quan làng trong đám cưới là mét nhu cầu văn hóa lành mạnh không thể thiếu
được.
CHƯƠNG II: TẬP QUÁN CƯỚI XIN CỦA NGƯỜI TÀY HUYỆN
NA HANG - TỈNH TUYÊN QUANG.

Hôn nhân là sự kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà
được hợp thức hoá bởi đó nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của vợ chồng
trong quan hệ với nhau và với con cái của họ. Như vậy, hôn nhân là một hiện
tượng xã hội, ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, có những hình thức và tính
chất hôn nhân phù hợp, theo Ănghen có 3 loại hình thức hôn nhân chính của
nhân loại, ở thời đại mông muội có chế độ tạp hôn, ở thời đại văn minh có chế
độ một vợ hoặc một chồng.
Trong cưới xin của người Tày ở đời đều phải tuân thủ theo những nguyên
tắc nhất định phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Hiện nay cưới
xin hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện bình đẳng.
Dưới đây là những đặc trưng cơ bản trong tập quán cưới xin cổ truyền
của người Tày ở huyện Na Hang - Tuyên Quang.
2.1. Quan niệm về cưới xin:


Bất cứ một dân tộc nào cũng xem vấn đề dựng vợ gả chồng là một việc
hệ trọng của cả cuộc đời con người. Người Tày quan niệm con người sống ở đời
có 3 việc lớn: việc làm nhà, việc cưới và báo hiếu cha mẹ, cho nên việc lập gia
đình cho con cái được người Tày rất chú ý quan tâm và tổ chức rất chu đáo, vì
họ coi đó là cơ sở đầu tiên làm nên mét gia đình, làm nên một tế bào xã hội và
làm chiếc cầu nối giữa con người với xã hội. Ngoài ra người Tày quan niệm
cưới xin là mét sự việc hết sức quan trọng trong đời sống của mỗi gia đình. Do
việc kén chọn con dâu, con rể phải do bố mẹ quyết định. Các bậc bố mẹ cưới vợ
cho con nhằm mục đích chủ yếu là để có người nối dõi tông đường và có thêm
nhân lực lao động cho gia đình.
2.2. Mét sè quy tắc cơ bản trong cưới xin.
Người Tày ở Na Hang tục cưới xin mét vợ một chồng theo qui tắc ngoại
hôn dòng họ đã được thiết lập từ lâu. Theo qui tắc này những người trong cùng
một dòng họ tuyệt đối không được lấy, không được quan hệ tính giao với nhau.
Người Tày ở đây có các họ: Hoàng, Nông, Phạm để tránh vi phạm qui tắc
ngoại hôn dòng họ, khi con cái lớn lên, bố mẹ và họ dậy bảo rất kỹ về qui tắc
này, chỉ bảo cho con cái biết ai có thể kết hôn được. Người Tày ở Na Hang quan
niệm. Đã cùng họ là anh em mà anh em trong họ lấy nhau là sẽ phạm tội loạn
luân trường hợp con gái đi lấy chồng thì phải sau 5 đời các con cháu của họ mới
được phép kết hôn.
Gia đình người Tày mang tính chất phụ quyền rất rõ được thể hiện quan
hệ giữa các thành viên như vợ phải nghe theo chồng, giữa cô dâu và các bậc
trên có sự phân biệt nghiêm như: không được ăn cùng mâm ngồi cùng chiếu với
bè, anh chồng, không được tới chỗ ngủ và nơi dành riêng cho bè, chó, anh
chồng. Đó là biểu hiện của lễ giáo phong kiến.
2.3. Tiêu chí chọn vợ, chọn chồng.
Các bậc cha mẹ chọn con dâu, con rể cần phải có những tiêu chuẩn sau
đây:

Tiêu chuẩn người vợ lý tưởng trong xã hội Tày xưa phải là người khoẻ

mạnh, chịu khó chăm chỉ làm ăn, nói năng nhẹ nhàng biết thành thạo các công
việc nội trợ và đối xử lễ phép với bố mẹ, anh em họ hàng làng xóm và cha mẹ.
Người con gái phải là người phúc hậu, sinh được nhiều con. Đặc biệt phải dệt
vải, kéo sợi, tù may quần áo. Người Tày có câu tục ngữ " Chôm lua chôm bươn
láp" (nghĩa là tìm hiểu con gái vào tháng chạp). Vào thời gian này thời tiết giá
lạnh các cô gái thường mặc nhiều quần áo, qua đó dễ nhận biết người con gái
chăm chỉ hay không, có tài thêu dệt và khéo may vá hay không, cơ ngợi đức
tính cần cù của người phụ nữ trong gia đình.
Người chồng lý tưởng là người khoẻ mạnh, cần cù, chịu khó làm ănm,
biết thương vợ con. Biết đối xử tốt với họ hàng, bố mẹ, anh chị em nhà vợ. Do
tính chất gia đình người Tày là phụ hệ nên vai trò của người đàn ông trong gia
đình rất lớn. Do đó người phụ nữ cũng lựa chọn rất kỹ người đàn ông của mình,
đó cũng phải là người mà họ yêu thương và kính trọng thì mới có thể chung
sống hạnh phúc được.

