Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Sự hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN và những dự báo ảnh hưởng đến quan hệ Thương mại nội khối ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.74 KB, 16 trang )

Họ và tên: Trịnh Thị Hiền
Lớp: Bổ sung đầu vào
Môn: Kinh tế Thương mại Việt Nam
BÀI TẬP CÁ NHÂN
Đề tài: Sự hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN và những dự báo ảnh hưởng đến
quan hệ Thương mại nội khối ASEAN
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC).
Cộng đồng kinh tế ASEAN (tiếng Anh: ASEAN Economic Community, viết tắt: AEC) là
một khối kinh tế khu vực của các quốc gia thành viên ASEAN dự định sẽ được thành lập vào
năm 2015. AEC là một trong ba trụ cột quan trọng của Cộng đồng ASEAN nhằm thực hiện
các mục tiêu đề ra trong Tầm nhìn ASEAN 2020, hai trụ cột còn lại là: Cộng đồng An ninh
ASEAN và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN.
1.1 Khái quát.
ASEAN là một khu vực kinh tế năng động có:
- Diện tích: 4.435.670km
2
.
- Dân số: 598.498.000 người.
- GDP: 1.850.855 triệu USD.
- Tổng giá trị thương mại: 2.042.788 triệu USD.
- Tổng giá trị đầu tư: 74.081 triệu USD.
- Các đối tác thương mại chính: Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Ấn Độ…
1.2 Quá trình hình thành.
Trước nguy cơ mất dần lợi thế cạnh tranh tương đối so với các nền kinh tế mới nổi khác
trong khu vực, ngay từ năm 2003 ASEAN đã nỗ lực tìm kiếm một động lực phát triển mới dựa
trên sự tập trung về lợi thế cạnh tranh của các thành viên thông qua các liên kết ngành. Chỉ khi
ấy, thị trường 592 triệu dân và 1400 tỷ GDP của ASEAN mới thực sự tạo ra một thế mạnh
chung. Năm 2004, ý tưởng này được hiện thực hóa một bước với việc Lãnh đạo các nước
ASEAN nhất trí xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2020 (AEC) dựa trên kế
hoạch kết nối 12 lĩnh vực ưu tiên mà ASEAN đã lợi thế cạnh tranh.
1


Tiếp đó, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 7, tháng 1 năm 2007 tại Cebu, Phi-lip-pin,
các nhà Lãnh đạo ASEAN đã thông qua xây dựng Kế hoạch Tổng thể và Lộ trình Chiến lược
thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC). ASEAN nhất trí xây dựng một Lộ trình Chiến
lược thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) với các biện pháp chi tiết và một thể chế
thực thi chặt chẽ, đồng thời đẩy nhanh mục tiêu hoàn thành thiết lập AEC vào năm 2015. Đây
được xem là cột mốc quan trọng nhất kể từ năm 2002 sau khi ASEAN hoàn thành một bước
Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung để thực hiện Khu vực Thương mại tự do
ASEAN (CEPT/AFTA).
Lộ trình chiến lược và Kế hoạch tổng thể thực hiện AEC đề cập nhiều biện pháp thuộc các
lĩnh vực từ thuế quan, các biện pháp phi thuế, thủ tục hải quan, chính sách cạnh tranh, sở hữu
trí tuệ, dịch vụ, đầu tư đến các vấn đề môi trường, lao động, phát triển nguồn nhân lực.
 AEC dựa trên 4 nhóm biện pháp trụ cột là:
- Nhóm biện pháp để tạo lập một thị trường chung và không gian sản xuất thống nhất.
- Nhóm biện pháp về nâng cao năng lực cạnh tranh của các khu vực, ngành kinh tế.
- Nhóm các biện pháp tạo sự phát triển công bằng và đồng đều.
- Nhóm các biện pháp kết nối nền kinh tế ASEAN với bên ngoài.
1.3 Các nội dung chính của Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Bốn đặc điểm đồng thời là yếu tố cấu thành của AEC:
- Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng thông qua: Tự do lưu
chuyển hàng hoá; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu chuyển đầu tư; Tự do lưu chuyển vốn
và Tự do lưu chuyển lao động có tay nghề.
- Một Khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn khổ chính sách về
cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, thuế quan và
thương mại điện tử.
- Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ (SME) và thực hiện sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát
triển trong ASEAN.
- Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc tham vấn chặt chẽ
trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào mạng lưới cung cấp toàn cầu (WTO).
 Một là, Một thị trường đơn nhất và một cơ sở sản xuất thống nhất.

