Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Chuyên Đề Lạm Phát Qua Tín Dụng Ở Việt Nam..DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.97 KB, 35 trang )

Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam

lời mở đầu
Từ năm 1921 đến 1923 giá cả hàng hoá ở Đức tăng 1500 tỷ lần so với
năm 1914. Con số này liệu có gợi cho bạn một sự liên hệ nào đó khơng. Điều
đó có nghĩa là vào năm 1914 người ta cầm tiền đi mua bánh mì và dùng giỏ
để xách bánh mì về. Nhưng đến năm 1923 người ta phải mang hàng giỏ tiền
đi để mua chỉ một cái bánh mì. Giá cả đã tăng lên đến mức chóng mặt.
Hơn nửa thế kỷ sau, vào những năm 80 của thế kỷ này chúng ta lại
chứng kiến những hậu quả hết sức nặng nề do lạm phát gây ra trên đất nước
Việt Nam. Có năm lạm phát đã lên tới 800%. Người ta tháo chạy khỏi đồng
tiền như là tránh né một căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, người bán hàng
đối xử với khách hàng như kẻ thù; hàng hoá khan hiếm, nạn đầu cơ tích trữ
hồnh hành phá hoại nền kinh tế...
Mọi vấn đề liên quan đến tiền đều thu hút được sự quan tâm của nhiều
người không chỉ của các nhà quản lý mà còn cả những người dân lao động
bình thường. Bởi vì bất cứ sự bất ổn về tiền nào đều có thể là nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng, dẫn đến tiêu cực. Lạm phát có nhiều biểu hiện khác
nhau, có nhiều nguyên nhân khác nhau trong nhiều trường hợp khác nhau.
Chính vì vậy có rất nhiều bài viết, bài nghiên cứu về lạm phát từ giai đoạn
này đến giai đoạn khác dường như không bao giờ chấm dứt.
Trong khuôn khổ một bài đề án môn học, em khơng có tham vọng đi
sâu phân tích tồn bộ tất cả các vấn đề về lạm phát mà chỉ có ý định phân tích
một khía cạnh nhỏ của lạm phát đó là: Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam.
Vấn đề tuy khơng cịn mới mẻ nhưng để lại cho chúng ta những bài học quý
báu do đó có thể có tác dụng nào đó đối với việc phòng và chống lạm phát
trong tương lai.
Bài viết được chia làm ba phần:





Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
Phần một: Tổng quan về lạm phát và tín dụng. Phần này sẽ trình bày
tóm tắt những vấn đề chung nhất của lạm phát và tín dụng, từ đó cố gắng đưa
ra mối quan hệ giữa lạm phát và tín dụng.
Phần hai: Trình bày thực trạng lạm phát ở Việt Nam thập kỷ 80, chính
là lạm phát qua tín dụng. Chính phủ Việt Nam đã chống lạm phát thành công
như thế nào?
Phần ba: Bài học kinh nghiệm rút ra từ cuộc lạm phát thập kỷ 80 và
một số kiến nghị nhỏ nhằm tạo tiền đề kiểm soát lạm phát trong dài hạn.




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam

PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT VÀ TÍN DỤNG

I-/

LẠM PHÁT

1-/

Khái niệm
Giả sử vào hiện tại bạn đang sở hữu trong tay một số tiền là 30 triệu

đồng và bạn dự định mua một cái xe máy để chạy nhưng bạn lại chần chừ
chưa quyết định vì bạn nghĩ rằng nếu đem gửi số tiền vào ngân hàng với lãi

suất 12%/ năm,sáu tháng sau bạn có thể kiếm một khoản tiền kha khá rồi sau
đó mua xe máy cũng chưa muộn.
Sau 6 tháng ngân hàng trả lại bạn cả vốn và lãi là :
30(1+6%) = 31,8 triệu đồng.
Như vậy bạn đã kiếm lãi được 1,8 triệu từ vụ đầu tư này và yên chí cầm
tiền đi mua xe máy. Nhưng cửa hàng xe máy đột nhiên thông báo cho bạn
rằng giá của xe máy đã tăng lên 32 triệu đồng. Như vậy bạn vẫn chưa đủ tiền
mua xe. Tất nhiên không mua được xe thì khơng sao nhưng rõ ràng bạn đã bị
bất ngờ và tiếc nuối. Ở đây chúng ta có thể tạm thời chưa bàn đến vì sao giá
xe lại tăng nhưng qua ví dụ nhỏ trên ta có thể hình dung ra một phần thế nào
là lạm phát.
Vấn đề lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều lần và cũng có nhiều
quan điểm khác nhau về lạm phát. Trong khn khổ bài viết khơng có ý phân
tích ưu nhược điểm của từng quan điểm mà chỉ muốn giới thiệu một vài quan
điểm về lạm phát của các nhà kinh tế học và qua đó đi sâu vào quan điểm có ý
nghĩa quan trọng đối với bài viết
1.1-Quan điểm của C.Mác về lạm phát




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
Mác cho rằng lạm phát là do ý chí chủ quan của Nhà nước. Nhà nước
tạo ra lạm phát nhằm hai mục đích đó l bù đắp cho bội chi ngân sách và bảo
đảm lợi ích của Nhà nước. Bởi vì Mác cho rằng lạm phát là bạn đường của
chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản đã bần cùng hóa nhân dân lao động bằng giá
trị thặng dư, nay lại chủ động gây ra lạm phát để bóc lột một lần nữa.
1.2-Quan điểm lạm phát giá cả
Theo quan điểm của những nhà kinh tế học thì lạm phát là hiện tượng
giá cả chung của các mặt hàng tăng lên. Nếu chỉ có một vài mặt hàng tăng giá

ở thời điểm nhất định thì điều đó chưa đủ để gây ra lạm phát. Mà ở đây lạm
phát chỉ có thể xẩy ra và chúng ta có thể nhận thấy khi giá cả chung tăng lên
và biểu hiện trong một thời gian dài.
1.3-Quan điểm về lạm phát tiền tệ
Tiền là thước đo giá trị của hàng hóa và tiền cũng là một loại hàng hóa
vì nó cũng do sức lao động của con người tạo ra và thỏa mãn nhiều loại nhu
cầu khác nhau của con người. Như vậy thì nó cũng phải có giá cả. Giá cả của
tiền là số lượng hàng hóa mà đơn vị tiền có thể mua được. Như vậy tiền cũng
phát có lạm phát. Tuy vậy ta khơng nên lầm lẫn giữa lạm phát theo nghĩa đen
“lạm dụng phát hành” tức là tạo ra quá nhiều tiền hơn mức cần thiết. Mà ở
đây chúng ta cần hiểu lạm phát tiền tệ theo cách khác. Khi giá cả chung của
các loại hàng hóa khác tăng lên thì ta thấy rằng với mỗi đơn vị tiền sẽ mua
được ít hàng hóa hơn. Như vậy tức là tiền đã bị mất giá. Quan điểm lạm phát
tiền tệ chính là ở chỗ đó. Lạm phát tiền tệ chính là tình trạng mất giá của đồng
tiền. Đây là quan điểm có ý nghĩa rất quan trọng đối với bài viết mà nguyên
nhân của nó sẽ được trình bầy ở phần sau. Để làm rõ quan điểm này chúng ta
cần xem xét một ví dụ cụ thể.
Đầu năm 1988 ở Việt Nam, giá của một cái bánh rán là 1 đồng nhưng
đến cuối năm giá của nó đã tăng lên 4 đồng. Nếu bạn có 4 đồng vào đầu năm