2.4. Tục lệ trước khi cưới.
Việc cưới xin là việc rất quan trọng trong đời sống của đồng bào Tày. Vì
vậy nên việc kén chọn cô dâu, chú rể cũng như việc chọn ngày, giờ làm lễ cưới
xin được lựa chọn xem xét rất kỹ càng. Đồng bào Tày cho rằng ngày cưới là
ngày hệ trọng nhất, là bước ngoặt trong cuộc đời của mỗi con người. Do đó
những người làm bố làm mẹ phải có trách nhiệm tổ chức ngày cưới cho con thật
chu đáo. Nhưng để tiến tới lễ cưới chính thức phải tiến hành những bước quan
trọng tạo thành một hệ thống lễ nghi khá phong phó. Nhà trai muốn đón cô dâu
phải trải qua các bước sau:
2.4.1. Lễ dạm ngõ (Pay xắm):
Theo tục lệ, đây là một việc làm bình thường của 2 gia đình có quan hệ
quen biết nhau tõ trước. Việc gả con là việc 2 gia đình tự thoả thuận và đồng

ý ngầm với nhau. Có thể 2 đứa trẻ chưa có hoặc tự nhận biết về tình yêu
với nhau.

Việc đi hỏi vợ cho con là việc chủ động của gia đình nhà có con trai (khi
hai gia đình đã có ý cho 2 đứa trẻ). Thông thường đi hỏi thời gian kết hôn
khoảng cách thường là 3 năm.
Lễ vật đi hỏi gồm: 2lít rượu, 2 con gà sống thiến, 2 kg gạo tẻ hoặc nếp.
Người đi hỏi là đại diện của họ nhà trai (trưởng họ hoặc anh trai hoặc con trai
của chủ hé gia đình).
Các loại lễ vật phải đưa sang nhà gái trong thời gian 3 năm theo quy ước
(không được thiếu năm nào).
+ Lễ rằm tháng 7: gồm bánh gai, bánh chuối, các loại bánh đều được tính
bằng 12 cặp (tượng trưng cho 12 tháng trong năm).
+ Lễ cơm mới + cốm: đơn vị tính = 12 ống = 12kg
+ Lễ tết nguyên đán (tết âm lịch) = bánh chưng tính bằng 12 cặp = 24
chiếc.
Việc đưa quà, lễ vật do người nhà trai đưa không phải có đại diện của
dòng họ. Mỗi một lần đưa lễ đề có rượu và gà sống (1 lít rượu + 1 con gà sống
thiến).
2.4.2. Lễ đối chiếu tuổi, ngày tháng sinh (lễ kháp thư minh):
Sau khoảng thời gian 1 năm nhằm xác định quan hệ sâu sắc để tiến tới
hôn nhân. Có thể không hợp nhau để cắt đứt quan hệ hoặc nếu hợp nhau có thể
đi tiếp đến hôn nhân. Nhà trai chủ động tổ chức buổi đối chiếu về tuổi, ngày
tháng sinh (theo sổ sách tử vi).
Lễ vật gồm: 1 bữa ăn nhậu (do nhà trai chủ trì) có các thành phần đại diện
họ nhà trai, nhà gái và ông thầy cúng có trình độ nho học hiểu biết sách tử vi, để
kết luận xem đôi trai gái có hợp tuổi nhau để trở thành vợ chồng hay là cắt đứt
quan hệ.
2.4.3. Lễ thách cưới (lễ kê khai).

Sau khi đối chiếu ngày, tháng, năm sinh thấy hợp nhau và xây dựng quan
hệ vợ chồng của hai đứa trẻ. Nhà trai chủ động đặt vấn đề với nhà gái việc tổ
chức lễ cưới, nhà gái đưa ra ý kiến lấy bao nhiêu đồ vật, lễ này được quy