2
Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ thực hiện để xây dựng một thị trường chung và cơ sở
sản xuất thống nhất bao gồm: dỡ bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan; thuận lợi hóa
thương mại, hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản phẩm (hợp chuẩn) và quy chế, giải quyết nhanh
chóng hơn các thủ tục hải quan và xuất nhập khẩu, hoàn chỉnh các quy tắc về xuất xứ, tạo
thuận lợi cho dịch vụ, đầu tư, tăng cường phát triển thị trường vốn ASEAN và tự do lưu
chuyển hơn của dòng vốn, thuận lợi hóa di chuyển lao động có tay nghề (di chuyển thể nhân)
v.v., song song với việc củng cố mạng lưới sản xuất khu vực thông qua đẩy mạnh kết nối về
cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông
tin và viễn thông, cũng như phát triển các kỹ năng thích hợp.
Các biện pháp thực hiện AEC đã và đang được các nước thành viên ASEAN triển khai cụ
thể thông qua các thỏa thuận và hiệp định quan trọng như Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN (AFTA) và Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), Hiệp định khung
ASEAN về Dịch vụ (AFAS), Hiệp định khung về Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) và Hiệp
định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA), Hiệp định khung về Hợp tác Công nghiệp ASEAN
(AICO), Lộ trình Hội nhập Tài chính và Tiền tệ ASEAN, v.v. …
- Tự do hoá thương mại hàng hoá: Cho đến nay, ASEAN đã cơ bản giảm được thuế quan
cho các mặt hàng trong danh sách giảm thuế về từ 0-5% từ năm 2010 đối với 6 nước thành
viên ban đầu và vào 2015 với 4 nước thành viên mới, hình thành nên một thị trường mở không
còn các rào cản thuế quan đối với hàng hóa. Để hỗ trợ tự do hoá thương mại, ASEAN đang nỗ
lực đưa vào hoạt động Cơ chế hải quan 1 cửa ASEAN (ASEAN Single Window-ASW) và các
quy định về áp dụng chứng nhận xuất xứ cho hàng hoá có nguồn gốc từ ASEAN để đủ điều
kiện hưởng các ưu đãi về thuế quan, trong đó ASEAN đang nghiên cứu tiến tới việc cho phép
các doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ, cùng với việc hài hoà hoá các quy định về hợp chuẩn
hàng hoá v.v.
- Về tự do hoá dịch vụ, ASEAN đã hoàn tất Gói 9 cam kết dịch vụ theo Hiệp định Khung
ASEAN về Dịch vụ (AFAS) trong năm 2013, tạo thuận lợi cho việc luân chuyển dịch vụ trong
khu vực. Tới nay, các cam kết về tự do hoá dịch vụ trong ASEAN đã bao trùm nhiều lĩnh vực
như dịch vụ kinh doanh, dịch vụ chuyên nghiệp, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường,
vận tải biển, viễn thông và du lịch. Có 4 gói cam kết về dịch vụ tài chính và 6 gói cam kết về

vận tải hàng không đã được ký kết. Các thoả thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) giữa các nước
3
thành viên ASEAN về tiêu chuẩn, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp v.v. là một công cụ quan
trọng giúp tự do hoá lưu chuyển các dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN. Tới nay, các nước
ASEAN đã ký các thoả thuận công nhận lẫn nhau đối với các tiêu chuẩn, kỹ năng các ngành
dịch vụ cơ khí, y tá, kiến trúc, kế toán và du lịch.
- Về tự do hoá đầu tư, trong khuôn khổ Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA),
ASEAN hướng tới hình thành một điểm đến đầu tư hấp dẫn ở khu vực, với cơ chế đầu tư
thông thoáng và mở, bao gồm tự do hoá đầu tư trên các lĩnh vực chính như sản xuất-chế tạo,
nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, khai khoáng và các dịch vụ phụ trợ cho các ngành này.
Danh mục các lĩnh vực mở cửa cho đầu tư còn được tiếp tục bổ sung trong thời gian tới. Các
nỗ lực tự do hoá đầu tư của ASEAN không chỉ giúp tạo dựng và nâng cao niềm tin của nhà
đầu tư nước ngoài với khu vực ASEAN, mà còn góp phần thúc đẩy đầu tư nội khối cũng như
đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia trong khu vực.
 Hai là; Nhằm xây dựng một khu vực cạnh tranh về kinh tế.
ASEAN thúc đẩy chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ sở hữu trí tuệ,
phát triển cơ sở hạ tầng như hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng biển, năng lượng, phát triển
thương mại điện tử v.v.
 Ba là; Hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế đồng đều.
ASEAN đã thông qua và đang triển khai Khuôn khổ ASEAN về Phát triển Kinh tế Đồng
đều (AFEED), trong đó đáng chú ý là các biện pháp hỗ trợ các nước thành viên mới, khuyến
khích sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
 Bốn là; Để hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
ASEAN nỗ lực đẩy mạnh việc xây dựng và triển khai các thoả thuận liên kết kinh tế ở khu
vực Đông Á, với 6 Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do (FTAs) đã được ký với các Đối tác
quan trọng là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôx-trây-lia và Niu Di-lân, và đang
trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) hướng đến
hình thành một không gian kinh tế mở toàn Đông Á vào năm 2015, với GDP chiếm 1/3 tổng
GDP toàn cầu và quy mô thị trường chiếm ½ dân số thế giới.
II.DỰ BÁO NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (ACE)

