Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.44 KB, 9 trang )

PHỤ LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.
Tư pháp quốc tế là một ngành khoa học pháp lý mới mẻ và phức tạp ở
Việt Nam. Tính phức tạp của nó thể hiện ở tính chất các vấn đề pháp lý không
chỉ liên quan đến nhiều chuyên ngành của pháp luật quốc gia mà còn liên quan
đến nhiều hệ thống pháp luật các nước khác trên thế giới.
1
Chủ thể của tư pháp quốc tế là các cơ quan cá nhân tổ chức tham gia vào
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lí cũng
như khả năng tự chịu trách nhiệm pháp lí phát sinh từ hành vi do mình thực
hiện. Và Người nước ngoài- được coi là một trong số những chủ thể cơ bản của
tư pháp quốc tế. Để giải quyết xung đột pháp luật về chủ thể này, các nước sở tại
thường quy định những chế độ pháp lí cho người nước ngoài trong hệ thống
pháp luật cụ thể của mỗi quốc gia. Bài tiểu luận dưới đây sẽ phân tích, nhận xét
các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài một cách rõ ràng.
Từ đó giúp chúng ta có thể hiểu rõ hơn về chủ thể cơ bản này của tư pháp quốc
tế.
B. NỘI DUNG.
Khái niệm “ người nước ngoài” trong tư pháp quốc tế được hiểu là người
nước khác đang cư trú trên lãnh thổ của một quốc gia xác định ( nước sở tại) là
người không có quốc tịch của quốc gia đó và là chủ thể quan hệ pháp luật mà họ
tham gia. Trong pháp luật tùy vào quan hệ giữa các quốc gia cũng như từng lĩnh
vực cụ thể các quy định về địa vị pháp lý của người nước ngoài ( kể cả pháp
nhân nước ngoài) có thể được xây dựng trên nguyên tắc, chế độ pháp lý sau: chế
độ đãi ngộ như công dân, chế độ tối huệ quốc, chế độ đãi ngộ đặc biệt; ngoài ba
chế độ chính nêu trên còn có chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc.
1
ThS. Bùi Thị Thu ( chủ biên) Giáo trình luật tư pháp quốc tế nxbGD, 2010
1
I. Cơ sở pháp lý.
Xuất phát từ chủ quyền quốc gia, tất cả các cá nhân cư trú trên lãnh thổ


của một quốc gia nhất định, dù là công dân nước đó, công dân nước ngoài hay
người không quốc tịch đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia sở tại. Nói
cách khác, mỗi nước có thẩm quyền riêng biệt trong việc xác định chế độ pháp
lý cho các bộ phận dân cư sinh sống trên lãnh thổ của mình. Chế độ pháp lý
dành cho các bộ phân dân cư là không đồng nhất. Sự khác biệt này được lý giải
bởi mối quan hệ quốc tịch giữa các cá nhân với quốc gia sở tại. Nói cách khác ,
các cá nhân có quốc tịch khác nhau thì sẽ có chế độ pháp lý khác nhau.
Tuy nhiên các quốc gia đều bình đẳng với nhau về mặt chủ quyền nên
việc quy định chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài được giải quyết theo
nguyên tắc phân biệt đối xử và trên cơ sở có đi có lại. Trong quan hệ dân sự
quốc tế này có ý nghĩa xác lâp chế độ pháp lý ngang bằng, không phân biệt đối
xử của người nước ngoài trong mối quan hệ với công dân nước sở tại và với
công dân nước ngoài khác trên lãnh thổ quốc gia sở tại. Trên thực tế, các quốc
gia thỏa thuận loại bỏ dần các rào cản về kinh tế- thương mại, kể cả rào cản về
pháp lý để thúc đẩy tốc độ phát triển của các giao lưu dân sự- thương mại quốc
tế, tạo điều kiện cho việc thiết lập các cơ hội làm ăn trao đổi thương mại, đầu tư,
luân chuyển tài sản… diễn ra trên lãnh thổ quốc gia ở phạm vi liên kết khu vực
và trên toàn cầu.
Mặt khác trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có nhiều vấn đề pháp lý liên
quan đến người nước ngoài chỉ có thể giải quyết hiệu quả trên cơ sở các điều
ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia hữu quan như địa vị pháp lí của những
người hưởng quy chế ngoại giao lãnh sự, người hai quốc tịch… Chính vì vậy,
khi xây dựng các chế độ pháp lí dành cho người nước ngoài, mỗi quốc gia cần
tôn trọng nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà nước
đó là thành viên. Đó chính là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ mà người
nước ngoài được hưởng, phù hợp với quy định của pháp luật nước sở tại.
II. Các chế độ pháp lý mà nước sở tại giành cho người nước ngoài.
1.Chế độ đãi ngộ như công dân (NT – National Treatment).
Đây là chế độ được thể hiện phổ biến trong luật pháp của đông đảo các
quốc gia trên thế giới. Nội dung cơ bản của chế độ này được hiểu như sau: Chế

