Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Lý luận về sản xuất hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.43 KB, 22 trang )

Tiểu luận Triết
học
MỤC LỤC
1
Tiểu luận Triết
học
LỜI NÓI ĐẦU
Trước năm 1986, Việt Nam áp dụng nền kinh tế tự cung tự cấp. Với nền kinh
tế này, một phần nào đó nước ta cũng đã có những bước phát triển nhất định. Tuy
nhiên, sau đó với tình hình định hướng chung của Việt Nam, nó đã không còn phù
hợp và bộc lộ các mặt yếu kém, kìm hãm sự phát triển đặc biệt trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Lúc này các cơ sở sản xuất, sản xuất theo kế hoạch của Nhà
Nước. Nhà Nước bao cấp về vốn công nghệ kỹ thuật do đó giá cả không phản ánh
giá trị của nó. Chính vì vậy xuất hiện hiện tượng lãi giả lỗ thật và hậu quả là năng
suất lao động bị giảm sút, nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ suy thoái.
Trong điều kiện đó, chúng ta lại có những chủ quan nôn nóng, chưa đánh giá đúng
tình hình thực tế, thực hiện bao cấp với một loạt những bước đi sai lầm về giá,
lương, tiền; lại thêm những ấu trĩ quan liêu trong cải cách hành chính dẫn đến
khủng hoảng kinh tế xã hội thêm trầm trọng.
Nhận thấy tình hình cấp thiết, tại đại hội VI, Đảng và Nhà nước ta đã có
quyết định quan trọng trong đổi mới nền kinh tế, thay thế nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp bằng nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Và từ đó, nền sản xuất hàng hóa đã
trở thành nền tảng, động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
bền vững đất nước; giúp nền kinh tế của nước ta từng bước hội nhập với sự đi lên
không ngừng của khu vực và thế giới, đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Bên
cạnh đó, nước ta không ngừng nỗ lực trong quá trình cải cách, đổi mới nhằm hoàn
thiện con đường phát triển kinh tế nói chung và sản xuất hàng hóa nói riêng. Trong
thời gian qua, nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính
sách phát triển nền sản xuất hàng hóa đã được ban hành. Đảng và Nhà nước đã sớm
xác định vai trò then chốt vô cùng quan trọng của sản xuất hàng hòa trong sự
nghiệp phát triển kinh tế nước nhà.


Xuất phát từ những thực tiễn trên, em đã lựa chọn đề tài:
" Lý luận về sản xuất hàng hóa"
cho bài tiểu luận của mình. Em xin cảm ơn cô giáo đã giúp em hoàn thành
bài viết, em mong sẽ nhận được nhiều hơn nữa sự góp ý của cô để bài viết của em
được hoàn thiện hơn.
2
Tiểu luận Triết
học
NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận cơ bản về sản xuất hàng hóa
1. Sản xuất hàng hóa
1.1 Sản xuất hàng hóa và tính tất yếu
Sản xuất hàng hóa là một khái niệm được sử dụng trong kinh tế chính trị
Marx-Lenin dùng để chỉ về kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra
không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó
mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua
bán trên thị trường. Nói cách khác, toàn bộ quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi
- tiêu dùng; các câu hỏi sản xuất cái gì, như thế nào, và cho ai đều thông qua hệ
thống thị trường và do thị trường quyết định.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế phân biệt với sản xuất tự cung tự
cấp ở thời kì đầu của lịch sử loài người. Ở thời kì đó, sản phẩm của sự lao động
được tạo ra chỉ để phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của chính người sản xuất ra chúng.
Đây là kiểu tổ chức sản xuất tự nhiên khép kín trong phạm vi từng đơn vị nhỏ,
không cho phép mở rộng quan hệ với các đơn vị khác. Vì vậy nó có tích chất bảo
thủ, trì trệ, bị giới hạn ở nhu cầu hạn hẹp. Sản xuất tự cung tự cấp thích ứng với thời
kỳ lực lượng sản xuất còn chưa phát triển, khi mà lao động thủ công chiếm địa vị
thống trị. Nó có trong thời kỳ công xã nguyên thủy và tồn tại chủ yếu trong thời kỳ
chiếm hữu nô lệ. Trong thời kỳ phong kiến, sản xuất tự cung tự cấp tồn tại dưới
hình thái điền trang, thái ấp của địa chủ và kinh tế nông dân gia trưởng.
Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động được mở rộng thì