ĐẾN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI NỘI KHỐI ASEAN.
2.1 Ảnh hưởng chung.
4
- Thương mại nội khối ASEAN có thể được thúc đẩy bằng cách theo đuổi tự do hóa
thương mại, với cơ sở là Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA), và FTA với một loạt
đối tác thương mại lớn, chẳng hạn như Trung Quốc theo Hiệp định thương mại tự do ASEAN-
Trung Quốc (ACFTA). ACFTA có hiệu lực ngày 20/7/ 2005 và đã được thực hiện đầy đủ vào
năm 2010. Nó thay thế các rào cản phi thuế quan với thuế quan và đồng thời giảm thuế nhập
khẩu. ACFTA cung cấp một loạt các lợi ích, song nó cũng tạo ra vấn đề cho các nước ASEAN
bởi Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ.
 Ảnh hưởng từ địa lý - ngôn ngữ
Các nước ASEAN, xét về địa lý, là một nhóm nước gồm có đất liền, bán đảo và đa đảo,
lập thành một “lòng chảo” giữa Ấn Độ và Trung Quốc, nằm trên con đường hàng hải Đông -
Tây, nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, rất thuận tiện cho việc giao thương và có ý nghĩa
quan trọng về kinh tế và chính trị. Tuy nhiên, văn hóa và ngôn ngữ của khu vực này lại hết sức
đa dạng.
Tính đa dạng, nhiều chiều, thậm chí khu biệt về văn hóa giữa các quốc gia có thể làm phân
tán khả năng hướng tới một nhất thể kiểu Bắc Mỹ hay EU. Đồng thời, sự đa dạng cũng ảnh
hưởng tới chính sách ngôn ngữ truyền thống của mỗi quốc gia ASEAN và nhìn rộng ra toàn
khu vực sẽ có ảnh hưởng tới chính sách ngôn ngữ của ASEAN thời hội nhập.
Phần lớn quốc gia trong ASEAN là quốc gia đa ngữ như Việt Nam, Lào, Thái Lan,
Malaysia Tuy mỗi quốc gia có một ngôn ngữ chiếm đa số nổi lên nhưng nó không che lấp
mảng màu của các ngôn ngữ khác và sự chênh lệch về mức độ phát triển và khả năng sử dụng
trong đời sống xã hội tồn tại như một tất yếu.
Các quốc gia Đông Nam Á xưa nay bận tâm với chính sách ngôn ngữ quốc gia nội địa hơn
là nhìn ra viễn cảnh của khu vực. Vì vậy, việc tìm kiếm một ngôn ngữ chung cho ASEAN gặp
phải những thách thức không nhỏ. Dẫu vậy, khi các nước ASEAN đang tiến dần tới việc hình
thành Cộng đồng, trong đó có trụ cột Văn hóa - Xã hội thì việc sử dụng tiếng Anh như một
ngôn ngữ chung để giao tiếp trong nội khối được đánh giá là một lựa chọn hợp lý và thực tế.
 Công cụ hội nhập

Có thể nói, tiếng Anh xuất hiện ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương như một hệ quả lịch
sử. Ấn Độ cũng như hai nền kinh tế lớn ở Đông Bắc Á là Đài Loan và Hong Kong (Trung
Quốc), vốn có nhiều giao lưu với ASEAN, đều sử dụng tiếng Anh rộng rãi. Trong khu vực,
5
Singapore, Malaysia, Philippines, Myanmar… là những quốc gia có truyền thống dùng tiếng
Anh hơn 100 năm.
Ở các nước Việt Nam, Lào và Campuchia, địa vị của tiếng Pháp đã suy giảm nhiều và thay
vào đó là sự lên ngôi của tiếng Anh như một ngoại ngữ hàng đầu. Cuối năm 2014, Tổ chức
Giáo dục quốc tế EF đánh giá Việt Nam, bên cạnh Thái Lan và Indonesia, nằm trong nhóm
những quốc gia tiến bộ nhanh nhất về khả năng sử dụng tiếng Anh trên toàn cầu.
Mới đây, trên trang mạng Southeast Asia Globe, Giáo sư Andy Kirkpatrick thuộc Đại học
Griffith (Australia) nhận định lạc quan rằng: “Việc sử dụng tiếng Anh ở Đông Nam Á đang
ngày càng trở nên vô cùng phổ biến và phát triển với tốc độ kinh ngạc”. Ông nói thêm: “Người
dân các nước ASEAN, vốn rất đa dạng về ngôn ngữ, đang sử dụng tiếng Anh như một ngôn
ngữ quốc tế, một ngôn ngữ chung”.
 Sự chuẩn bị của các nước
Nhiều bài viết trên báo Bangkok Post cho thấy người Thái đang tích cực bổ sung vốn tiếng
Anh để có được lợi thế cao hơn khi Cộng đồng ASEAN hình thành. Thậm chí Ủy ban Cải
cách Giáo dục Thái Lan đã đề xuất việc đưa tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai của nước này.
Ở Malaysia, chính phủ đã chính thức công bố hướng phát triển cho giáo dục nước này
trong một thập niên tới, trong đó đảm bảo mọi học sinh đều thành thạo tiếng mẹ đẻ Malaysia
và tiếng Anh. Đặc biệt, Malaysia tập trung vào việc phổ biến tiếng Anh ở giáo dục bậc cao
bằng cách tạo điều kiện cho các trường đại học của Anh, Mỹ, Australia mở phân hiệu, biến đất
nước này trở thành trung tâm giáo dục của khu vực.
Ở Campuchia, ông Sandra Damico - Giám đốc điều hành một công ty nhân lực cho biết
lao động Campuchia chưa có lợi thế cạnh tranh về trình độ tiếng Anh so với các nước xung
quanh. Vì vậy, Chính phủ đang nỗ lực nâng trình độ tiếng Anh của quốc gia này lên một mức
độ cao hơn.
Theo Giáo sư Đinh Văn Đức, mặc dù tiếng Anh đang thể hiện ưu thế vượt trội của mình
tại khu vực ASEAN song rõ ràng, tính đa dạng của các ngôn ngữ quốc gia cũng phần nào tạo