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
thì bạn có thể ăn được 4 cái và như vậy là đủ no. Nhưng với số tiền như vậy
bạn chỉ có thể ăn được 1 cái ở thời điểm cuối năm. Như vậy giá trị của 4 đồng
tiền đã giảm hẳn. Giá của một đồng được tính thơng qua bánh rán là 1/4 cái
bánh rán. Đó chính là một trong những biểu hiện điển hình nhất của lạm
phát : giá cả của hàng hóa tăng lên hay sức mua của đồng tiền giảm sút.
2-/


Nguyên nhân của lạm phát
Lạm phát có rất nhiều biểu hiện và trong bất kỳ thời kỳ nào, thời đại

nào đều có lạm phát. Chính vì vậy mà ngun nhân gây ra lạm phát cũng
nhiều. Tuy vậy hiện nay các nhà kinh tế học cũng đang nghiêng dần về quan
điểm có 3 ngun nhân chính gây ra lạm phát đó là : cầu kéo, chi phí đẩy và
lạm phát do bội chi ngân sách. Sở dĩ có 3 nguyên nhân trên cũng là do người
ta đã chiêm nghiệm trên thực tế đã có những đợt lạm phát do chúng gây ra.
Tuy vậy nguyên nhân sâu xa gây ra lạm phát thực sự ít nhiều liên quan đến
vấn đề tiền tệ.
2.1-Lạm phát do cầu kéo.
Cơ sở của lý thuyết này cho rằng khi mức cung tiền tăng lên sẽ làm cho
lượng tiền trong lưu thông tăng lên. Thu nhập của người lao động cũng vì thế
mà tăng lên. Khi đó họ có nhu cầu mua sắm nhiều hơn, tiêu thụ nhiều hàng
hóa hơn, quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần hơn...tất cả những đIều
đó làm cho tổng cầu tăng lên nhanh chóng. Và nếu như tổng cung cũng tăng
lên với tốc độ như vậy thì khơng có vấn đề gì thì sẽ khơng cólạm phát. Nhưng
chúng ta đã biết năng lực sản xuất của xã hội cũng có hạn, đến khi nào tất cả
các yếu tố sản xuất đã được huy động vào sản xuất một cách tối đa, tốc độ
tăng của tổng cung sẽ chậm lại. Khi đó tốc độ tăng của tổng cung sẽ nhỏ hơn
tốc độ tăng của nhu cầu. Hàng hóa có hạn, nhu cầu tăng buộc giá cả phải tăng
lên. Thực chất đây là vấn đề lạm phát giá cả.




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam

PL


S
S1

P1
P
D1
D
Q

Q1

Q

2.2-Lạm phát do chi phí đẩy.
Chi phí sản xuất là yếu tố rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, hãng nào có chi phí thấp thì sẽ tồn tại và
phát triển và ngược lại. Khi chi phí sản xuất tăng lên các hãng buộc phải giảm
bớt sản lượng của mình vì lợi nhuận giảm. Khi đó sẽ làm cho đường tổng
cung bị suy giảm, hàng hóa bị thiếu hụt, giá cả tăng lên gây ra lạm phát. Ai
cũng biết cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1972-1973 đã làm rất nhiều
hãng bị phá sản, công nhân bị sa thải hàng loạt, lạm phát tăng lên với tốc độ
chóng mặt, nền kinh tế thế giới bị khủng hoảng nặng nề. Đó là điển hình của
lạm phát do chi phí đầy, một cú sốc bất ngờ làm tổng cung suy giảm đột ngột
sẽ gây ra lạm phát. Tuy vậy chúng ta hãy bình tĩnh xem xét lại vấn đề. Nếu
như tổng cung suy giảm nhanh như vậy thì tổng cầu cũng suy giảm nhanh liệu
lạm phát có thể tăng nhanh được khơng. Nếu như ngân hàng thay vì cung cấp
thêm tiền vào lưu thông làm sức mua tăng lên trong lúc tổng cung suy giảm
mà thực hiện thắt chặt tiền tệ, giảm mức cung tiền thì lạm phát có xẩy ra
khơng. Câu trả lời là chưa chắc đã xẩy ra. Như vậy mặc dù đúng là có những
nguyên nhân khách quan gây ra lạm phát như cú sốc dầu mỏ, tăng lương




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
nhưng nếu như chính sach tiền tệ được sử dụng hợp lý thì sẽ kìm hãm được
lạm phát. Như vậy chỉ có tiền tệ mới là nguyên nhân sâu xa của lạm phát.
2.3-Bội chi ngân sách và vấn đề lưu thông tiền tệ.
Ngân sách Nhà nước có thu và có chi. Khoản thu chính của ngân sách
Nhà nước là thuế được áp dụng đối với tất các các ngành kinh tế trong cả
nước. Nhà nước sẽ sử dụng các khoản thu ngân sách này để thực hiện đầu tư,
viện trợ, xây dựng cơ sở hạ tầng... gọi là chi ngân sách. Nếu như các khoản
chi vượt quá thu thì ngân sách Nhà nước sẽ bị bội chi. Như vậy thì Nhà nước
lấy đâu ra tiền để bù đắp vào số bội chi đó. Có rất nhiều cách để thực hiện
như vay nợ nước ngoài, vay trong nước, tăng thuế, hoạt động thị trường mở
và cả in thêm tiền.
Vay nợ nước ngoài và vay trong nước rồi cũng phải trả, không thể bù
đắp cho thâm hụt mãi được. Nếu tăng thuế sẽ dẫn tới tình trạng trốn thuế, lậu
thuế, kìm hãm sản xuất, khơng những khơng tăng thu mà có thể cịn có tác
dụng ngược. Cách tốt nhất là hoạt động trên thị trường mở, bán trái phiếu cho
công chúng, tăng mức cung tiền mà lại khơng gây ra lạm phát vì trái phiếu
ln được đảm bảo trả nợ bởi Nhà nước. Thực chất Nhà nước không phải trả
nợ mà chỉ việc phát hành thêm trái phiếu với số lượng lần sau lớn hơn lần
trước để trả nợ mà thôi. Đây là con đường tốt nhất để bù đắp bội chi.
Hãy xem xét lại việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Chúng ta đã
biết nguyên tắc phát hành tiền phải tương ứng với khối lượng hàng hóa được
sản xuất ra. Như vậy giá trị đơn vị tiền tệ sẽ được bảo đảm vì nó được định
lượng bởi một lượng hàng hóa nhất định. Nhưng khi có nhiều đồng tiền được
phát hành vào lưu thông mà không căn cứ vào khối lượng hàng hóa được sản
xuất ra thì sẽ có vấn đề. Nhiều tiền hơn nhưng khối lượnghàng hóa khơng đổi
thì giá trị đồng tiền sẽ bị giảm xuống, giá cả sẽ tăng lên gây ra lạm phát. Nếu

tình hình này kéo dài trong nhiều năm thì lạm phát sẽ càng trầm trọng. Khi
đồng tiền bị mất giá thì sẽ khơng ai muốn giữ tiền nữa, họ chỉ muốn đẩy thứ