dần dần xuất hiện trao đổi hàng hóa. Khi trao đổi hàng hóa trở thành mục đích
thường xuyên của sản xuất thì sản xuất hàng hóa ra đời theo đúng quy luật tất yếu
của nó
1.2 Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là một phạm trù lịch sử, chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã
hội khi có những điều kiện nhất định. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Marx thì sự ra
đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa phụ thuộc vào hai điều kiện cơ bản sau:
• Phân công lao động xã hội: là sự chuyên môn hóa sản xuất, phân chia lao động xã
hội ra thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau của nền sản xuất xã hội.
3
Tiểu luận Triết
học
Tuy nhiên, bản thân con người lại có nhiều nhu cầu khác nhau, bởi vậy đòi hỏi họ
phải đi trao đổi sản phẩm của mình để thỏa mãn các nhu cầu đó.
Phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa. Theo
C.Mác: “Sự phân công lao động xã hội là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng
hóa, mặc dầu ngược lại, sản xuất hàng hóa không phải là điều kiện tồn tại của sự
phân công lao động xã hội”. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất
và trao đổi hàng hóa càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.
• Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất: là những người
sản xuất trở thành những chủ thể có sự độc lập nhất định với nhau. Do đó sản phẩm
làm ra thuộc quyền sở hữu của các chủ thể kinh tế, người này muốn tiêu dùng sản
phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi, mua bán hàng hoá.
Trong lịch sử, sự tách biệt này do chế độ tư hữu về tư hữu tư tiệu sản xuất quy định.
Trong chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của mỗi cá
nhân và kết quả là sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ.
Như vậy: Phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào nhau
còn chế độ tư hữu lại chia rẽ làm họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn và
mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau.
Chính vì thế, sản xuất hàng hóa bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống.

1.3 Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa có hai đặc trưng cơ bản sau:
• Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ
chức kinh tế đối lập với sản xuất tự cung tự cấp trong thời kì đầu của lịch sử loài
người. Cụ thể, trong sản xuất hàng hóa sản phẩm được tạo ra để đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
• Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính xã
hội. Tính chất tư nhân thể hiện ở đặc tính của sản phẩm được quyết định bởi cá
nhân người làm ra nó hoặc người trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất trên danh nghĩa.
Tính chất xã hội thể hiện qua việc sản phẩm tạo ra đáp ứng cho nhu cầu của những
người khác trong xã hội. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc không phù hợp
với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hóa.
1.4 Ưu thế của sản xuất hàng hóa
• Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của
phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất vì thế, nó khai thác được
4
Tiểu luận Triết
học
những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở sản xuất. Bên
cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại tác động trở lại, thúc đẩy sự phát
triển của phân công lao động xã hội, làm cho chuyên môn hóa lao động ngày càng
tăng.

• Đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất. Sản xuất hàng hóa phá vỡ tính tự cung tự
cấp, bảo thủ, lạc hậu của nền sản xuất tự cấp tự túc. Khai thác được lợi thế về tự
nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng cơ sở, từng vùng, từng địa phương,
kích thích sự phát triển về kinh tế của cả quốc gia.
• Đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con
người ngày càng gia tăng cả về lượng và chất, sản xuất hàng hóa giúp cho họ có
nhiều sự lựa chọn hơn để đáp ứng nhu cầu của mình. Góp phần cải thiện đời sống