ra những ngăn cách trong giao tiếp và trao đổi.
Bên cạnh đó, chính sách ngôn ngữ của các nước ASEAN chưa đồng đều và cũng chưa
hướng tới một quan điểm chung. Đặc biệt, tiếng Anh đang tạo ra áp lực đối với việc bảo vệ
6
bản sắc văn hóa của từng quốc gia, đặt ngôn ngữ dân tộc, bản địa vào thế bất lợi nếu không
tìm được giải pháp hài hòa.
2.2 Vai trò trung tâm của ASEAN trong các cấu trúc kinh tế và an ninh khu vực
Ở khu vực Đông Á, Cộng đồng ASEAN cần giữ vai trò trung tâm trong các cấu trúc kinh
tế và an ninh khu vực. Rất nhiều thành công của ASEAN được nhìn nhận có được là do sự
năng động về kinh tế của tổ chức này và các cơ hội kéo theo nhằm cải thiện đời sống người
dân tại các quốc gia thành viên. Sự hội nhập kinh tế thành công mang lại các lợi ích vật chất
đáng kể cho người dân ASEAN được xem là nhân tố chính đối với thành công của Cộng đồng
ASEAN nói chung và là cách hàn gắn các chia rẽ hiện nay tại khu vực. Sự phân mảnh trong
ASEAN được nhìn nhận đang gia tăng do sự phụ thuộc của một số quốc gia thành viên Hiệp
hội vào các quốc gia nhất định ngoài khu vực, hơn là vào các quốc gia khác trong khối, vì mục
đích xây dựng năng lực trong nước và tăng trưởng kinh tế. Về khía cạnh này, nếu Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC) có thể cung cấp các lợi ích vật chất và cơ hội cho tất cả, các quốc gia
thành viên nhiều khả năng sẽ bị hút gần hơn về ASEAN, từ đó củng cố vai trò trung tâm của
Hiệp hội tại khu vực. Một cách khác để duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc
kinh tế khu vực là ASEAN tiếp tục can dự về kinh tế với các đối tác chính tại châu Á-Thái
Bình Dương như Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản. Với khả năng thành công của AEC,
các cường quốc sẽ đầu tư nhiều hơn vào một ASEAN mạnh và đoàn kết.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng ASEAN đang thiếu vắng sự đoàn kết, đặc biệt là đối
với các vấn đề địa chính trị và an ninh, cũng như các lợi ích an ninh quốc gia thường chiến
thắng các lý tưởng khu vực khi hoạch định chính sách. Khi các quốc gia thành viên không thể
nhất trí hoàn toàn về điều mà các lợi ích khu vực của họ đòi hỏi, vai trò trung tâm của ASEAN
mang tính khái niệm nhiều hơn là thực tế. Tuy nhiên người ta cũng biết rằng ASEAN vẫn còn
là một bên tham gia duy nhất có thể tập hợp các cường quốc thông qua các diễn đàn đa
phương, từ đó đóng góp vào tiến trình xây dựng lòng tin và trao đổi, điều được ưu thích để giải
quyết xung đột.

2.3 Cơ hội và thách thức đối với ASEAN
Cộng đồng ASEAN ra đời vào 31/12/2015 đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn xây
dựng cộng đồng mới, chứ chưa phải đã hoàn tất.
7
Để ASEAN trở thành một cộng đồng “vững mạnh về chính trị, liên kết về kinh tế và có
trách nhiệm xã hội để ứng phó với các thách thức và cơ hội trong hiện tại cũng như tương
lai ,” vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Trong môi trường phức tạp và luôn biến động mà chúng
ta đang sống, cơ hội luôn song thành với thách thức đe dọa sự ổn định và phát triển.
Việc gắn kết về chính trị và đoàn kết chặt chẽ là yếu tố quan trọng cơ bản để ASEAN duy
trì giá trị của mình, tiếp tục củng cố hòa bình và ổn định trong khu vực. Có những nhân tố bất
ổn tiềm tàng đang hiện diện tại khu vực như các tranh chấp trên Biển Đông, các vấn đề song
phương trong quan hệ giữa các nước, những nguy cơ về an ninh, an toàn hàng hải, thiên tai
Khi đã trở thành cộng đồng, ASEAN được trông đợi đóng vai trò tích cực và trách nhiệm hơn
như một khối thống nhất trong ứng phó với các mối đe dọa này.
Để làm được như vậy, các nước ASEAN cần phát huy đầy đủ các chuẩn mực ứng xử và
thông lệ giúp ngăn ngừa xung đột như Hiến chương ASEAN, Hiệp ước thân thiện và hợp tác
(TAC), Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC), và hướng tới hoàn tất Bộ quy
tắc ứng xử trên Biển Đông (COC). Đồng thời, các cơ chế đối thoại và hợp tác do ASEAN khởi
xướng và chủ trì như ASEAN+1, ASEAN+3, EAS, ARF, ADMM+ cần được thúc đẩy nhằm
giúp xây dựng lòng tin và sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa các quốc gia trong khu vực.
Để liên kết chặt chẽ về kinh tế, ASEAN cần nỗ lực hoàn thành đầy đủ các cam kết trong
khuôn khổ xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN cũng như tăng cường năng lực cạnh tranh
của các nền kinh tế thành viên. Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) cần trở thành vòng tròn
trung tâm kết nối các vòng cung kinh tế với các đối tác thông qua các khuôn khổ FTA
ASEAN+1. Thêm vào đó, ASEAN cần tiếp tục phấn đấu hoàn tất xây dựng Hiệp định Đối tác
kinh tế toàn diện RCEP hướng tới liên kết kinh tế cân bằng và bền vững ở khu vực Đông Á.
Để trở thành cộng đồng có trách nhiệm xã hội, ASEAN cần phải thực sự hướng về người dân,
để các lợi ích mà Cộng đồng ASEAN đem lại được chia sẻ đồng đều trong người dân các nước
thành viên. Hơn nữa, tất cả các bộ phận, các ngành các giới trong xã hội cần tham gia đóng
góp tích cực và xây dựng cho tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN.