định nh sau (nhà trai phải đáp ứng).
+ G¹o = ?kg
+ThÞt lîn h¬i = ?kg
+ Khoản tiền mặt: Tiền công cha mẹ sinh thành = ?
Tiền mua sắm đồ cưới cô dâu = ?
Tiền lễ vật cúng tổ tiên = ?
Tiền chi phí khác = ?
* Lễ thách cưới này do nhà trai đề xuất và chủ trì tại nhà gái (đại diện là
trưởng họ nhà trai), các thoả thuận bằng văn tự theo quy ước, có sự thảo luận
của hai bên nhà trai và nhà gái bằng hình thức công khai.
2. 4. 4 Lễ cưới nhỏ (lễ sông nhà chồng).
Lễ cưới nhỏ (lễ đưa con gái về sông nhà chồng) để có con dâu tương lai
được bước vào nhà chồng một cách chính thức là có quan hệ đi lại khi có công
việc cần thiết.
Lễ vật tổ chức đám cưới nhá:
+ Gà sống thiến = 12con
+ Rượu = 12lit
+ Lợn 1 con = 20kg
Chi phí bằng một nửa đám cưới chính thức (đám cưới lớn).
Thành tiền: Không mời khách ngoài 2 bên gia đình họ hàng nhà trai và
nhà gái (có nghĩa là đám cưới nhỏ về quy mô không bằng đám cưới lớn nhưng
nội dung có đầy đủ như đám cưới chính thức).
Việc đón dâu: - Có đại diện nhà trai (quan làng) người thay mặt họ hàng
nhà trai đến để đón dâu.
- Nhà gái có đại diện đưa dâu.

Hình thức: Nhà gái đưa dâu được xông nhà trai sau đó đón cô dâu trở về
nhà gái (không cho cô dâu nghỉ tại nhà trai qua đêm).
Việc cưới nhỏ chủ yếu đưa cô dâu đến xông nhà chú rể để có lý do qua lại
gia đình nhà chồng một cách hợp pháp (lúc này chưa có đăng ký bằng pháp

luật).
Phạm vi của đám cưới: Không mời rộng rãi chủ yếu trong nội tộc hai gia
đình nhà trai và nhà gái cũng có tổ chức đưa dâu và đón dâu.
2.4.5. Lễ báo ngày cưới (hẹn cằm).
Sau 3 năm chờ ngày cưới, nhà trai xem được ngày lành tháng tốt, cử ông
mối đi sang bên nhà gái để hẹn ngày cưới. Trong buổi lễ này hai bên bàn bạc và
quyết định số lượng lễ vật dẫn cưới, đi sâu vào từng khoản cụ thể như bao nhiêu
tiền mặt, bao nhiêu lợn, gà, bao nhiêu gạo, rượu
Lễ báo ngày cưới phải tiến hành trước ngày cưới tõ 1 - 3 tháng để nhà gái
và nhà trai đủ thời gian chuẩn bị. Nhà trai chuẩn bị lễ vật, tiền bạc và thông báo
cho phường họ bạn bè của mình cắt cử công việc và mặt khác để hai nhà có đủ
thời gian mời bạn bè, họ hàng về dự lễ cưới.
Trong buổi lễ này, lễ vật mang theo gồm: 1 đôi gà thiến, 2 chai rượu.
2.5. Tục lệ khi cưới.
Ngày cưới nhà trai, nhà gái cùng tổ chức tưng bừng tấp nập người ra vào,
nói cười vui vẻ.
" Trăm năm mới có 1 ngày".
Đây là ngày lễ trọng đại của cả hai họ, cho nên lễ cưới càng đông vui bao
nhiêu thì người ta lại càng thấy vinh dự bấy nhiêu. Nếu như tổ chức lễ cưới mà
không được đông vui thì sẽ bị người làng khinh rẻ. Bởi vậy dự bất kỳ đám cưới
nào của người Tày ta còng thấy tập tục trên. Hai nhà trai gái đều có cỗ bàn ăn
uống linh đình trong hai ngày, nhà trai phải có 2 - 3 con lợn to béo để mổ, nếu
khách mời đến đông thì phải mổ thêm đồng thời phải dẫn lễ vật sang nhà gái
(vào buổi sáng hôm trước ngày cưới).

Đối với việc tiếp khách tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ với thân chủ, các
vị khách mời dự lễ cưới đều có lễ vật mừng hoặc bằng tiền, nhà chủ cử một
người thân giữ sổ ghi chép lễ mừng của khách để nhà chủ sau này nhớ mà đi trả.
Đúng ngày giờ đã ước định đoàn chú rể bắt đầu ra cửa đón dâu, đoàn chú
rể có:

+ Ông quan làng.
+ Bà đón (gia lặp)
+ chú rể (khươi chính)
+ Phù rể (khươi xếp)
+ Cô đón 2 người (a lặp).
Mọi người trong đoàn đều ăn mặc chỉnh tề, quần áo mới, đặc biệt chú rể
cái gì cũng mới, nhất là quần áo, giầy, mũ, ô.
Khi đoàn chú rể lên đường, vị trí trưởng họ có uy tín cầm đưa chú rể một
cái ô đã mở sẵn và chúc đoàn đi đường gặp mọi sự may mắn tốt lành đi đến nơi
về đến chèn.
Cái ô đã mở đưa ra cho chú rể đấy vì ngày xưa chú rể đi đón dâu phải đội
ô.
Quan làng là người thay mặt nhà trai có đủ thẩm quyền và khả năng giải
quyết mọi việc và mọi lễ nghi khi dẫn đoàn chú rể sang nhà gái, quan làng cũng
có thể lấy người đã làm mối. Quan làng và bà đón được chọn trong họ họ hàng
người thân họ nhà trai, đứng tuổi có uy tín đức độ, nói năng hoạt bát, lịch thiệp
có chồng có vợ song toàn và phải là người thuộc nhiều bài hát lượn coi mừng
đám cưới. Phù rể phải chọn người chưa có vợ, thông minh lanh lợi Các cô đón
dâu phải là người chưa chồng, hiền lành. Những người con trai, con gái này
phải thuộc nhiều dân ca, bài lượn mừng đám cưới.
Bà đón có nhiệm vụ là sang bên nhà gái mang những sính lễ mà hôm
trước đó chưa mang sang thứ hai là có nhiệm vụ dẫn đường cô dâu về nhà
chồng. Hai cô đón (a lặp) có nhiệm sang cùng chú rể, là để khiêng những lễ

vật mà nhà gái cho con dâu. Phù rể sang cùng chú rể, phù rể có nhiệm vụ
là giúp chú rể thực hiện những nghi lễ mà bên nhà gái quy định. Đoàn đưa cô
dâu sang nhà trai gồm có:
+ Ông đưa (tà xống)
+ Bà đưa (tài xống)
+ Cô dâu (lua chính)

+ Phù dâu (lua xếp)
+ Dì đưa (na xồng).
Ông đưa và bà đưa có trách nhiệm giao tiếp với nhà trai và hướng dẫn co
dâu làm nghi lễ cần thiết ở nhà trai, tiêu chí chọn ông đưa bà đưa cũng giống
bên nhà trai. Khi tiến hành các nghi lễ ở bên nhà gái cũng giống như bên nhà
trai, quan làng, ông đưa, bà đưa, bà đón hai bên đều thưa gửi bằng lời ca tiếng
hát thay cho những câu đối thoại thông thường giữa hai họ. Đây là tập quán,
người ta cho rằng thế mới là sang trọng.
Phù dâu có nhiệmvụ dẫn cô dâu sang bên nhà chồng, giúp cô dâu tiếp
khách bên nhà chồng, mà khách này là khách của chú rể, thứ hai nữa là giúp cô
dâu thực hiện những nghi lễ mà bên nhà chồng đưa ra, tiêu chí chọn phù dâu
phải là giỏi giang hoạt bát nhanh nhẹn là người chưa chồng, cũng phải là người
thuộc họ hàng, nhưng người thuộc là em thì mới lấy làm phù dâu.
Dì đưa sang bên nhà trai cùng cô dâu có nhiệm vụ sang hé giữ của cải của
cô dâu, khi cô dâu ra khái buồng hé chú rể tiếp khách, tiêu chí chọn dì đi đưa
cũng như chọn phù dâu.
Lại nói về nhân vật quan làng, đây là người đại diện cao nhất của họ nhà
trai, thay bố mẹ chú rể và họ nhà trai ứng xử mọi việc, mọi nghi lễ tại nhà gái.
Quan làng thường có 2 người, 1 chính 1 phô. Ông Hoàng Hột ở huyện Na Hang
cho biết, vùng này đồng bào thường chọn mét quan làng ông gọi là " Pú rặp",
mét quan làng bà gọi là " Gia rặp". Quan làng phải là người có phong thái ung
dung đĩnh đạc, biết hát và thuộc nhiều bài hát quan làng, giỏi ứng đối, thông
hiểu các tục lệ về đám cưới. Phù rể phải là người thanh niên nhanh

nhẹn, lễ phép, chưa có vợ, thường chọn trong số bạn thân của chú rể, họ
chỉ làm 1 lần, làm nhiều lần sẽ bị mất lộc và có thể bị Õ vợ. Người mang lễ vật
thường là các em gái, em trai. Lễ dẫn cưới gồm trầu, cau, thịt lợn hơi, gạo rượu,
gà sống thiến. Số lượng tuỳ theo lệ vùng và tuỳ vào hoàn cảnh của từng gia
đình, song phổ biến trong cộng đồng người Tày số lễ vật gồm 120 lá trầu, 60
quả cau, 60kg lợn hơi, 30 - 40 kg gạo nếp, 24 chiếc bánh dày, 60 chai rượu, 2