xã hội đồng thời làm tăng khả năng lao động của xã hội.
2. Nền kinh tế sản xuất hàng hóa
2.1 Khái niệm
Kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ
biến của sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, trao đổi trên thị trường.
Ở giai đoạn sơ khai, trao đổi hàng hóa mang hình thức trực tiếp, gọi là hàng
đổi hàng. Khi tiền xuất hiện, các cá nhân có thể sử dụng tiền làm phương tiện trao
đổi. Lúc này, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là kinh tế tiền tệ. Khi cơ chế trao đổi
dựa trên giá cả thị trường, kinh tế hàng hóa cũng là kinh tế thị trường. Khi cơ chế
trao đổi dựa trên những sắp xếp quy hoạch từ một trung tâm, kinh tế hàng hóa đồng
thời là kinh tế kế hoạch.
Kinh tế hàng hóa là một giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử phát triển
của xã hội theo trình tự: kinh tế tự nhiên- kinh tế hàng hóa- kinh tế sản phẩm. Trong
bất kì chế độ xã hội nào, sự tồn tại hình thái giá trị và thị trường luôn là đặc trưng
chung của kinh tế hàng hóa.
2.2 Những ưu điểm
So với kinh tế tự nhiên, một loại hình kinh tế còn in đậm dấu vết ở nước ta,
kinh tế hàng hóa có những ưu thế sau:
Một là, thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân
công lao động, chuyên môn hóa sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ
5
Tiểu luận Triết
học
kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền
đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ.
Hai là, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, buộc người sản xuất
phải năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng suất lao động, cải
tiến chất lượng và hình thức mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Ba là, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh
tế trong nước và hội nhập thế giới. Có tác dụng lớn trong việc tuyển chọn doanh

nghiệp và cá nhân quản lý giỏi.
Bốn là, giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản
xuất khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện
cần thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao dưới
hình thức quan hệ hàng hóa, tiền tệ.
2.2 Những khuyết điểm
Bên cạnh những ưu điểm, kinh tế hàng hóa cũng chứa đựng những khuyết tạt
của nó. Thị trường chứa đựng nhiều yếu tố tự phát, bất ổn dẫn đến mất cân đôi. Vì
chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả xấu:
Một là, đặt lợi nhuận lên hàng đầu, có lãi thì làm nên không giải quyết được
cái gọi là “hàng hóa công cộng”.
Hai là, các vấn đề công bằng xã hội không được bảo đảm, sự phân hóa xã
hội cao, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng.
Ba là, suy đồi đạo đức, muốn làm giàu bằng mọi giá, không còn lương tâm
mà làm hàng giả, kém chất lượng. Bên cạnh đó, môi trường sống con người cũng bị
hủy hoại trầm trọng.
Do tính tự phát vốn có, kinh tế hàng hóa có thể mang lại không chỉ tiến bộ
mà còn cả suy thoái, khủng hoảng và xung đột xã hội nên cần thiết phải có sự can
thiệp, quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Nhờ đó sẽ đảm bảo hiệu quả cho sự vận động
của thị trường ổn định, tối đa hóa hiệu quả kinh tế, đảm bảo định hướng chính trị
của sự phát triển nền kinh tế, sữa chữa khắc phục những khuyết điểm vốn có, tạo ra
công cụ quan trọng điều tiết thị trường. Bằng cách đó, Nhà nước mới có thể kiềm
chế tính tự phát, đồng thời kích thích đối với sản xuất thông qua trao đổi hàng hóa
dưới hình thức thương mại.
6
Tiểu luận Triết
học
II. Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
1. Sơ lược về lịch sử phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam
Từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời phong kiến tới nền kinh tế hàng hóa