- Nhiều thách thức khi ASEAN xóa bỏ thuế
Điển hình từ sau 31/12/2015, hầu hết các mặt hàng nhập khẩu (NK) trong nội khối
ASEAN sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan 0% thông qua các FTA+1 giữa ASEAN với các đối
tác.
8
Việc xóa bỏ hàng rào thuế quan trong ASEAN sẽ tạo ra không gian thị trường kinh tế
thống nhất hơn.nếu tranh thủ được cơ hội này, VN sẽ thúc đẩy thương mại trong nội khối
ASEAN, một thị trường rất tiềm năng với 600 triệu dân. Tuy nhiên, VN cũng đứng trước sức
cạnh tranh rất lớn với các thành viên trong ASEAN. “Nếu doanh nghiệp VN nói riêng và nền
kinh tế VN nói chung không tạo ra được sức cạnh tranh cho hàng hóa, dịch vụ của mình thì tới
năm 2015, chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức
- Một thách thức nữa đối triển vọng tăng trưởng của ASEAN là thiên tai. Lũ lụt nghiêm
trọng ở nhiều nước trong khu vực như Thái Lan, Việt Nam và Campuchia trong thời gian đã
gây thiệt hại nặng nề về kinh tế. Đặc biệt, lũ lụt và mưa lớn đã buộc hàng nghìn nhà máy ở
Thái Lan phải đóng cửa, gây nên tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng và khiến hơn nửa triệu
lao động tạm thời mất việc, gây tổn thất nhiều tỷ USD. Theo số liệu chính thức vừa công bố,
kinh tế Thái Lan dù vẫn tăng trưởng khá (3,5%) trong quý III/2011 nhờ xuất khẩu mạnh hơn,
song lũ lụt đã khiến chính phủ nước này hạ dự báo tăng trưởng GDP trong năm 2011 xuống
còn 1,5%, từ mức dự đoán 3,5-4% được đưa ra trước đó.
Trước đó, các nền kinh tế châu Á, đặc biệt là ASEAN vốn có quan hệ thương mại chặt chẽ
với Nhật Bản, cũng bị ảnh hưởng bởi sự gián đoạn nguồn cung do thảm họa động đất - sóng
thần hồi tháng 3/2011 tại Đông Bắc Nhật Bản.
2.4 Tầm nhìn sau 2015
Mặc dù đạt được tiến bộ đáng kể, ASEAN còn phải đối mặt với nhiều thách thức phải
vượt qua nhằm đạt tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN lấy người dân làm trung tâm,
trong đó các giá trị về dân chủ, quản trị và pháp trị được coi trọng, phát triển kinh tế-xã hội
được thúc đẩy nhằm tạo điều kiện cho hội nhập toàn diện cùng với tiến bộ hài hòa, cân bằng
và bền vững trên cả ba trụ cột.
Vị thế của ASEAN trong vòng 20 năm tới sẽ phụ thuộc vào khả năng và cách thức Hiệp
hội ứng phó với những thay đổi của tình hình thế giới cũng như bối cảnh quốc tế và khu vực.

ASEAN sau 2015 cần tiếp tục tăng cường và củng cố Cộng đồng bằng cách tiếp tục hội nhập
sâu hơn và toàn diện hơn. Để đạt được các mục tiêu trên, Cộng đồng Kinh tế ASEAN cần tiếp
tục được củng cố. ASEAN cần phấn đấu trở thành trung tâm của mạng lưới sản xuất và chuỗi
cung ứng khu vực cũng như toàn cầu nhằm thúc đẩy hơn nữa tăng trưởng và hội nhập kinh tế,
tạo điều kiện cho ASEAN đạt đến trình độ phát triển cao hơn.
9
Xây dựng một Cộng đồng ASEAN hòa hợp, lấy người dân làm trung tâm là nhằm đảm
bảo tăng trưởng trên diện rộng, theo đó mọi người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế, được
hưởng lợi từ phát triển kinh tế. Trong khi hòa bình và ổn định là điều kiện tiên quyết cho tăng
trưởng khu vực, Tầm nhìn ASEAN sau 2015 cũng cần định hướng và đề ra các biện pháp thiết
thực nâng cao mức sống của hơn 600 triệu người dân ASEAN. Hội nhập kinh tế ASEAN
thông qua Cộng đồng Kinh tế ASEAN sẽ không có nhiều ý nghĩa đối với những công dân bình
thường của ASEAN nếu như tiến trình hội nhập đó không mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho
họ. ASEAN đồng thời cần tiếp tục nỗ lực thu hẹp một cách hiệu quả hơn khoảng cách phát
triển trong mỗi nước thành viên và giữa các nước thành viên; duy trì tốc độ giảm nghèo tương
xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Để đạt được Tầm nhìn sau 2015 này, ASEAN cần tiếp tục
đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, cải thiện sức khỏe người dân, phát
triển khoa học và tiến bộ kỹ thuật. Thúc đẩy phát triển bền vững cần tiếp tục được ưu tiên.Vấn
đề bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên cần được tiếp tục coi trọng.
Những chuyển biến không ngừng của tình hình khu vực và quốc tế đòi hỏi ASEAN phải
điều chỉnh phương thức hội nhập hiện tại với trọng tâm là tự do hóa và thuận lợi hóa thương
mại và đầu tư, tập trung hơn vào việc tăng cường điều phối chính sách, ứng phó với các vấn đề
xuyên quốc gia, thống nhất và hài hòa hóa các quy định, tiêu chuẩn và thủ tục, nâng cao năng
lực giám sát việc thực thi các thỏa thuận, cam kết, đảm bảo lợi ích thiết thực của quá trình hội
nhập.
Sự thay đổi của đặc điểm dân số cũng sẽ có thể ảnh hưởng tới tiến trình hội nhập của
ASEAN. Trong vòng 20 năm tới, tầng lớp trung lưu gia tăng và dân số trẻ hơn sẽ là động lực
mạnh mẽ chi phối xu thế và đặc điểm tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ trong ASEAN.
Tiến trình hội nhập kinh tế ASEAN sẽ tương tác mạnh mẽ hơn với tiến trình hội nhập về
văn hóa - xã hội, đặc biệt là trong các vấn đề liên quan đến cơ hội việc làm, y tế, giáo dục, tiêu