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
tài sản nguy hiểm đó đi nhật nhanh và mua hàng hóa trích trữ càng nhiều càng
tốt làm cho giá cả càng tăng, tốc độ lưu thông tiền tệ càng cao. Quy luật lưu
thông tiền tệ đã chỉ ra rằng tốc độ lưu thông tiền tệ tỉ lệ thuận với lạm phát.
Tốc độ lưu thông tiền tệ càng cao, mức cung tiền càng lớn và lạm phát càng
lớn hơn nữa.
MV = PQ
Mức cung tiền tăng, V tăng, Q không đổi như vậy Delta(P) =
Delta(MV): lạm phát tăng tới cấp số nhân, cấp số mũ.
Bội chi ngân sách mà được bù đắp bằng máy in sẽ là rất nguy hiểm.
Mức cung tiền tăng vọt là con đường ngắn nhất gây ra lạm phát. Nguyên nhân
sâu xa của lạm phát không phải là do bội chi ngân sách mà là do cách người
ta bù đắp bội chi ngân sách, là do vấn đề tiền tệ, do mức cung tiền gây ra.
Như vậy lạm phát qua ba ngun nhân trên ít nhiều có dính dáng đến
vấn đề tiền tệ, đến mức cung tiền dù trực tiếp hay gián tiếp. Vấn đề bội chi
ngân sách và mức cung tiền sẽ được đề cập thường xuyên, xuyên suốt bài viết
vì nó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nội dung của bài.
3-/

Hậu quả của lạm phát.
Phần trên chúng ta đã nghiên cứu một cách hết sức tổng quát về lạm

phát và nguyên nhân gây ra lạm phát. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì lạm
phát thực sự chỉ là vấn đề quá bình thường. Người ta nghiên cứu lạm phát ở
đây khơng phải nó chỉ đơn thuần là vấn đề tăng giá mà là ở chỗ trên thực tế

tại sao người ta phải nghiên cứu nó. Lạm phát đã gây ra những hậu quả hết
sức nghiêm trọng đối với nền kinh tế xã hội như thế nào. Không phải ngẫu
nhiên mà cựu Thủ tướng Anh bà M.Thatcher đã từng tuyên bố lạm phát là kẻ
thù chung của tất cả các nền kinh tế trên thế giới. Nghiên cứu lạm phát để
chúng ta thấy được tác hại mà nó gây ra đối với xã hội là như thế nào để từ đó
có biện pháp phịng chống.



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
3.1-Lạm phát kìm hãm phá hoại nền sản xuất xã hội.
Giá trị sản lượng của một xã hội tạo ra được đo bằng tổng sản lượng
của nền kinh tế nhân với giá cả chung. Như vậy có 2 yếu tố làm tăng tổng giá
trị sản lượng là Q và P. Sẽ là rất tốt nếu như tổng sản lượng tăng làm tổng giá
trị sản lượng của nền kinh tế. Điều này cho thấy nền kinh tế đang ở trong giai
đoạn phát triển tốt.
Tuy vậy chính lạm phát đã làm cho người ta đơi khi lầm tưởng về một
sự gia tăng tích cực của tổng giá trị hàng hóa. Sản lượng khơng thay đổi mà
chỉ có sự tăng lên trong giá cả chung.
Chúng ta đã biết lạm phát có mối quan hệ trực tiếp với lãi suất theo
công thức:
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỉ lệ lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa do các Ngân hàng quản lý và điều chỉnh. Vấn đề
mà người gửi tiền quan tâm là số tiền thực tế mà họ nhận được khi đêm gửi
tiền vào Ngân hàng. Họ không thể chấp nhận và không thể gửi tiền và nếu
như phần lợi nhuận của họ bị giảm đi. Vì vậy khi lạm phát tăng lên, để lãi
suất thực không đổi buộc các Ngân hàng phải tăng lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất danh nghĩa tăng lên sẽ đẩy lãi suất cho vay tăng lên vì nguyên
tắc của Ngân hàng là bao giờ lãi suất cho vay cũng cao hơn lãi suất huy động
vốn. Lãi suất cho vay có ảnh hưởng trực tiếp tới nhu cầu đầu từ làm nhu cầu

đầu tư giảm. Từ đó làm cho sản lượng của nền kinh tế giảm sút.
Mặt khác đối với các doanh nghiệp trong đIều kiện nền kinh tế có lạm
phát cao, đầu tư vào nền kinh tế là rất rủi ro bởi vì sau khi bán được sản
phẩm, số tiền họ thu về trừ đi tỉ lệ lạm phát có thể cịn ít hơn số vốn họ đã bỏ
ra đầu tư ban đầu. Vì vậy các doanh nghiệp sẽ tự cắt giảm sản lượng làm cho
sản lượng của nền kinh tế bị giảm sút. Thay vào đó các doanh nghiệp sẽ đầu




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
cơ nguyên vật liệu, ít thay đổi giá trị, dễ kiếm lời hơn làm cho hàng hóa ngày
càng trở nên khan hiếm, càng lên giá và đẩy tỉ lệ lạm phát lên cao hơn.
Như vậy lạm phát đã phá hoại nền sản xuất xã hội làm cho đầu tư giảm
sút, sản lượng liên tục giảm. Đây là điều rất không mong muốn của bất cứ
chính phủ nào.
3.2-Lạm phát và phân phối thu nhập.
Hãy thử xem xét một ví dụ để xem lạm phát ảnh hưởng tới thu nhập
như thế nào. Giả sử bạn có một khoản thu nhập hàng tháng đều đặn là 1 triệu
đồng. Với khoản thu nhập đó bạn phải chi tiêu để phục vụ cuộc sống. Giá của
một kg gạo là 4000 đồng. Nếu chúng ta giả sử tất cả các nhu cầu hàng ngày
đều được “qui ra thóc” thì một tháng bạn có thể mua được :
1.000.000 : 4.000 = 250 kg gạo
Nhưng đến tháng sau giá trị của 1 kg gạo đột nhiên tăng lên 5000 đồng.
Như vậy cũng với thu nhập 1 triệu đồng bạn chỉ có thể mua :
1.000.000 : 5.000 = 200 kg gạo
Trong một khoảng thời gian ngắn hạn, thu nhập của bạn khó có thể thay
đổi do hợp đồng lao động đã được kí với một mức lương nhất định. Như vậy
mức sống của bạn đã bị giảm sút do lạm phát gây ra. Trong điều kiện nền kinh
tế có lạm phát, những người làm công ăn lương sẽ bị thiệt do thu nhật doanh

nghĩa là cố định. Họ vừa phải chịu thuế thu nhập, vừa phải chịu thêm một thứ
thuế vơ hình nữa đó là lạm phát - một thứ thuế dã man nhất trong các loại thuế.
Tình trạng cũng tương tự như đối với người gửi tiền và người vay tiền.
Nếu bạn gửi tiền vào ngân hàng với một số tiền là 3 triệu đồng. Ngân hàng thỏa
thuận với bạn sau 1 năm hoàn trả cả vốn lẫn lãi với lãi suất danh nghĩa là 20%.
Sau một năm số tiền bạn nhận được là :
3.000.000 (1+20%) = 3.600.000