con gà sống thiến. Ngoài số lễ vật trên, còn có một tấm vải khô ướt chiều rộng
bằng một khổ vải, chiều dài chừng 8 - 10cm.
Bên nhà gái mời họ hàng đến dự và chứng kiến lễ cưới. Cử đoàn đại diện
đưa tiễn cô gái về nhà chồng. Đại diện nhà gái là pả mẻ, cũng như quan làng
của nhà trai, pả mẻ được toàn quyền thay mặt cho nhà gái. Người ta còng chọn
những người nhạn nhẹn hoạt bát, đức độ, giỏi ăn nói để thay mặt nhà gái trao
con gái cho nhà người. Có người đi theo phù dâu, người phù dâu phải là người
chưa chồng, họ chỉ phù dâu cho người bạn thân nhất. Phù dâu gọi là " lùa tôi".
Có một vài người đi cùng đi mang đồ dùng của cô dâu gồm quần áo, chăn màn,
gối " Pả mẻ" và " lùa tôi" cũng phải biết hát và thuộc nhiều bài quan làng đã hát
đáp khi đoàn nhà gái đến nhà trai và thực hiện các nghi lễ.
* Trình tự các tục, nghi lễ và hát quan làng trong đám cưới của người
Tày.
Hát quan làng trong đám cưới người Tày mang bản sắc rất độc đáo vì
người ta đều dùng ca hình tượng, ví von rất giàu chất trữ tình để thực hiện các
nghi lễ, đối đáp giữa nhà trai và nhà gái. Nã mang tính sinh hoạt văn hoá cộng
đồng bởi nội dung của các bài hát có chất thi pháp, có vần điệu đồng thời chứa
đựng những giá trị về đạo đức lối sống không chỉ răn dạy cô dâu chú rể mà nó
còn ảnh hưởng đến những người có mặt tại lễ cưới. Khi người hát thì dù ai có
đang vui còng phải dừng lại để nghe cho tường, từng lời hát và các vần điệu
ngấm vào tâm hồn của người dự lễ. Chính lễ đó mà các bài quan làng có sức
sống truyền từ đời này sang đời khác, mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc và tồn tại
lâu bền đến mai sau.

+ Tục căng dây chặn đường (căng sai dú tang).
Khi đoàn đón dâu của nhà trai đến ngõ nhà gái, nhà gái cho chăng dây
qua đường, có nơi đóng cổng hoặc chăng dải vải, cho người giả vờ gặng hỏi,
chất vấn Đây là thử thách đầu tiên, tùy ý hái của nhà gái, nhà trai phải hát đối
cho hợp ý, hợp cảnh mới được nhà gái cho đỡ dây, mở cổng.
- Chủ hái:

Xo chiềng thâng khéc lạ táng mường
Pay tàng tầu mà thang đin nẩy
Sao báo hăn thay thảy rùng roàng
Nhịnh tua cần khao bang miác nả
Chừng tàng khỏi lèo xử phép quan
Cần đây xin quá tàng khâu bản
Pấu đây là pấu cành cây mà
Pang chử cần rà cấn lạ
Khái xo xam thất thá thuổn cằm.
Tạm dịch:
Xin trình lên khách lạ khác mường
Định đi đâu qua đường đây đó.
Gái trai lịch sự thanh tân
Những con người trắng ngần xinh xắn
Giữ người tôi phải vặn, phép quan
Người ngay mới qua đường vào bản
Không ngay đừng lảng vảng gần đây
Thật thà tôi hỏi rõ trước sau

- Khách đáp:
Xo chiềng thâng noọng á sườn luông
Càm kha ón mà thâng đin nẩy
Hăn mì toản phít quí tỏn tàng

Hăn mì toản lụa loàn tảng soóc.
Bẩu hẩu cần pảng noóc khẩu pây
Khói du táng mường quậy bấu ru
Bấu chắc răng duyên cớ cón lăng
Xo xoọng nàng nho lần khay áng
Rắp khươi mấu khảu bản khảu rườn

Tạm dịch:
Kính thưa tới các bạn giữ nhà
Chân " đã mỏi đường xa vừa tới
Thấy tấm lụa quý trải dọc đường
Tấm lụa đẹp căng ngang chắn lối
Cấm người ngoài đi lại vào nhà
Tôi khác mường đường xa không rõ
Không biết gì duyên cớ trước sau
Xin bạn rất sợi dây mở cổng
Đón mừng chú rể sớm vào nhà.
+) Tục xin trải chiếu (chái phục)
Khi đoàn chú rể đã qua được chặng giữ cửa vào đến nhà, trong nhà có 1
gian dành riêng cho đoàn chú rể, khi đến gian đó, nhưng gian đó chưa có chiếu
trải hoặc chiếu trải lệch hay trải mặt trái cũng có thể là trải hai chiều, vì thế mà
đoàn chú rể không dám ngồi, vị quan làng phải cất tiếng hát có nội dung tù giới
thiệu mình là khách quý và có ý trách chủ nhà, quan làng nhà gái phải hát đáp
lời xin lỗi đoàn chú rể và trải chiếu ngay và cũng giả vờ trách các cháu trong
nhà thiếu lịch thiệp rồi trịnh trọng mời đoàn chú rể ngồi xuống chiếu.
Khi đoàn chú rể ngồi xuống, quang làng nhà gái phải hát đối một hai bài
ca ngợi sự mến khách của chủ nhà và đoàn chú rể cũng phải hát đối lại bài ca
ngợi lòng mến khách của chủ nhà rồi mới ngồi.
Kính thưa khắp quý họ trong nhà

Khắp nhà trải chiếu hoa lịch sự
Sao còn chiếu người để gác không
Khắp nhà trải chiếu đôi đẹp đẽ
Riêng con giường góc phô bỏ không
Xin người tấm chiếu thường trải tạm
Trai gái hãy đến mau trải chiếu
Khách lạ đứng chân mỏi đã lâu.