độ cho phép người nước ngoài được hưởng các quyền cũng như thực hiện các
nghĩa vụ ngang hoặc tương đương với những quyền và nghĩa cụ mà công dân
nước sở tại đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai (trừ những ngoại
lệ theo pháp luật quy định trong các trường hợp cụ thể).
Có thể nói chế độ đãi ngộ như công dân đã thể hiện được mối quan hệ
giữa người nước ngoài với công dân nước sở tại. Thể hiện được mối quan hệ
bình đẳng về hưởng quyền và nghĩa vụ giữa người nước ngoài với công dân
nước sở tại. Và hơn thể nữa chế độ đãi ngộ như công dân cũng thể hiện việc tôn
2
trọng nhân quyền của pháp luật nước sở tại dành cho những người không phải
công dân nước mình
Thông thường người nước ngoài được hưởng các quyền dân sự, lao động,
thương mại và văn hóa như công dân nước sở tại. Tuy nhiên trong một số quan
hệ xã hội, người nước ngoài có quyền hạn chế hơn thậm chí không được hưởng
các quyền mà công dân nước sở tại được hưởng: Ví dụ như quyền bầu cử, ứng
cử, quyền theo học ở các trường an ninh, quân sự, quyền cư trú, quyền hành
nghề,… Những quy định này rất phổ biến trong pháp luật các nước, sở dĩ quy
định như vậy là để bảo vệ lợi ích và an ninh của quốc gia. Bởi vậy khi người
nước ngoài được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân thì vấn đề xác định chế độ
pháp lý của người nước ngoài tại quốc gia sở tại phụ thuộc vào vấn đề xác định
chế độ pháp lý của công dân sở tại và những vấn đề hạn chế về quyền của người
nước ngoài so với công dân nước sở tại ở nước đó. Những hạn chế như vậy đối
với người nước ngoài khác nhau cũng không giống nhau, ví dụ như quy định đối
với người nước ngoài định cư và người nước ngoài không định cư. Tuy nhiên
nhìn từ góc độ pháp luật quốc tế, những hạn chế đó chỉ được coi là chấp nhận
khi nó không làm phương hại đến các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền (ví dụ
như những hạn chế đó không được dựa trên cơ sở phân biệt chủng tộc, giới tính,
tôn giáo,…).
Chế độ đãi ngộ quốc gia thường được quy định trong luật pháp các nước,
ở Việt Nam, theo quyết định số 122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng Chính phủ