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
Bạn dự tính mức lạm phát cuối năm chỉ là 10% thì giá hàng hóa chỉ
tăng từ 3 triệu lên 3,3 triệu. Như vậy bạn để ra được 300.000 đồng.
Nhưng lạm phát cuối năm lại là 30% tức là giá của hàng hóa lúc này là
3,3 triệu nữa mà là :
3.000.000 (1+30%) = 3.900.000
Như vậy bạn thiệt 300.000 đồng.
Cịn về phía Ngân hàng thì sao. Nếu như họ đem 3 triệu đồng của bạn
đầu tư vào một lĩnh vực nào đó để cuối năm thu được 3,9 triệu. Họ trả lại bạn
3,6 triệu và để ra 300.000. Như vậy khoản 300.000 đáng lẽ ra là của bạn thì
lại chảy vào túi ngân hàng.
Lạm phát tăng gây thiệt hạI cho những người giữ tiền và đem lại thuận
lợi cho những người đi vay tiền. Đó là một sự bất cơng.
Có thể nói lạm phát đã phân phối và phân phối lại thu nhập trong nền
kinh tế một cách bất hợp lý giữa các nhóm và các tầng lớp dân cư.
3.3-Lạm phát làm phát sinh nhiều tiêu cực xã hội.
Lạm phát làm nảy sinh nhiều tiêu cực của xã hội đặc biệt làm nạn đầu
cơ tích trữ .Sự thừa tiền trong lưu thơng đã đẩy giá hàng hóa lên cao. Lúc này
giá trị của đồng tiền giảm sút rất nhiều, hàng hóa trở nên khan hiếm hơn bao
giờ hết. Đây là thời điểm thuận lợi để bọn đầu cơ tích trữ mua vào thật nhiều

hàng hóa để tạo ra sự khan hiếm hơn nữa, đẩy giá lên cao. Đến thời điểm
thuận lợi chúng tung ra bán với giá chênh lệch để kiếm lời.
Mặc dù lượng tiền mặt trong lưu thông là rất lớn nhưng Nhà nước lại
luôn luôn thiếu tiền mặt để bù đắp bội chi ngân sách và tín dụng. Mặt khác
phải chi trả tiền lương cho cán bộ cơng nhân viên, do đó lại phải in thêm tiền.
Do đó đã làm cho lượng tiền mặt trong lưu thơng tăng lên. Bên cạnh đó sự
mất giá của đồng nội tệ làm tình trạng dùng vàng và đô la làm phương tiện




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
lưu thơng có xu hướng ngày càng mở rộng. Ngồi bn bán hàng hóa chênh
lệch giá, người ta cịn bn bán cả séc và tiền ngoại tệ, đẩy tỉ giá trên thị
trường chợ đen lên cao, khơng có lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Có thể nói lạm phát đã ảnh hưởng hết sức sâu sắc đến mọi mặt của xã
hội. Vấn đề này nó liên quan đến tiền, đến kinh tế, đến mức sống nên nó là sự
quan tân rất lớn của các chính phủ của các nước. Khơng thể có một nền kinh
tế phát triển ổn định nếu như không kiểm sốt được lạm phát.

II-/ TÍN DỤNG
1-/

Bản chất và chức năng của tín dụng.
Ngày nay thuật ngữ tín dụng được sử dụng ngày càng nhiều trong kinh

tế và trong cả sinh hoạt hàng ngày như quỹ tín dụng, vốn tín dụng...Một câu hỏi
đặt ra là tín dụng là gì ? Tín dụng thực chất đó là quan hệ vay mượn, tạm thời
sử dụng vối của lẫn nhau theo nguyên tắc hoàn trả và tin tưởng. Tín dụng có
thể nói ra đời từ rất lâu vì quan hệ vay mượn được phát sinh từ rất sớm do nhu

cầu của cuộc sống. Trong cuộc sống đời thường ở xã hội Việt Nam, sự vay
mượn là rất thường gặp nhưng có một điều lạ là những người bạn bè quen biết
vay mượn tiền của nhau nhưng khơng có lãi suất. Tự dưng đem tiền của mình
cho người khác dùng và lại “mua” thêm một nỗi lo sợ khơng địi được tiền, đến
khi địi được tiền thì rất mừng mặc dù rõ ràng đó là tiền của mình bỏ ra. Đó là
điều khó hiểu. Cho vay mượn là phải có lãi suất, tất nhiên nó khác với vay
nặng lãi là lãi suất thấp và có thể thay đổi tùy thuộc vào mối quan hệ giữa hai
bên. Mặt khác trong quan hệ tín dụng, có vay phải có trả, phải trả đúng hạn. Có
như vậy mới duy trì được quan hệ tín dụng và tình cảm giữa hai bên.
Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp và phục vụ nhu
cầu về vốn của các doanh nghiệp. Vì vậy để hiểu bản chất của tín dụng cần
phải xuất phát từ đặc điểm sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Mỗi
một doanh nghiệp đều có một chu kỳ sản xuất kinh doanh của mình. Đầu tiên



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
là mua nguyên vật liệu, chi phí nhân cơng, tài sản cố định...đầu tư để sản xuất
ra hàng hóa, sau đó đem hàng hóa ra bán và thu lãi. Các doanh nghiệp sản xuất
ra các loạI hàng hóa khác nhau, thời gian tiêu thụ khác nhau nên quá trình luân
chuyến vốn cũng khác nhau. Do sự không trùng khớp về thời gian nên không
phải lúc nào doanh nghiệp cũng đủ vốn để đầu tư sản xuất, trả lương...Tất yếu
có những doanh nghiệp do chưa tiêu thụ được hàng hóa nên chưa thu được tiền
nhưng đã đến kỳ trả lương, nộp thuế và các khoản chi phí khác...Các khoản chi
này lớn hơn số vốn hiện có tại doanh nghiệp và doanh nghiệp phải đi vay vốn
để chi trả các nhu cầu này. Như vậy đã có nhu cầu về vốn.
Mặt khác cũng có những doanh nghiệp tiêu thụ hàng rất nhanh, thu
được nhiều tiền sớm trước khi kết thúc chu kì sản xuất kinh doanh, chưa phải
trả tiền nhân công, chưa pảhi nộp thuế, họ có một số tiền tạm thời nhàn rỗi. Vì
vậy có nhu cầu cho vay vốn để kiếm lời. Như vậy đã có cung về vốn.