- Đại diện nhà gái đáp:
Mấy khi người được đến nơi đây.
Gọi là có những ngày gặp mặt
Bởi nhà nghèo không giường không chiếu
chúng tôi quả chưa kịp trải ra
Nghĩ mà cũng thấy lỗi với người
Bận quá quên cả đường lịch sự
Mong bạn hãy tha thứ lỗi này
Hãy tù tay đứng ra trải chiếu
+) Mời nước chè, mời trầu (chăn nặm che, chăn nhau).
Sau khi đoàn chú rể đã ngồi yên, quan làng nhà gái hát bài mời nước chè,
mời trầu, các cô gái bên nhà gái mang trầu, nước ra lần lượt đi mời từng người,
có bao nhiêu người sẽ có đầy đủ chén nước và trầu. Quan làng nhà trai hát bài
cảm ơn sù chu đáo của chủ nhà và khen chè, trầu ngon
- Chủ nhà (quan làng).
Lai nặm che
Khởi chiềng mừa giả nặp cầu nơ
Mọi cầu ngồi liệu là nghịch tân
Mọi cầu chỏi chua căn kín nặm
Lườn khỏi thật khỏ lắm puồn slim
Tiếng ca nặm thủy tình thật thà
Au mà bai các á cả lình.

Nặm pền che đẩy kin chẳng hai
Chiềng cầu dá ngi ngại tàng lăng
Nắm che cái nuáng lồng kiu nặm
Dịch: Mời nước chè.
Tôi xin phép trình cùng bà đón
Mọi người đều đẹp đẽ nghênh tân
Mọi người hãy cùng nhau uống nước

Nhà tôi nghèo khổ lắm thật puồn
Tiếng rằng nước xanh trong là thế
Đau tới mới các chị thật lòng
Chẳng nên che uống thật ngại
Quý khách chê hay ngồi uống nước.
+) Lễ nạp gánh và trình tổ tiên (nộp tháp, lạy chá.
Quan làng nhà trai dẫn chú rể và phù rể đến trước bàn thờ tổ tiên của gia
đình nhà gái, hai cô gái khiêng lễ vật đi theo trình các bậc cha mẹ, báo già bản
quan làng nhà gái, những người thân trong nhà đứng hai bên, trước bàn thờ tổ
tiên chứng kiến, chú rể đứng nghiêm chỉnh bên cạnh quan làng, vị quan làng
nhà trai trịnh trọng hát bài nộp gánh, sau đó một vị thân chủ nhà gái đến mở
gánh và chuyển các thứ lên bàn thờ, sau khi sắp xếp lễ vật lên bàn thờ xong chú
rể và phù rể quan làng nhà trai đứng trước bàn thờ tổ tiên hát trình tổ tiên, quan
làng nhà gái hát bài cho phép chú rể lạy tổ tiên và hát bài nhận lễ.
- Nộp tháp.
Đời xưa đặt bàn cổ dẩy tông
Tuyền xe hâu tơ hồng nguyệt lạo
Tè cần cung nói thảo síp phân
Thinh óc luch nhìn trai đâu thoà
Tồn mùa khắp thiên hạ từ phương
Tồn mùa thông lượn chương ti khói

Soong bưởng dảy phù phu cùng lợp
Cầu chuắng au phung nhàu mà cáp
Vẫn nạy mì tháp lễ mà thông
Hâu khỏi mà lẫn lệ quan xuân
Pù gia chẳng pay có ngòi thủ
Ngái đày vắn an cư khai lạc
Giá này khỏi lâu tháp mà thâng
Khói so nộp hẩu nội ngoại tung xuân.