về Chính sách với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam tại
Điều 7 và Điều 8 quy định: “ Người nước ngoài định cư ở Việt Nam được hưởng
chế độ đãi ngộ như công dân đối với sở hữu cá nhân về thu nhấp hợp pháp và tư
liệu sinh hoạt và các quan hệ kế thừa đối với các tài sản trên”. Khoản 2 Điều
761 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 quy định: “2. Người nước ngoài có
năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ trường hợp
pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác.”
Ngoài ra chế độ đãi ngộ như công dân còn được ghi nhận trong các điều
ước quốc tế song phương và đa phương như là các nguyên tắc pháp luật quốc tế
nhằm bảo hộ pháp lý cho công dân các nước hữu quan làm ăn, sinh sống trên
lãnh thổ của nhau. Ví dụ như trong Hiệp định tương trợ tư pháp (03/10/1986) về
vấn đề dân sự, gia đình, hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chư nghĩa Việt Nam
với nươc Cộng hòa nhân sân Bungari quy định tại khoản 1 Điều 1: “Công dân
nước ký kết này được hưởng trên lãnh thổ nước ký kết kia sự abor hộ pháp lý về
quyền nhân thân và quyền tài sản mà nước ký kết kia dành cho công dân nước
mình”; Khoản 1, Điều 1 Hiệp định về tương trợ tư pháp pháp lý về các vấn đề
dân sự và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Bang Nga
ngày 25/08/1998);… Trong các điều ước quốc tế đa phương như các công ước
về quyền sở hữu trí tuệ: Công ước Berne 1952 về bảo hộ quyền tác giả, Công
ước Pari năm 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, mà nội dung cơ bản
3
của công ước này đều lấy nguyên tắc đãi ngộ công dân làm nền tảng bảo hộ trên
cơ sở có đi có lại.
Tuy nhiên, cũng như những quốc gia khác, chế độ đãi ngộ quốc gia của
Việt Nam giành cho người nước ngoài cũng có những hạn chế nhất định nhằm
bảo đảm lợi ích và an ninh quốc gia. Lấy thí dụ như vấn đề sở hữu và thừa kế tài
sản, Người nước ngoài được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân, có quyền và
nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trong đó có quyền sở hữu, quyền thừa kế và
các quyền khác với tài sản theo Điều 761, Điều 766, Điều 767 Bộ Luật dân sự
2005. Tuy nhiên đối với tài sản là bất động sản ở Việt Nam người nước ngoài

chỉ được hưởng một số quyền nhất định hạn chế hơn so với công dân Việt Nam
theo Khoản 2 Điều 9 và khoản 1,2 Điều 125 Luật nhà ở 2005.
2
Ngoài ra, người nước ngoài có thể được được mua, nhận, tặng cho và sở
hữu nhà ở tại Việt Nam nếu thuộc các đối tượng được quy định tại Điều 2, Nghị
quyết số 19/2008/QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc hội về việc thí điểm cho tổ
cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Như vậy, chế độ đãi ngộ quốc gia là cơ sở để xác đinh năng lực pháp luật
của người nước ngoài tại nước sở tại.
2. Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc
Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc ( MFN – Most Favoured Nation ) là chế độ
theo đó một nước dành cho công dân và pháp nhân của nước kia những quyền
và ưu đãi đang hoặc sẽ dành cho công dân và pháp nhân của một nước thứ ba.
Khác với chế độ đãi ngộ quốc gia, chế độ đãi ngộ tối huệ quốc được áp
dụng chủ yếu trong các lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại và hàng hải. Chế độ
tối huệ quốc dành riêng cho công dân và pháp nhân nước này hay nước kia cần
phải được quy định rõ ràng và cụ thể trong các hiệp đinh quốc tế (thông thường
là trong các hiệp định về thương mại và hàng hải, hiệp định thuế quan và mậu
dịch, hiệp định vầ thị trường chung hay thị trường tự do…)
Nội dung cơ bản của chế độ tối huệ quốc thể hiện ở hai khía cạnh sau:
- Thứ nhất là công dân nước ngoài được quốc gia sở tại dành cho sự đối xử
đặc biệt, bao gồm các quyền ưu đãi
- Thứ hai, sự đối xử trên sẽ không kém thuận lợi hơn đối xử mà nước sở tại
dành cho công dân của một nước thứ ba.
Ví dụ: Thuế nhập khẩu linh kiện xe máy vào Việt Nam được áp dụng ở
mức 50%. Sau đó, Việt Nam kí kết hiệp định thương mại song phương với Nhật
Bản, quy định mức thuế đối mới đối với linh kiện xe máy nhập từ nhật bản là
30%. Khi đó nếu trong hiệp định về thuế giữa Việt Nam và Trung Quốc có quy
định về việc hai bên giành cho nhau chế độ tối huệ quốc thì lúc này, mức thuế
nhập khẩu đối với linh kiện xe máy từ Trung Quốc vào Việt Nam sẽ tự động và