Cung và cầu về vốn đã có và khi gặp nhau thì tất yếu sẽ diễn ra hoạt
động vay và cho vay. Chất xúc tác của quan hệ tín dụng là lãi suất. Lãi suất
phải đủ cao để thỏa mãn nhu cầu của người cho vay nhưng cũng không quá
cao để bảo đảm cho người đi vay có khả năng trả nợ và thu được lãi nhờ sử
dụng đồng vốn đi vay đó.
Từ sự phân tích trên ta thấy thực chất tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm
bổ sung vốn thiếu hụt của các doanh nghiệp. Đó là quan hệ kinh tế nhằm giải
quyết hai loại nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó về bản chất nó là quan hệ
bình đẳng, cùng có lợi.
Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Nó xuất phát từ nhu cầu
của hoạt động sản xuất kinh doanh nên có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, góp phần thúc đẩy quy mơ của tái sản xuất, tăng vòng quay của tư bản.
Với chất xúc tác là lãi suất, tín dụng kích thích các tổ chức kinh tế và dân cư
trong cơ cấu các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế thực hiện tiết kiệm,




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi hiện đang phân
tán ở khắp mọi nơi.
Trong lịch sử phát triển của tín dụng do đặc điểm cũng như nhu cầu về
vốn, về thời gian, cách thức vay vốn...đã hình thành rất nhiều loại tín dụng
trong đó có 3 loại chính phổ biến nhất là tín dụng thương mại, tín dụng ngân
hàng, tín dụng Nhà nước. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng loại tín dụng trên.
2-/

Các loại tín dụng phổ biến-lịch sử hình thành và phát triển.
2.1-Tín dụng thương mại.
Tín dụng thương mại ra đời từ rất sớm, nó được hình thành từ sản xuất


và lưu thơng hàng hóa. Những doanh nhân trong quan hệ làm ăn với nhau
khơng phải lúc nào cũng có sẵn tiền để thanh tốn ngay vì vậy họ ký giấy nợ
và hẹn ngày trả. Thực chất của tín dụng thương mại chính là hoạt động mua
bán chịu. Tín dụng thương mại xuất hiện làm đẩy nhanh vịng quay của hàng
hóa và lưu thông tiền tệ, giúp cho sản xuất kinh doanh được thơng suốt. Tuy
vậy trong quan hệ tín dụng thương mại không phải không bộc lộ những hạn
chế nhất định. Do mỗi doanh nghiệp sản xuất ra những loại hàng hóa khác
nhau, chu kì sản xuất kinh doanh là khác nhau nên nhu cầu đi vay và cho vay
cũng như thời hạn cho vay và thời hạn trả thường xuyên không trùng khớp
với nhau. Không phải lúc nào một doanh nghiệp cần cho vay cũng tìm được
người muốn vay đúng thời điểm, số vốn và số lãi như mong muốn và ngược
lại đối với người đi vay cũng vậy. Vì vậy việc quy định tạm thời hạn nợ đối
với cả hai bên trong quan hệ tín dụng thương mại tương ddối khó khăn,
thường xun khơng trùng khớp với nhau dẫn đến nhu cầu thực hiện giá trị
của kỳ phiếu thương mại trước thời hạn.
2.2-Tín dụng Ngân hàng.
Các Ngân hàng thương mại lúc đầu với tư cách là những người giữ hộ
tiền và chịu trách nhiệm thanh toán hộ thân chủ. Như vậy trong tay họ lúc nào



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
cũng có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi, họ muốn đem cho vay để kiếm lợi
nhuận từ khoản vốn nhàn rỗi đó. Trong khi đó các doanh nghiệp trong q
trình sản xuất hoạt động kinh doanh có lúc rất cần tiền nhưng trong tay họ lại
chỉ có một mớ kì phiếu thương mại chưa đến hạn thanh tốn. Vì vậy họ có
nhu cầu cầm cố, vay tiền từ số kì phiếu đó. Sự gặp gỡ giữa hai loại nhu cầu
giữa Ngân hàng và các chủ doanh nghiệp dẫn đến một loại hình quan hệ tín
dụng mới. Đó là quan hệ tín dụng Ngân hàng: Ngân hàng cho các doanh

nghiệp vay tiền dưới hình thức chiết khấu các kì phiếu thương mại. Tín dụng
ngân hàng có nguồn gốc từ tín dụng thương mại. Trải qua thời gian dài, phạm
vi lưu thông cũng như khối lượng lưu thơng ngày càng tăng, kì phiếu thương
mại đã được chuyển thành tiền tín dụng. Ngân hàng chủ động phát hành ra
tiền tung vào lưu thông, số tiền đó được bảo đảm bằng một khối lượng vàng
nhất định hoặc một tỉ lệ tăng trưởng nhất định của nền kinh tế.
Nếu như trong tín dụng thương mại, các doanh gnhiệp muốn vay tiền
đều phải trực tiếp gặp nhau thoả thuận đơi khi rất khó khăn và rất mất thời
gian do sự thiếu ăn khớp về nhu cầu. Nhưng trong quan hệ tín dụng ngân
hàng đã khắc phục được nhược điểm đó của tín dụng thương mại doanh
nghiệp muốn vay bất cứ số tiền nào, bất cứ thời đIểm nào miễn là thoả mãn
được các quy định của Ngân hàng. Quy mơ tín dụng ngày càng tăng thơng
qua hoạt động tạo tiền và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Ngân hàng
càng cho vay được nhiều tiền thì càng có lãi. Tuy vậy đIều này cũng rất nguy
hiểm vì quy mơ tín dụng q lớn sẽ gây ra lạm phát, đó chính là điều mà
chúng ta khơng mong muốn.
2.3-Tín dụng Nhà nước
Bên cạnh hai loại hình tín dụng trên cịn có một loạI hình tín dụng nữa
có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế đó là tín dụng Nhà nước. Đó
cũng là tín dụng nhưng là quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tầng lớp dân
cư, với các tổ chức, đơn vị kinh tế. Sở dĩ có tín dụng Nhà nước vì nó có liên



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
quan đến ngân sách Nhà nước. Nhà nước thu thuế từ các đơn vị kinh tế để
thực hiện chi tiêu và phân phối lại thu nhập. Tuy vậy nếu như Nhà nước có
nhu cầu chi tiêu quá lớn thì sẽ làm cho ngân sách Nhà nước bị bội chi. Nhà
nước lấy đâu ra tiền để thực hiện các khoản chi tăng thêm đó. Có rất nhiều
cách đặc biệt là tăng thuế.Tuy nhiên tăng thuế chỉ có thể thực hiện đến một

giới hạn nào đó nếu khơng doanh thu thuế sẽ giảm. Cịn một cách nữa đó là đi
vay. Nhà nước có thể thực hiện rất nhiều cách vay trong đó có phát hành ra
trái phiếu bán cho cơng chúng, vay nước ngồi và vay nợ Ngân hàng bằng
cách đem cầm cố trái phiếu tại Ngân hàng. Quan hệ vay mượn này đều được
thực hiện trên ngun tắc có lãi và hồn trả sịng phẳng đúng thời hạn. Tín
dụng Nhà nước phát triển cùng với sự phát triển của Nhà nước hiện đại và
ngày càng trở thành nguồn bù đắp cho ngân sách Nhà nước .
Tuy vậy cách thức trả nợ của tín dụng Nhà nước mới là điều đáng quan
tâm, điều này sẽ được trình bầy dưới đây, chúng ta sẽ hiểu được lạm phát
được hình thành qua con đường tín dụng như thế nào.