sau này, nền sản xuất hàng hóa của nước ta đã không ngừng biến đổi và phát triển.
Thời kì phong kiến, trình độ lao động, năng suất lao động nước ta chưa cao,
chính sách bế quan ở một số triều đại kìm hãm sự lưu thông hàng hóa. Sở hữu về tư
liệu lao động nằm trong tay một số ít người ở tầng lớp trên. Tóm lại, ở thời kì này,
nền sản xuất hàng hóa ở nước ta mới chỉ xuất hiện, chưa phát triển.
Trong thời kì bao cấp trước đổi mới, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là nền
kinh tế kế hoạch. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp kìm hãm sự phá
triển của nền sản xuất hàng hóa. Biến hình thức tiền lương thành lương hiện vật, thủ
tiêu động lực sản xuất, thủ tiêu cạnh tranh và lưu thông thị trường. Sự nhận thức sai
lầm của nước ta thời kì này đã khiến nền kinh tế suy sụp, sức sản xuất hàng hóa
xuống dốc không phanh. Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm,
có năm còn giảm: Năm 1977 tăng 2,8%, năm 1978 tăng 2,3%, năm 1979 giảm 2%,
năm 1980 giảm 1,4%, bình quân 1977-1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc
độ tăng trưởng dân số, thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm 14%.
Từ năm 1986, sau khi Đảng và Nhà nước đã kịp thời chuyển đổi nền kinh tế
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế sản xuất hàng
hóa nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ. Thời kì này chia thành 3 giai đoạn:
• Giai đoạn 1986 - 2000: Giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận và bước đầu
phát triển. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện. Phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, thời kì này nền kinh tế Việt Nam
vẫn còn nhiều tồn tại chưa giải quyết được. Điều này khiến nền kinh tế chậm phát
triển chiều sâu.
• Giai đoạn 2000 - 2007: đây là giai đoạn nền kinh tế hàng hóa ở nước ta phát triển
mạnh mẽ. GDP liên tục tăng mạnh. Tốc độ tăng trưởng năm 2007 là 8,5%, cao nhất
kể từ năm 1997 đến nay. Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam phát triển nền kinh tế
hàng hóa dễ dàng hơn khi có cơ hội mở rộng thị trường ra thế giới.

7
Tiểu luận Triết
học
• Giai đoạn 2007 - nay: kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại. Tăng trưởng GDP
giảm tốc với mức tăng trưởng bình quân là 6,2% trong khi mức tăng trưởng
bình quân của CPI là 11,8%. Lạm phát kéo dài và mới được kiềm chế trong 2 năm
2012 và 2013. Các chính sách đưa ra dường như không đem lại hiệu quả mong
muốn.
2. Đặc điểm nền sản xuất hàng hóa Việt Nam
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng sản
xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền sản xuất hàng hóa của
nước ta không giống như nền sản xuất hàng hóa của nước khác trên thế giới, thiếu
cái cốt vật chất của một “nền kinh tế phát triển” với những đặc trưng tiêu biểu:
2.1 Nền kinh tế đang trong quá trình chuyển biến từ kém phát triển, mang
nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường
Xuất phát từ thực trạng có thể nói là tiêu điều của nền kinh tế nước ta sau
nhiều năm chiến tranh: kết cấu hạ tầng và xã hội kém, trình độ cơ sở vật chất và
công nghệ lạc hậu, thu nhập bình quân cả nước còn thấp khiến dung lượng hàng hóa
trên thị trường thay đổi rất chậm chạp, khả năng cạnh tranh thấp. Từ sự thật không
mấy sáng sủa trên, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế
nước ta ra khỏi khủng hoảng, phục hồi sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, bắt
kịp thời đại.
Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, đất nước chuyển sang cơ chế thị
trường là phù hợp quy luật khách quan, phù hợp lòng dân, đáp ứng được nhu cầu
của cuộc sống. Nhờ chuyển sang kinh tế thị trường mà kinh tế được thay đổi căn
bản, nhờ cơ chế thị trường mà phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả hơn. Các
động lực lợi ích đã phát huy tác dụng, cơ chế quản lý mới được vận hành và ngày
càng tham gia tốt hơn vào phân công lao động quốc tế.
2.2 Nền kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần

Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần là do còn nhiều hình thức
sở hữu khác nhau về tư liệu ản xuất. Đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định các
thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với trình độ của lực lượng
sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiên nay là: kinh tế Nhà nước, kinh tế tư bản Nhà
nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ.
8
Tiểu luận Triết
học
Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có
khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hóa
phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách hạn hẹp. Đồng thời, nó vừa phản ánh tính
đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội lại vừa phản ánh tính chất
phức tạp trong việc quản lý theo định hướng XHCN.
Nhận thức được tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế là tất yếu khách
quan, từ đó có thái độ đúng đắn trong việc khuyên khích sự phát triển theo nguyên
tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho việc đi lên XHCN ở nước ta.
2.3 Nền kinh tế hàng hóa phát triển theo định hướng XHCN với vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước
Đảng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường, không phải thị trường bất
kỳ mà là thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Về bản chất,
đó là cơ chế hỗn hợp mang tính định hướng XHCN, vừa kế thừa những thành tựu
của loài người, vừa gắn liền với đặc điểm và mục tiêu chính trị là sự kết hợp giữa
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Trước đây, có những lúc ta chưa hiểu đúng,
đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa mà cho là thị trường là bản
chất. Giờ đây, ta đã hiểu rằng thị trường không mang bản chất chế độ, mà chỉ có chế
độ xã hội biết hay không biết tận dụng những lợi thế đó để phục vụ chế độ mình.
Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo do bản
chất vốn có và lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu, nên đảm bảo
cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Tuy nhiên vai
trò của nó chỉ được khẳng định khi phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần

kinh tế khác, nó sớm chuyển đổi cơ chế quản lý theo hướng năng suất, chất lượng
và hiệu quả để đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh
giữa các thành phần kinh tế.
Mặt khác, sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường
không thể nào giải quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời
sống kinh tế - xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng,
phân hóa bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường,… Những hiện tượng và tình trạng trên
ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại,
làm cản trở sự phát triển “bình thường” của xã hội nói chung và nền kinh tế hàng
hóa nói riêng. Vì vậy, sự quản lý vĩ mô của Nhà nước là không thể thiếu.
9
Tiểu luận Triết
học
Sau gần ba mươi năm đổi mới, ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể làm
vai trò quản lý của Nhà nước được tăng cường. Bằng các công cụ rất riêng: pháp
luật kế hoạch, thiết chế về tài chinh, tiền tệ và những điều kiện vật chất khác, Nhà
nước ta đã tạo điều kiện tốt nhất để khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của
kinh tế hàng hóa, ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và khuyết tật của cơ chế thị
trường.
Như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước là sự vận hành được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế
thị trường - “bàn tay vô hình” và sự quản lý của Nhà nước - “bàn tay hữu hình”.
2.4 Nền kinh tế hàng hóa theo cơ cấu kinh tế mở với các nước trên thế
giới
Trước kia, với cơ cấu kinh tế “khép kín”, với tình trạng “bế quan tỏa cảng”,
luẩn quẩn sau lũy tre làng khiến kinh tế nước ta lâm vào bế tắc thậm chí có thể nói
là lạc hậu bậc nhất thế giới. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng
hóa đã phá vỡ các mối quan hệ kinh tế truyền thống, đặc biệt đến giai đoạn TBCN
đã làm cho thị trường dân tộc gắn bó mật thiết với thị trường thế giới.
Biệt lập trong phát triển kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến đói nghèo. Do đó, việc mở

rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều hình thức khác nhau thực sự cần
thiết. Thông qua việc mở rộng quan hệ kinh tế để biến nguồn nhân lực bên ngoài
thành bên trong, tạo điều kiện cho quá trình phát triển được rút ngắn.
Có rất nhiều hình thức mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài đã được áp
dụng ở nước ta như áp dụng ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết để thu hút
vốn đầu tư; gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới; tranh thủ nắm bắt
những ngành, mặt hàng mũi nhọn có tương lai gắn liền với công nghệ mới, tiến tới
có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới,… dã và đang nhanh chóng đưa nền
kinh tế nước nhà hội nhập vào nhịp điệu của kinh tế thế giới.
Nhận xét:
Các đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa ở trên có quan hệ chặt chẽ với nhau
phán ánh kết quả của sự phân tích thực trạng và xu hướng vận động nội tại của quá
trình hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hóa Việt Nam hiện tại và tương lai.
Các đặc điểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh tế (quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu thông tiền tệ) bắt
10
Tiểu luận Triết
học
nguồn từ vai trò định hướng và quản lý kinh tế của Nhà nước – một Nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
11
Tiểu luận Triết
học
III. Các giải pháp phát triển sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
1. Đa dạng hóa các chế độ sở hữu
Bởi vì kinh tế thị trường là sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất quy định, do đó muốn nền kinh tế phát triển trước hết ta
phải da dạng hóa các hình thức sở hữu. Thành phần kinh tế Nhà nước đóng vai trò
chủ đạo. Khu vực kinh tế Nhà nước cần phải sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ
chức quản lý, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện chức năng