dùng và thúc đẩy quyền con người.
Sức mạnh và tính chất đa cực ngày càng gia tăng của thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa
cũng đòi hỏi ASEAN mở rộng quan hệ với các đối tác khác, ngoài 10 đối tác đối thoại hiện có.
ASEAN sẽ thiết lập mới hoặc tăng cường các thỏa thuận thương mại tự do cũng như các thỏa
thuận hợp tác khác với các quốc gia này. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục duy trì đoàn kết và
10
vai trò trung tâm của ASEAN trong các thiết chế khu vực do ASEAN khởi xướng càng có ý
nghĩa quan trọng hơn.
Đông Nam Á là một trong những khu vực năng động nhất ở Châu Á-Thái Bình Dương,
với nhiều cơ hội cũng như thách thức. Trên hết, hòa bình và ổn định ở khu vực đã tạo điều
kiện cho ASEAN đạt được những tiến bộ đáng kể và mang lại nhiều cơ hội cho Hiệp hội
những năm tới. Việc ASEAN có nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức hay không sẽ tùy
thuộc vào khả năng của Hiệp hội trong việc duy trì hòa bình và ổn định cần thiết cho các nỗ
lực xây dựng Cộng đồng và hội nhập khu vực trong bối cảnh khu vực còn nhiều vấn đề phức
tạp như tranh chấp ở Biển Đông. Giải pháp cho vấn đề này không những phụ thuộc vào đoàn
kết và việc tuân thủ Nguyên tắc 6 điểm củaASEAN mà còn đòi hỏi sự ủng hộ của cộng đồng
quốc tế đối với việc đảm bảo tôn trọng luật pháp quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của quan hệ
quốc tế, đặt biệt các nguyên tắc không sử dụng vũ lực và giải quyết tranh chấp bằng các biện
pháp hòa bình.
Ưu tiên đối với ASEAN sau 2015 vẫn tiếp tục là duy trì hòa bình và ổn định ở khu vực
nhằm phục vụ hội nhập kinh tế và xã hội ở mức độ cao hơn, với thể chế được củng cố vững
chắc hơn. Thời gian tới, khi ASEAN tập trung nhiều hơn vào thực thi và giám sát, chúng ta sẽ
chứng kiến một ASEAN hội nhập mạnh mẽ và hiệu quả hơn, một Cộng đồng ASEAN gắn kết
chặt chẽ hơn với cộng đồng các quốc gia trên quy mô toàn cầu
III. DỰ BÁO NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (ACE)
ĐẾN VIỆT NAM.
3.1 Vai trò của Việt Nam trong việc thúc đẩy thành lập AEC.
ASEAN là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của nước ta và là một trong những
động lực quan trọng giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong
nhiều năm qua. Với lợi thế là một khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ

thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. ASEAN hiện là đối tác
thương mại lớn nhất của Việt Nam, trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ. Kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN tăng từ 2,9 tỷ USD năm 2003 lên tới 8,9 tỷ USD
năm 2009. Năm 2009, ta đã xuất khẩu sang Sing-ga-po, Thái Lan, Phil-lip-pin và Cam-pu-chia
đều đã đạt trên 1 tỷ USD. Cơ cấu xuất khẩu của nước ta sang ASEAN đang chuyển biến theo
chiều hướng tích cực, nâng cấp cả về chất lượng và giá trị. Từ những mặt hàng nông sản sơ
11
chế và nguyên nhiên liệu như gạo, cà phê, cao su, dầu thô có hàm lượng chế tác thấp, ta đã
xuất khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp như linh kiện máy tính, dệt may, nông
sản chế biến, mỹ phẩm với giá trị cao và ổn định. Trong quan hệ về đầu tư trực tiếp nước
ngoài, ASEAN là nguồn cung ứng FDI lớn nhất với 60 tỷ USD, đóng góp khoảng 56% tổng
giá trị vốn FDI đầu tư vào Việt Nam.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động tham gia xây dựng AEC. Đến
năm 2010, nước ta đã giảm thuế nhập khẩu cho 10054 dòng thuế xuống mức 0-5% theo
CEPT/AFTA, chiếm 97,8% số dòng thuế trong biểu thuế, trong đó có 5488 dòng thuế ở mức
thuế suất 0%. Nước ta cũng tham gia hợp tác một cách toàn diện cùng các nước ASEAN khác
từ các lĩnh vực truyền thống như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao
thông vận tải, viễn thông, đến các lĩnh vực mới như bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh
tranh, bảo vệ người tiêu dùng. Dù trình độ phát triển chưa bằng một số nước trong khu vực
nhưng Việt Nam là một trong 4 thành viên ASEAN có tỷ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết
trong Lộ trình tổng thể thực hiện AEC.
Đặc biệt, trong năm 2010, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN.
Chúng ta không chỉ tham gia với tức cách là một quốc gia thành viên mà còn tham gia dẫn dắt
tiến trình hợp tác chung của ASEAN. Thực hiện AEC vẫn được Việt Nam lựa chọn là một nội
dung quan trọng nhất trong Chương trình nghị sự của ASEAN trong năm 2010. Đặc biệt, ta đã
cùng với các thành viên ASEAN đã thúc đẩy mạnh mẽ việc sớm khắc phục tình trạng chậm
thực hiện của khả nhiều hiệp định quan trọng liên quan đến AEC. Ngày 1 tháng 5 năm 2010,
sau gần 8 tháng chậm chễ, Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) đã chính thức có
hiệu lực. Gói cam kết thứ 7 trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về thương mại dịch vụ
(AFAS) cũng đã được ký kết tại Hội nghị cấp cao ASEAN 17. Hiệp định đầu tư toàn diện