III-/ VẤN ĐỀ LẠM PHÁT QUA TÍN DỤNG.
Lạm phát là sự tăng giá cả, là sự giảm sức mua của đồng tiền. Tín dụng
là quan hệ vay mượn trong nền kinh tế. Hai vấn đề này thoạt nghe có vẻ như
khơng hề có mối liên hệ với nhau. Nhưng chúng lại có mối liên hệ với nhau
rất chặt chẽ vì chúng đều có liên hệ với tiền tệ, với lưu thông tiền tệ và mức
cung tiền.
Lạm phát qua con đường tín dụng Nhà nước.
Như ở trên chúng ta đã trình bầy, có nhiều con đường để Nhà nước trả
nợ tín dụng. Tăng thuế là một biện pháp nhưng chúng ta thử xem xét liệu tăng
TR
thuế có đem lại kết quả mong muốn hay không.


0

t*

Tỷ lệ thuế - thuế suất



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam

TR: Doanh thu thuế
Nếu t tăng lên > t* thì TR sẽ giảm.
Mặt khác T = f(Y)
Yd = Y - T
Yd = S + C suy ra S + C = Y - T
Mà một phần tiết kiệm sẽ được chuyển thành đàu tư I. T tăng lên làm cho
S giảm do vậy I cũng giảm. I giảm làm cho Y giảm, từ đó làm cho T giảm.
Do vậy đối với một ngân sách bị thâm hụt lớn thì tăng thuế khơng phải
là biện pháp tốt.
Thực ra nuếu như trong đIều kiện nền kinh tế thị trường phát triển, thị
trường chứng khoán phát triển Nhà nước không phảI trả nợ thực sự mà chỉ
việc in ra thêm trái phiếu với quy mô lần sau lớn hơn lần trước. Đây là con
đường tốt nhất nhưng chúng ta không bàn đến ở đây.
Bước đường cùng chính là Nhà nước trả nợ bằng cách in thêm tiền vào
lưu thông. Chúng ta đã biết, việc phát hành tiền được kiểm soát rất chặt chẽ,
khối lượng tiền phát hành ra phải căn cứ vào khối lượng hàng hóa được sản
xuất ra trong cung thời kì để đảm bảo sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả.
Nhưng Nhà nước khơng căn cứ vào khối lượng hàng hóa được sản xuất ra mà
cứ in tiền vào lưu thông sẽ đẩy mức cung tiền lên nhanh chóng.
Theo quy luật lưu thông tiền tệ, mức cung tiền tăng tỉ lệ thuận với tốc
độ tăng giá và lượng hàng hóa. Nếu như khối lượng hàng hóa khơng tăng




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
hoặc có tốc độ tăng chậm thì buộc giá cả hàng hóa phải tăng lên tức là gây ra

lạm phát. Khối lượng tiền tệ tăng lên làm sức mua của đồng tiền giảm sút.
Khơng ai có thể lưu giữ một thứ tài sản ngày càng hao hụt đi về giá trị nên họ
chỉ muốn đẩy nó đi càng nhanh càng tốt và mua hàng hóa và ngoại tệ về dự
trữ. Tốc độ lưu thông tiền tệ tăng lên. Quy luật lưu thông tiền tệ cũng chỉ ra
rằng lạm phát tỉ lệ thuận với tốc độ lưu thông tiền tệ. Mức cung tiền tăng, tốc
độ lưu thông tiền tệ cũng tăng làm lạm phát tăng lên gấp bội.
Như một con bạc say máu, càng thua thiệt, càng thâm hụt thì Chính phủ
càng tiếp tục in tiền vào lưu thông với quy mô lớn hơn trước đẩy lạm phát
tăng lên và triền miên trong nhiều năm như một căn bệnh xã hội . Trong kinh
tế học người ta có câu “khơng có cái gì là khơng có giá của nó”.Lạm phát
tăng cao kéo theo khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng, thất nghiệp tăng,
đời sống nhân dân giảm sút..Đây không phải là điều mà một Chính phủ mong
muốn nhưng họ đã gián tiếp thực hiện điều đó do năng lực quản lý yếu kém
của mình.
Rõ ràng ở đây người ta đã lạm dụng chức năng phát hành tiền của Ngân
hàng trung ương để tùy tiện phát hành ra những tờ giấy bạc thừa phục vụ cho
nhu cầu chi tiêu khơng giới hạn của mình. Người gánh chịu những hậu quả do
lạm phát trầm trọng gây ra lại là người dân, là toàn xã hội.
Đến đây, kết thúc phần lý thuyết cơ bản về lạm phát và tín dụng,
chuyển sang phần “Thực trạng lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn và
chúng ta đã chống lạm phát như thế nào”




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam

Phần 2
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM QUA CÁC GIAI
ĐOẠN VÀ CHÚNG TA ĐÃ CHỐNG LẠM PHÁT NHƯ TH NÀO


Phần trên đã trình bầy khá cụ thể về lạm phát và tín dụng và mối quan
hệ giữa chúng. Qua đó chúng ta đã có những hiểu biết cơ bản tại sao lạm phát
lại xảy ra khi ngân sách bị bội chi. Nhưng đó mới chỉ đơn thuần là lý thuyết.
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu những biểu hiện, thực trạng của lạm
phát ở Việt Nam để có thể hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề này. Phần này được
chia làm 3 giai đoạn :
- Giai đoạn lạm phát 1981-1988
- Giai đoạn chống lạm phát 1989-1992
- Giai đoạn tái lạm phát 1994-1995.
a-Giai đoạn lạm phát 1981-1988.
Giai đoạn 1976-1980 lạm phát ở Việt Nam là lạm phát ngầm. Chính
phủ cố gắng đè nén lạm phát, khơng cơng khai hóa.
CHỈ SỐ GIÁ BÁN LẺ THỜI KỲ 1976-1980 (NĂM TRƯỚC = 100%)

Năm
1976

Giá do Nhà nước quy định
99,1

Giá thị trường tự do
150,3

1977

101,1

138,0


1978

104,3

139,0

1979

103,3

140,0

1980

109,8

143,8

(Nguồn : Ủy ban Vật giá Nhà nước)