ngay lập tức được điều chỉnh xuống còn 30%.
2
PHỤ LỤC
4
Theo chế độ tối huệ quốc thì công dân nước ngoài cũng như pháp nhân
nước ngoài được hưởng đầy đủ và hoàn toàn các quyền hợp pháp mà một quốc
đang hoặc sẽ dành cho công dân, pháp nhân của bất kì một nước khác. Như vậy,
chế độ tối huệ quốc đảm bảo bình đẳng giữa các quốc gia. Điều này thể hiện ở
việc một quốc gia dành cho công dân cũng như pháp nhân của các nước các điều
kiện và cơ hội ngang nhau trong thương mại, hàng hải và và các quan hệ kinh tế
khác nữa, đồng thời xóa bỏ mọi sự kì thị, phân biệt đối xử với các lí do khác
nhau trong hoạt động thương mại quốc tế. Ngoài ra, chế độ tối huệ quốc trong
các hiệp định quốc tế còn củng cố và thúc đẩy sự hợp tác kinh tế thương mại và
các quan hệ toàn diện khác giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền,
bình đẳng và cùng có lợi.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng việc hưởng chế độ đãi ngộ tối huệ quốc mà
nước sở tại dành cho công dân và pháp nhân nước ngoài luôn trên cơ sở các thỏa
thuận quốc tế giữa các nước hữu quan mà không có nghĩa là chế độ phổ cập
đương nhiên mà nước sở tại dành cho công dân, pháp nhân nước khác. Đồng
thời, việc áp dụng chế độ tối huệ quốc cũng có thể có các ngoại lệ nhằm bảo vệ
chủ quyền quốc gia cũng như các giá trị truyền thống của dân tộc.
Ở Việt Nam áp dụng chế độ tối huệ quốc trong những trường hợp sau: (1)
Pháp luật Việt Nam có quy định về áp dụng đối xử tối huệ quốc; (2) Điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định áp dụng đối xử tối huệ
quốc; (3) Quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trên thực tế đã áp dụng đối xử tối huệ
quốc đối với Việt Nam (4) Các trường hợp khác do chính phủ quy định. Tuy
nhiên chế độ tối huệ quốc được ghi nhận trước hết và chủ yếu trong các điều
ước quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam làm thành viên .
Tính cho đến giữa năm 2007, Việt Nam đã ký hơn 50 hiệp định đầu tư
song phương với các quốc gia khác nhau. Ngoài ra,Việt Nam cũng ký kết Hiệp

định thương mại song phương với Mỹ (2001) mà những cam kết liên quan đến
đầu tư là một phần trong hiệp định này. Là một phần trong các thỏa thuận đầu tư
quốc tế này, những quy định liên quan đến đối xử tối huệ quốc của Việt Nam
không có một khuôn mẫu thống nhất và thường nằm rải rác trong nhiều điều
khoản khác nhau. Mong muốn tạo sự thống nhất trong cách hiểu, quy định và áp
dụng chuẩn mực đối xử này, năm 2002, Việt Nam đã đưa ra "Pháp lệnh
41/2002/PL-UBTVQH về Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương
mại quốc tế. Theo đó Việt Nam qui định các lĩnh vực mà chế độ tối huệ quốc áp
dụng là: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư và quyền sở hữu trí
tuệ. Cho đến nay, Pháp lệnh này vẫn là văn kiện pháp lý cơ bản và toàn diện
nhất, thể hiện thiện chí của Việt Nam, trong việc mong muốn việc cải thiện môi
trường pháp lý tốt hơn.
3. Chế độ đãi ngộ đặc biệt dành cho người nước ngoài:
Theo chế độ này, người nước ngoài được hưởng các quyền và ưu đãi đặc biệt
mà chính công dân của nước sở tại cũng không được hưởng. Đồng thời,
5

×