ASEAN (ACIA) , Hiệp định đa phương về tự do hóa hoàn toàn vận tải hàng không, Hiệp định
khung ASEAN về hàng quá cảnh… cũng đang trong quá trình rà soát lần cuối trước khi chính
thức có hiệu lực.
3.2 Cơ hội và thách thức.
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) dự kiến sẽ được thành lập vào cuối năm 2015, đang
được coi là một bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập toàn diện các nền kinh tế Đông Nam Á.
AEC sẽ hòa trộn nền kinh tế của 10 quốc gia thành viên thành một khối sản xuất thương mại
12
và đầu tư, tạo ra thị trường chung của một khu vực có dân số 600 triệu người và GDP hàng
năm khoảng 2.000 tỉ USD.
 Cơ hội:
AEC ra đời mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp (DN) các nước ASEAN nói chung và
DN Việt Nam nói riêng thông qua việc mở ra một thị trường rộng lớn, bình đẳng cho các DN.
- Các DN sẽ có cơ hội mở rộng trao đổi thương mại, thu hút đầu tư dựa trên lợi thế của
một không gian thị trường mở. Các rào cản thuế quan, phi thuế quan được tháo gỡ sẽ giúp các
DN đẩy mạnh xuất khẩu (XK), cắt giảm chi phí nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm.
- Các DN còn có cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn hơn với các đối tác như Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand thông qua các hiệp định thương mại tự
do riêng rẽ giữa ASEAN với các đối tác kinh tế lớn cũng như nỗ lực xây dựng Hiệp định đối
tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), từ đó DN Việt Nam có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi
sản xuất và cung ứng khu vực.
- Các mặt hàng XK của Việt Nam cũng được hưởng ưu đãi thuế quan 0% khi XK sang
các thị trường Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand. Môi
trường đầu tư thuận lợi sẽ đẩy mạnh dòng FDI từ các đối tác vào ASEAN trong đó có Việt
Nam.
 Thách thức:
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi lớn các DN cũng sẽ phải đối mặt với thách thức
không nhỏ khi AEC có hiệu lực. Trong đó đáng chú ý là sức ép từ hàng hóa NK, cạnh tranh về
dịch vụ đầu tư của các nước ASEAN dẫn đến một số ngành, một số sản phẩm phải thu hẹp sản
xuất, thậm chí rút khỏi thị trường.

Khi AEC được thành lập, các DN Việt Nam sẽ có thị trường rộng hơn, cả trong khu vực
và các thị trường và ASEAN đã có FTA. Tuy nhiên các DN cũng sẽ phải chịu sức ép cạnh
tranh từ hàng hóa NK, sản phẩm dịch vụ, đầu tư của các DN lớn trong các nước ASEAN khác.
Ngoài ra, các cam kết ngày càng cao về thực hiện lộ trình AEC, đặc biệt trong giai đoạn từ
nay đến năm 2015 và những yêu cầu ngày càng cao đối với hàng XK sẽ là thách thức không
nhỏ với các DN, đặc biệt trong bối cảnh các biện pháp về phòng vệ thương mại đang có xu
hướng gia tăng.
 Chủ động nắm bắt cơ hội
13
Từ các cơ hội và thách thức nêu trên, các chuyên gia cho rằng, bên cạnh những nỗ lực của
Chính phủ trong việc điều chỉnh cơ chế, chính sách để phù hợp với tiến trình hội nhập, các DN
cần chủ động tốt hơn nữa các cơ hội trước mắt để tận dụng được những lợi ích khi AEC chính
thức được thành lập.
Theo đó, các DN cần chủ động xây dựng các chiến lược kinh doanh, phát triển sản xuất để
có thể cạnh tranh với hàng hóa từ các nước trong khu vực ngay cả trong thị trường nội địa và
thị trường XK. Đồng thời, cần khai thác tốt những thế mạnh của mình để tận dụng những lợi
thế về thuế quan cũng như chủ động đón đầu sức ép cạnh tranh.
- Các DN cần chủ động xây dựng năng lực sản xuất, kinh doanh, cải thiện chất lượng, mẫu
mã sản phẩm để nâng cao khả năng cạnh tranh và xây dựng thương hiệu. Cùng với việc tăng
nhanh tỉ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu của ngành và giảm thiểu phụ thuộc và các nhà cung
cấp nước ngoài cần tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, đầu tư vào các vùng trồng
nguyên liệu, phát triển mối quan hệ hợp tác với các nhà sản xuất nước ngoài có công nghệ tiên
tiến, quan tâm đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển thị trường, xây dựng chiến
lược liên kết nội khối tạo chuỗi sản xuất lớn để có khả năng nhận những đơn hàng lớn.
- Các DN cũng cần tạo được giá trị gia tăng để tham gia các chuỗi sản xuất khu vực, chủ
động cập nhật thông tin về cam kết của các bên và tích cực so sánh, tận dụng các lợi ích của
FTA. Đặc biệt, các DN cũng cần chủ động tiếp cận, phản ánh và trao đổi thông tin với cơ quan
Chính phủ phản ánh ý kiến, nhu cầu của mình đưa ra đề xuất gợi ý để việc đàm phán mang lại
hiệu quả tốt nhất cho DN.
Bên cạnh đó, nhận thức và đảm bảo các tiêu chuẩn, các hàng rào kĩ thuật nhất là tại các thị