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
Trong khi giá cả do Nhà nước ấn định khá thấp, thậm chí có năm cịn
thấp hơn năm trước (1976), mức độ lạm phát ở mức độ 1 con số, có thể coi là
lý tưởng thì ở thị trường tự do lạm phát ở mức phi mã (2 con số).
Giá cả ở thị trường tự do không ngừng tăng cao. Đây là biểu hiện của
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, sản xuất kém phát triển,
hàng hóa khan hiếm. Sang thập kỉ 80 Nhà nước bắt đầu công khai hóa lạm

phát. Do đó lạm phát do Nhà nước quy định và trên thị trường tự do tăng
nhanh.
LẠM PHÁT THỜI KÌ 1981-1988 (%)
(NĂM SAU SO VỚI NĂM TRƯỚC)

Năm
1981

Lạm phát do Nhà nước quy
định
102

Lạm phát trên thị trường tự do
47,4

1982

141,8

65

1983

42,8

57,5

1984

55,8


76,3

1985

110,9

54,7

1986

774,7

1987

223,1

1988

393,8

(Nguồn : Tổng cục thống kê)
Tuy nhiên, nhữung năm đầu của thập kỉ 80, lạm phát ở Việt Nam vẫn
chưa bộc lộ hồn tồn mà cịn là lạm phát bị đè nén bởi vì Nhà nước vẫn cố
gắng giữ mức giá rất thấp cho khối lượng hàng hóa cung cấp theo định lượng
cho công nhân viên chức, coi như trả lương một phần bằng hiện vật, đồng thời
số hàng hóa do các doanh nghiệp Nhà nước (kể cả các tổ chức thương nghiệp
quốc doanh) vẫn bán ra theo giá Nhà nước quy định thấp hơn nhiều mức giá





Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
thị trường tự do. Tỷ trọng hàng hóa do Nhà nước quy định giá là rất lớn so với
hàng hóa trên thị trường tự do, cho nên mức độ đè nén của lạm phát thời kì
1981-1985 khơng phải là nhỏ.
Năm 1985, Việt Nam thực hiện cuộc cải các tiền tệ đồng thời với việc
tăng giá và lương. Sau đó, hàng năm đã điều chỉnh mặt bằng của Nhà nước,
kể cả các mặt hàng cung cấp định lượng, lên gần sát với mặt bằng giá của thị
trường tự do, trong khi đó, về mặt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
chưa có chuyển biến đáng kể. Kết quả là lạm phát trở thành “phi mã”, mặt
bằng giá cả tăng gấp mấy lần trong vòng một năm, kể cả trên thị trường quốc
doanh cũng như trên thị trường tự do.
Có nhiều ý kiến khác nhau về đặc điểm lạm phát ở Việt Nam trong
những năm 80. Nhiều người cho rằng lạm phát ở Việt Nam đó là lạm phát
“chi phí đẩy”. Trong q trình từng bước tự do hóa giá cả, Nhà nước đã chủ
động điều chỉnh giá lên để giá Nhà nước xích lại gần mức giá thị trường tự
do, làm cho mặt bằng giá chung tăng lên, có những thời kì (như 1986-1988)
tăng lên gấp nhiều lần trong vòng 1 năm. Tuy nhiên đấy mới chỉ là hiện tượng
mà chưa phải là bản chất của vấn đề.
Thực chất lạm phát ở Việt Nam trong những nhăm 1980 có bản chất
sâu xa là do chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế hạch toán tập trung quan liêu
bao cấp. Cơ chế này chỉ thích hợp trong thời kì chiến tranh khi chúng ta cần
tập trung một nguồn lực cho kháng chiến. Nhưng khi hịa bình lập lại, chúng
ta đã phát triển một cách dập khn hình mẫu chủ nghĩa cộng sản của Liên
Xơ, chúng ta muốn cái gì cũng phải to, cái gì cũng phải lớn. Các doanh
nghiệp Nhà nước chỉ quan tâm hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao, sản
xuất ra thật nhiều sản phẩm mà không hề quan tâm đến chất lượng mẫu mã,
tiêu thụ sản phẩm như thế nào. Nhà nước vạch kế họach, đề ra định mức và
cung cấp vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước để sản xuất, khơng hề có sự

sáng tạo, khơng hề có sự chọn lọc ở đây. Các doanh nghiệp Nhà nước là con



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
đẻ của Nhà nước, là “lực lượng chính”của nên kinh tế quốc dân, làm sao có
thể “đem con bỏ chợ” được. Chính vì vậy số vốn mà Nhà nước cung cấp cho
doanh nghiệp Nhà nước ngày càng lớn. Vào đầu những năm 1980 đặc biệt là
vào những năm 1982-1984, gần một phần ba tổng số chi ngân sách Nhà nước
đã dành để tài trợ cho các khoản bao cấp, đặc biệt là để bù giá cho các mặt
hàng cung cấp địnhlượng.
Với số vốn ưu đãi như vậy, chắc hẳn các doanh nghiệp Nhà nước phải
làm ăn thuận lợi. Ngược lại, chúng ta làm ăn ngày càng thua lỗ, lúc nào cũng
hoàn thành kế hoạch Nhà nước giao, sản phẩm đầy đủ nhưng kì thực đó là “lỗ
thật, lãi giả” sản phẩm hàng hóa kém chất lượng, tiêu thụ kém, khối lượng
cũng ít, khơng ít doanh nghiệp Nhà nước đã bị thua lỗ nặng nề. Các doanh
nghiệp Nhà nước là lực lượng chính nộp thuế vào ngân sách Nhà nước, lực
lượng này mà làm ăn thua lỗ thì ngân sách Nhà nước khơng thể dồi dào được.
BẢNG ĐỘNG VIÊN THU NHẬP QUỐC DÂN SẢN XUẤT VÀO NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Giai

TNQD

Thu NSNN so với

đoạn
76-80

sản xuất

100

TNQD sản xuất
25,2

81-85

100

29,0

So với giai đoạn
Tăng giảm
Nhịp độ
-2,07

0,92

+3,87

1,15

86-90
100
20,2
-8,81
0,70
(Nguồn : Số liệu thống kê tài chính 1955-1986, Tổng cục thống kê, Hà
Nội, 1988)
Tiềm năng của khu vực kinh tế quốc doanh là rất lớn, thể hiện ở tất cả

các mặt. Về lĩnh vực kinh doanh, kinh tế quốc doanh được độc quyền năm giữ
những vị trí then chốt nhất, có khả năng mang lại hiệu quả cao nhất, về tài
chính được cấp phát toàn bộ số vốn để hoạt động. Hơn thế nữa, khu vực kinh
tế quốc doanh cịn ln ln được sự quan tâm giúp đỡ thậm chí chiều
chuộng của các cơ quan quản lý Nhà nước. Với tiềm năng như vậy, lẽ ra khu
vực này phải có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao và có đóng góp lớn cho