+) Lễ dâng tấm vải ướt khô (Pái lắm khắu)
Sau lễ nộp gánh và trình tổ tiên, quan làng nhà trai trịnh trọng hát bài
dâng tấm vải ướt khô, chú rể lễ phép dâng tấm vải ướt khô lên mẹ cô dâu, nếu
mẹ cô dâu không còn thì dâng lên người nuôi dưỡng. Cô dâu từ khi bé tấm vải
ướt khô được nhuộm hồng một đầu tượng trưng cho phần ướt, đầu còn lại để
trắng tượng trưng cho phần khô. Tấm vải khô ướt mang ý nghĩa đền ơn người
mẹ, đã mang nặng chín tháng mười ngày chăm sóc nuôi con, chỗ ướt mẹ nằm,
chỗ khô dành cho con. Trong lễ cưới người Tày không thể thiếu, tấm vải ướt
khô vì đây là tỏ lòng biết ơn người mẹ đã nuôi con từ khi lọt lòng cho đến ngày
trưởng thành nên người, tiến hành dâng tấm vải ướt khô là đứng trước bàn thờ
tổ tiên, trước mặt bố mẹ anh chị em họ hàng nhà gái, vị quan làng nhà trai hát
dâng tấm vải ướt khô, chú rể kính trọng dâng hai tay tâm vải ướt khô lên mẹ cô
dâu trong bầu không khí trang nghiêm. Nhận tấm vải ướt khô bà mẹ xúc động
khóc, tấm vải này được cất kỹ, khi có cháu ngoại là bà mang địu.
Nộp lằm khấu
Giờ này giờ bình an lo thiêng
Giờ này giờ nguyệt tiên thiên đức
So quy họ cầu khôn thi lệ
Hậu phương hoàng kết nghĩa chịu công.
Thứ nhất so nộp hàm khẩu
Cắt đóng là thiên thụ hàn thâu

Chẳng tặt núi lệ ngần lắm thâu
Bưởng tum là mẹ chịu nòng
Bưởng khắc là lúc nòn.
Mí lục chin bầu ngon đuổi lục
Lễ mà định mà tục hẩu cần
Hốu khái so lễ vật khưu mưa
Là tặt lệ hầu chón khưa song bưởng.
+) Lễ bái tổ và họ hàng (long họ hàng).

Đây là nghi lễ trang nghiêm, chú rể cô dâu đứng trước bàn thờ, quan làng
nhà trai hát bài lễ tổ tiên, còn bố mẹ ông bà họ hàng nhà gái ngồi xung quanh.
Người Tày quan niệm tổ tiên ở trên trời trước tiên chủ nhà thắp hương
cúng khấn tổ tiên về chứng kiến buổi lễ cưới của con cháu. Rồi quan làng mới
tiến hành lễ tổ tiên họ hàng. Lễ này diễn ra với nghĩa là cho tổ tiên biết là con
cháu đã thành lập gia đình và mong được phù hé.
Long họ
Mà năng hẩu lục tan te lạy
Nhược cần hẩu pần pú pần gia.
Nhược cần hẩu pần lùng pần pả
Nhược cần hẩu pần áo pần a
Vằn cón đảy sống đa pà tía
Pải lạy này trà nghĩa đến công
Lục là lục lườn cần
Lùa là lùa xuân họ
Mẹ đạy cạy đảy tâng
Xuân họ đảy mừng chần pay nả
Tu khái đay chom bài chần khua
Lay khửu dưm thu táng soang bươn
Lay khưu đảm thư luồn coi cum

Côm hẩu mầm thiên tổ bình an
Bài tổ hẩu đặm cụm thâng tuyến
Vằn lăng đảy bình yên khia luc
Siêu niên du đâu các vinh va
Tu khái đảy pay mà tâng cây
+) Lễ bố mẹ vợ (lạy po me)
Sau khi lễ họ hàng xong là đến lễ bố mẹ vợ, khi hát xong con rể và con
gái lạy bố mẹ vợ, khi lễ xong bố mẹ con gái lại đưa con rể một cái bạc hay cái
vòng cổ bằng bạc để chúc mừng, trường hợp nếu còn ông bà thì phải lạy ông bà

trước.
Lay po me
Khái mê mừa po me thê thinh
Mà năng hẩu lục thinh te lạy
Công liêng lục khó nhọc hàn thân
Mì luc chắng chắc công po me
Công liêng lục lai kế hàn cơ
Lay po me nhằng mang pay nả
Pán chim hấu thiên họ cần tôn
Liêng lục đắc thương tôn tông cạy
Lay po me du phúc vằn lăng.
Khái mài po me mà lăng hẩu lua te lạy
+) lễ xin đón dâu (so lùa lồng lang)
Sau khi lễ bố mẹ vợ xong là lễ xin đón dâu, đây là lễ nghi trọng đại nhất
và là nghi lễ cuối cùng ở bên nhà gái, vị quan làng trịnh trọng hát bài hát cảm
ơn chu đáo của nhà gái và bài xin thưa với ông bà, cha mẹ, họ hàng cho phép
được đưa dâu về nhà trai, lời bài hát này cũng là lời mời của cô dâu chuẩn bị
khẩn trương để ra cửa được đúng giờ tốt.