của một công cụ quản lý vĩ mô. Đối với những cơ sở không cần giữ hình thức kinh
tế Nhà nước cần giải thể hoặc chuyển sang hình thức sở hữu khác, đồng thời giải
quyết việc làm và đời sống người lao động.
2. Đẩy mạnh phân công lại lao động xã hội
Muốn khai thác tối đa mọi nguồn lực cần phát triển nhiều ngành nghề, sử
dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người lao
động. Phân công lại lao động giữa các ngành theo hướng chuyên môn hóa sản xuất,
hợp tác hóa lao động. Cùng với mở rộng phân công lao động trong nước là tiếp tục
mở rộng phân công và hợp tác lao động quóc tế.
3. Tạo lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Sự cân bằng chung giữa các loại thị trường là yêu cầu tất yếu trong quá trình
phát triển thị trường. Nó cho phép xác lập mối quan hệ cân đối giữa sản xuất và tiêu
dùng, giữa cung và cầu, giữa hàng và tiền.
Hàng hóa đầu ra về cơ bản đã được chi phối bởi quy luật thị trường, song
hàng hóa đầu vào như đất đai, sức lao động, vốn, tiền tệ,… thực chất chưa có thị
trường. Để các thị trường này hình thành và phát triển cần triệt để xóa bỏ bao cấp,
thực hiện nguyên tắc tự do hóa giá cả, tiền tệ hóa tiền lương, thực hiện giao lưu
hàng hóa thông suốt cả nước, lành mạnh hóa thị trường, khắc phục các tình trạng
kinh tế ngầm, kiểm soát và xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm.
4. Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải tiến
nền hành chính quốc gia
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng
trong quản lý nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Nó tạo hành lang pháp lý cho
tất cả mọi hoạt động sẳn xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài
12
Tiểu luận Triết
học
nước. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, các doanh nghiệp chỉ có thể làm giàu trên cơ
sở tuân thủ pháp luật quốc gia.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần thiết phải đẩy mạnh cải cách nền hành

chính quốc gia theo hướng đoạn tuyệt với cơ chế bao cấp, thay thế bộ máy quản lý
theo cơ chế tập trung chuyển sang quản lý theo phương thức công nghiệp và cơ chế
thị trường để đảm bảo điều kiện cho việc tiếp tục đổi mới kinh tế ở nước ta.
5. Đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ nhằm phát triển nền kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh
tranh nếu thường xuyên tổ chức lại sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ nhằm tăng
năng suất lao động, hạ thấp chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn
vậy cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu mới của khoa học
cách mạng – công nghệ vào sản xuất và lưu thông, đảm bảo hàng hóa đủ sức cạnh
tranh.
6. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế thị trường
Trong xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế, mọi quốc gia muốn thúc đẩy
kinh tế thị trường phát triển phải hòa nhập kinh tế trong nước với kinh tế thế giới
(mở rộng thị trường ngoài nước, hợp tác đầu tư với nước ngoài,…)
Muốn vậy, phải đa dạng hóa phương thức, đa dạng hóa đối tác, cần quán triệt
nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không được can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau và không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Đồng thời, triệt để khai thác lợi
thế so sánh của đất nước trong quan hệ kinh tế nhằm khai thác tiềm năng lao động,
tài nguyên thiên nhiên đất nước, tăng xuất khẩu để nhập khẩu, thu hút vốn kỹ thuật,
công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý.
Tuy nhiên, xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại phải dựa trên thị
trường trong nước làm cơ sở, phải có mặt hàng mũi nhọn có khả năng cạnh tranh
nhờ vào thế mạnh và lợi thế so sánh. Bởi người ta chỉ nhập khẩu những gì là thế yếu
của mình và là thế mạnh của người khác tức là bán hay xuất cái thị trường cần chứ
không phải cái bản thân có.
13
Tiểu luận Triết
học
KẾT LUẬN