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
ngân sách Nhà nước. Song, thực tế hoàn toàn ngược lại. Khu vực kinh tế quốc
doanh quản lí và sử dụng tới 80% tài sản của nền kinh tế nhưng chỉ tạo ra
khoảng 30% thu nhập quốc dân, sản xuất luôn ở trong tình trạng trì trệ kém
hiệu quả. Bên cạnh đó, một hiện tượng hết sức phi lí đã xảy ra là các khoản
nộp ngân sách Nhà nước của khu vực kinh tế quốc doanh hồn tồn mang tính
chất hình thức. Tính chất hình thức này được thể hiện bởi 2 lí do : Thứ nhất
đó là sự khơng chính xác của cơng tác hạch tốn, mức giá hạch tốn trong chi
phí sản xuất và giá thành vẫn rất thấp so với thực tế. Lí do thứ hai đó là cơ
chế bao cấp. Các khoản bao cấp của ngân sách Nhà nước cho các xí nghiệp
quốc doanh dưới dạng bù lỗ, bù giá, bù lương.
Với tình hình chi tiêu cũng như nộp thuế như vậy của các doanh nghiệp
Nhà nước thì khó có thể có một ngân sách nào có thể bội thu. Vì vậy ngân
sách Nhà nước Việt Nam lâm vào tình trạng thâm hụt triền miên.
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH 1986-1989 (%)

Năm
% so với tổng chi
% so với GDP

1986

46
7,2

1987
31
5,4

1988
26
8,2

1989
40
41

(Nguồn: Phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh - NXB Tài
chính-1996)
Tỉ lệ thâm hụt khá cao và biến động một cách bất thường. Tình trạng
này rất khó chấm dứt nếu như khơng giải quyết dứt đIểm tình trạng nợ đọng
dây dưa, trốn thuế, gian lận trong nộp thuế, làm ăn kém hiệu quả của các
doanh nghiệp Nhà nước, nếu như khơng chấm dứt tình trạng bao cấp tràn lan,
bù lỗ giá cả cho các doanh nghiệp. Thâm hụt ngân sách ảnh hưởng rất lớn đến
tồn bộ nền kinh tế vì nó liên quan đến vấn đề xử lí thâm hụt. Nhà nước lấy
đâu ra nhiều tiền như vậy để bù đắp cho chính sách chi tiêu thiếu hiệu quả của
mình. Rõ ràng Nhà nước phải huy động vốn từ nhiều nguồn để bù đắp. Trong
thời kì 1981-1988 thâm hụt ngân sách Nhà nước Việt Nam được bù đắp chủ



Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam

yếu bằng tiền phát hành ra, hay cịn gọi là tín dụng của Ngân hàng trung ương
(chiếm tới 61% tổng nguồn bù đắp thâm hụt); trong khi đó tỉ lệ vay nợ và viện
trợ nước ngồi giảm rõ rệt, từ 66% thời kì 1981-1985 xuống chỉ cịn 36% thời
kì 1986-1988. Số nguồn bù đắp từ tín dụng vay trong nước trong thời kì này
là khơng đáng kể (chỉ cịn khoảng 3%)
CƠ CẤU NGUỒN BÙ ĐẮP THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
(% SO THÂM HỤT)

Thời kì
Tiền phát hành
Vay nước ngồi
Vay trong nước

1981-1985
30,6
65,7
3,7

1986-1988
57,9
38,5
3,7

(Nguồn : Bộ Tài chính)
Tại sao Nhà nước lại có thể phát hành nhiều tiền như vậy bởi vì chức
năng phát hành tiền là của Ngân hàng trung ương ? Điều này có thể là vơ lí ở
nước khác nhưng ở Việt Nam thì đó là điều tất yếu. Trước năm 1988, hệ
thống Ngân hàng ở Việt Nam là hệ thống Ngân hàng một cấp, và về thực chất
nó là một bộ phận của ngân sách Nhà nước. Hoạt động chủ yếu của hệ thống
Ngân hàng này là nhân vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp Nhà nước và của

ngân sách Nhà nước để cho các doanh nghiệp Nhà nước vay. Mối quan hệ của
Ngân hàng với kinh tế ngoài quốc doanh và với dân chúng hết sức hạn chế.
Khi ngân sách Nhà nước thâm hụt thì cách dễ làm nhất, thường thấy nhất lúc
ấy là phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt. Khi các doanh nghiệp Nhà
nước thiếu vốn thì Ngân hàng Nhà nước phát hành thêm tiền để cho vay tín
dụng. Hậu quả thế nào thì ai cũng rõ : lạm phát gia tăng với tốc độ cao và
khơng gì kiểm sốt được.
Khối lượng tiền tệ gia tăng khơng tương ứng với khối lượng hàng hóa
được sản xuất ra đã làm cho tiền thừa tràn ngập các kênh lưu thông, sức mua
của đồng tiền giảm sút. Người ta tranh nhau mua vàng, đơ la, hàng hóa để dự




Lạm phát qua tín dụng ở Việt Nam
trữ, biến nhà mình thành kho dự trữ nhỏ càng làm cho hàng hóa trở nên khan
hiếm và càng giảm sức mua của đồng tiền. Đồng nội tệ tràn ngập lưu thông
trong khi Ngân hàng thì ln thiếu tiền để trả lương cơng nhân viên. Do đó
đến kì lĩnh lương ngân hàng lại tiếp tục in tiền ra để trả càng làm cho khối
lượng tiền tệ tăng lên, đồng tiền mất giá. Làm sao tiền có thể quay trở lại ngân
hàng thơng qua con đường tiết kiệm được vì khơng một mức lãi suất nào có
thể theo kịp tốc độ lạm phát tăng không ngừng lúc bấy giờ. Không gửi tiết
kiệm nhưng không ai dám giữ tiền lâu vì tiền lúc này trờ thành một thứ hàng
hóa nguy hiểm. Sức mua giảm sút nhanh chóng nên giữ tiền lúc này khác nào
giữ một cục than hồng trong tay, người ta muốn đẩy nó đi càng nhanh càng
tốt làm cho tốc độ lưu thông của tiền ngày càng lớn. Khối lượng tiền đã lớn,
tốc độ lưu thông lại nhanh càng làm cho lạm phát trở nên dữ dội. Ngay trong
nước mình mà người ta khơng dám tiêu tiền Việt, đâu đâu cũng địi hỏi thanh
tốn bằng séc, bằng vàng, bằng đơ la...
Điểm lại tình hình lạm phát năm 1980-1988 có một đặc điểm nổi bật là

lạm phát rất cao, tốc độ tăng rất nhanh khơng gì có thể kiểm sốt được.
Ngun nhân chủ yếu gây ra lạm phát là có quá nhiều tiền thừa trong lưu
thông làm sức mua của đồng tiền giảm sút. Vấn đề đặt ra là cần phải nhận
thức rõ và khắc phục lạm phát trước khi hậu quả khó lường của nó xảy ra.
b-Giai đoạn kiềm chế lạm phát 1989-1992
Đặc điểm nổi bật của quá trình chống lạm phát những năm qua ở Việt
Nam là phải chống lạm phát trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Cái mốc đánh dấu sự
chuyển biến cơ bản và cũng có thể nói là thành cơng của cơng cuộc kiểm soát
lạm phát ở Việt Nam những năm qua là ở chỗ nhận thức được nguyên nhân
trực tiếp của lạm phát là có q nhiều tiền trong lưu thơng, là có quá nhiều
“cầu” cho nên trong giải pháp đã quay về với chính sách tài khóa, chính sách




×