Nhà ở của người Tày ở Na Hang ngày xưa chủ yếu là nhà sàn, nhà sàn
này có 2 cửa, cửa chính và cửa phụ vì thế mà cô dâu ra cửa phải đi đường cửa
chính.
So lùa
Síp giờ đây nạy đây mooc
Pác giờ đây giờ nay đây lai
Gìơ đây khái so lùa lầng tang
An mừa lạu đăm tàng tổ tiên
Pi noong mà leo hỏng du thả
So hấu lục mừa thoả quê hương
Au mưa tại đẳm lườn pù gia

Khoi te so xuất giá hồi hương.
Trong lễ này, chú rể chấp tay lên ngực lạy 2 lạy, đây là nghi lễ bắt buộc.
Lễ trình tổ tiên là lễ lạy tạ bố mẹ, ông bà ngoại và những bậc trên họ hàng nhà
gái chú rể lễ từng người và mời trầu cau hoặc rượu những người mời đều mừng
tiền cho chú rể và chóc chú rể gặp may mắn.
Trong ngày hôm nay nhà cô dâu cũng phải làm lễ xuất gia cho cô gái
trước khi ra cửa, tục lệ lễ này của người Tày là tách ma cho con gái trước khi Ò
nhà trường, vì người con gái đi lấy chồng thì không còn chịu sù chi phối trực
tiếp của dòng họ mình nữa.
+) Cưới bên nhà trai:
Khi đoàn chú rể cô dâu ra khái cửa bên nhà gái, trên đường đi họ đi rất
chậm, và họ cũng phải tuân theo thủ nghi lễ nhất địn. Gặp cầu, sông, suối cô
dâu thường dựng lại ông đón trả " Tiền đò" cho bà đưa và khi gặp đám cưới
ngược chiều thì hai cô dâu mời nhau trầu cau, còn những người khác mời nhau
thuốc lá 2 cô dâu phải đổi nón khăn hoặc dép cho nhau, các nghi lễ này thể hiện
sù may mắn cho cả hai đám cưới này.
Đoàn đưa đón dâu đến nhà trai phải chọn giờ tốt mới được lên nhà, chưa
đến giờ phải chờ ở ngoài đến giờ tốt. Khi đoàn đưa dâu đến nhà chú rể,

nhà chú rể cử một người đoàn đưa dâu, người này có vị trí cao nhất trong
họ, khi đến cổng nhà chú rể cử ông thầy mo ra cổng để cúng trước khi vào nhà.
Cúng như vậy theo phong tục và một nghĩa nữa là tẩy uế những thứ không may
mắn, lành mạnh bám vào cô dâu trên đường đi và mọi thứ mà cô dâu mang đến
nhà chồng là cái mới mẻ.
Khi làm lễ xong cô dâu mới được vào nhà và đi thẳng vào buồng của
mình, buồng cô dâu đã chuẩn bị từ trước, người có vị trí cao trong họ đấy được
vào cùng cô dâu để trải chiếu (người này phải là đàn bà).
Đoàn đưa dâu được vào buồng cùng cô dâu chỉ có cô dâu, phù dâu, bà
đón và dì đón mới được vào buồng. Nghỉ ngơi đến tối mới được ra chiếng họ.
Đoàn nhà gái sang nhà trai còng đều được tiếp đón như nhà gái, các tập

tục nghi lễ diễn ra giống bên nhà gái. Tục căng dây chặn đường, lễ giữa cửa, lễ
trải chiếu, mời ngồi, mời nước chè trầu, bái tổ và họ hàng, lễ bố mẹ chồng.
Ngoài ra, lễ nộp gánh và lễ dâng tấm vải ướt khô thì chỉ bên nhà gái mới có và
cũng đều cất lên những tiếng hát đối đáp như bên nhà gái, chỉ khác ở đây có bài
hát " nộp dâu" (ở trang cuối).
Khi mọi việc đã xong, nghỉ ngơi đến tốt ra làm thủ tục lạy họ, lạy họ là
nghi lễ quan trọng nhất không được bỏ qua, lễ này có ý nghĩa là để tổ tiên họ
hàng biết, và cũng để con dâu biết anh em họ hàng để con biết gọi, lễ này diễn
ra, bà đưa dâu dẫn cô dâu ra lễ tổ tiên và họ hàng nội ngoại bên chồng và bố mẹ,
ông bà bên chồng. Nhà trai thường lập danh sách họ hàng theo thứ bậc trên dưới
và đọc tên từng người để lễ, những người được lễ (trừ ông, bà, bố mẹ đều mừng
tiền cho cô dâu).
Tối hôm đó khi khách ăn cơm xong, cô dâu bưng những chậu nước Êm
với một chiếc khăn mặt mới đến mời từng người rửa tay, những người được cô
dâu mời rửa tay đều mừng tiền cho cô dâu. Những chiếc khăn mới đó đều cho
những người khách đã được mời rửa tay, lấy xong họ thường chóc chú rể ăn nên
làm ra.

×