trường phát triển, mở rộng thị trường XK dựa trên các cam kết và lợi thế so sánh, tham gia sản
xuất kinh doanh theo phân khúc, theo mạng, cụm, chuỗi. Đặc biệt các DN phải chuyển dần từ
cách thức cạnh tranh bằng giá sang chú trọng cạnh tranh phi giá gắn với tiêu chuẩn, mẫu mã
giao dịch.
Đồng thời, đồng hành với Chính phủ để nắm thông tin về hội nhập, hiểu biết cơ sở pháp lí
và cơ chế giải quyết tranh chấp, tranh luận và thực thi nhằm đảm bảo hợp đồng kinh doanh và
quyền lợi của DN…
 Nỗ lực bằng giải pháp thích nghi
14
Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công
Thương) cho hay: Tới đây, Việt Nam sẽ phải cắt giảm thuế đối với các mặt hàng thường được
loại trừ ra khỏi phạm vi các hiệp định FTA truyền thống như: xăng dầu, thuốc lá. Chậm nhất
tới năm 2018, Việt Nam phải xóa bỏ các biện pháp hạn ngạch thuế quan đối với đường, muối,
trứng gia cầm và thuốc lá.
Bên cạnh đó, khi AEC hình thành, rất nhiều sáng kiến thuận lợi hóa thương mại quan
trọng như: Cơ chế hải quan một cửa ASEAN, hệ thống tự chứng nhận xuất xứ, hài hòa hóa
tiêu chuẩn và công nhận lẫn nhau sẽ được triển khai. Ngoài ra, ASEAN cũng đẩy mạnh việc
xử lý các biện pháp phi thuế quan và thúc đẩy cơ chế giải quyết tranh chấp. Về dịch vụ và đầu
tư, ASEAN hướng tới mức độ tự do hóa cao, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ, thông qua Hiệp
định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) và Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA).
Theo ông Lương Hoàng Thái, khi gia nhập vào AEC, nền kinh tế cũng như các ngành sản
xuất của Việt Nam sẽ đứng trước các cơ hội và thách thức lớn. Khi không còn những ngăn
cách về biên giới kinh tế, hàng hóa, dịch vụ và vốn được lưu chuyển tự do trong ASEAN thì
bất cứ doanh nghiệp hay nhà đầu tư ASEAN đều có cơ hội như nhau trong việc tận dụng, phát
huy ưu thế của thị trường chung 10 nước ASEAN. Để làm được việc này, cần theo dõi sát sao
các thông tin, lộ trình cam kết về AEC, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)
từ đó đưa ra định hướng đúng, xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú cho biết sau khi AEC hình thành, việc
không còn rào cản thuế quan, hay thuế suất bằng 0 là lợi ích to lớn nhất khi AEC định hình,
bởi đây chính là “liều thuốc bổ” kích thích xuất khẩu, thu hút đầu tư và tăng trưởng kinh tế của

các nước thành viên.
Tuy nhiên, nếu rào cản thuế quan được gỡ bỏ hoàn toàn và mang lại lợi ích kinh tế lớn thì
quy tắc xuất xứ lại nổi lên như một rào cản mới đối với doanh nghiệp. Bởi để được hưởng các
ưu đãi trên thì hàng hóa các nước trong khối ASEAN phải chứng minh được nguồn gốc xuất
xứ từ các nước này, theo tỷ lệ được quy định cụ thể đối với từng mặt hàng. Đây chính là sức
ép đối với các doanh nghiệp, phải có lộ trình thích nghi, thay đổi phù hợp.
Để đạt được các mục tiêu trên, theo Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú, Cộng đồng kinh tế
ASEAN cần tiếp tục được củng cố và phấn đấu trở thành trung tâm của mạng lưới sản xuất và
chuỗi cung ứng khu vực cũng như toàn cầu nhằm thúc đẩy hơn nữa tăng trưởng và hội nhập
15
kinh tế, tạo điều kiện cho ASEAN đạt đến trình độ phát triển cao hơn. Tới đây, khi tham gia
vào Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015, Việt Nam cần nỗ lực nhiều hơn để nâng cao vị thế của
mình; trong đó chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng, tuyên truyền phố biến là yếu tố quan trọng
và then chốt để phát triển bền vững./.
IV. KẾT LUẬN
Xây dựng Cộng đồng ASEAN là nhiệm vụ trung tâm và xuyên suốt của Hiệp hội. Đối với
Việt Nam AEC sẽ là cơ hội quý báu để Việt Nam nhanh chóng bắt nhịp vơi xu thế và trình độ
phát triển kinh tế của khu vực và thế giới. Do đó, Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam
cần tận dụng các cơ hội và vượt qua thách thức trong quá trình xây dựng AEC, hội nhập sâu
rộng hơn nữa nhằm nâng cao vai trò của mình trong quá trình phát triển và hoàn thiện của
ASEAN, dựa trên khuôn khổ pháp lý quốc tế và ASEAN phù hợp với pháp luật Việt Nam, vì
lợi ích của các bên cũng như của cả Hiệp hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban thư ký ASEAN (2011), Sổ tay kinh doanh trong cộng đồng kinh tế ASEAN, Jakarta,
tháng 11/2011.
[2]Hiệp định về thương mại hàng hóa ASEAN/ATIGA năm 2009.
[3] Trần Thị Tuyết Minh (2013), “Hướng tới hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN”,
/>[4] Trần Văn Thọ (2011), “Bẫy thương mại tự do ai chịu trách nhiệm”,
/>[5] Vũ Huy Hoàng, “Cộng đồng kinh tế ASEAN - Ưu tiên hội nhập kinh tế ASEAN”,
/>sitem_print_preview.

[6] Phạm Thị Thanh Bình (2010), “Triển vọng hình thành Cộng đồng ASEAN và vai trò của
Việt Nam ”, .
16

×