Có thể nhận thấy rằng việc xây dựng và phát triển nền sản xuất hàng hóa ở
nước ta là một quá trình vừa có tính cấp bách lại vừa mang tính chiến lược lâu dài.
Trong thời kỳ chuyển biến của nền kinh tế nước ta, bên cạnh những thành tựu to
lớn, chúng ta còn phải đối mặt với nhiều thách thức, cản trở. Khó khăn đặt ra ở đây
là nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường trong bối cảnh nền kinh tế còn tồn tại
nhiều yếu kém, năng suất lao động thấp. Tuy nhiên, với sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng, ta có thể khẳng định kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo
hướng XHCN. Đó là sự định hướng của xã hội mà sự đúng đắn của nó thể hiện ở
kết quả dân giàu nước mạnh. Xã hội không còn chế độ người bóc lột người. Nền
kinh tế phát triển ngày càng cao trên cơ sở nền khoa học công nghệ và lực lượng
sản xuất hiện đại, sự phân công lao động hợp lý, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng
với kế hoạch phát triển lâu dài.
Định hướng XHCN nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lý tưởng
của Đảng ta, Nhà nước và nhân dân ta mà còn phản ánh xu thế phát triển khách
quan của thời đại cũng như quy luật tiến hóa của lịch sử. Việc chuyển biến theo xu
thế phát triển chung của thế giới với sự bắt kịp thời đại là bước ngoặt lớn tạo đà
phát triển kinh tế nước ta. Tuy nhiên, trên con đường phát triển này chúng ta còn
phải nỗ lực mới có thể đạt nhiều thành tựu lớn hơn. Có như thế nền kinh tế mới phát
triển theo đúng nghĩa đổi mới của nó.
14
Tiểu luận Triết
học
PHỤ LỤC
KINH TẾ VIỆT NAM SAU GẦN BA MƯƠI NĂM ĐỔI MỚI
Biểu đồ : Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam thời kỳ 1980-2014
Biểu đồ : Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam thời kỳ 1980-2010
15
Tiểu luận Triết
học
16

Tiểu luận Triết
học
Ba mươi năm qua, đặc biệt là từ sau năm 1986 khi tiến hành công cuộc đổi
mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử,
thay đổi đời sống mọi mặt của người dân: kinh tế tăng trưởng ở mức tương đối cao,
đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, tình hình chính trị và xã hội ổn
định, quan hệ đối ngoại được mở rộng và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng
cao trên trường quốc tế.
Nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đường lối đổi
mới của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp
lý cho nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN hình thành và phát triển.
Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế được đổi mới cơ bản từ sở
hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu sang
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phân kinh tế đan xen hỗn hợp, trong đó kinh tế
nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho khai thác
tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế- xã hội.
Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong
cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ kinh
doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
Minh chứng cho các thành quả đạt được một cách rõ nét nhất là tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Giai đoạn 1986-1990, giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, khủng
hoảng kéo dài nhưng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. GDP
tăng 4,4%/năm. Giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân tăng 8,2%/năm. Giai đoạn
1996-2000 mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, thiên tai
nghiêm trọng xảy ra liên tiếp nhưng chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng GDP đạt
7%. Bình quân từ năm 1991-2000 GDP tăng 7,6%/năm.
Giai đoạn từ 2001-2010 GDP tăng bình quân 7,26%. Giai đoạn 2011-2015
dự kiến đạt khoảng 6%/năm. Tính chung cho cả giai đoạn GDP tăng bình quân gần

7%, trong đó có tới 20 năm liên tục GDP tăng bình quân 7,43%. Thành tích này nếu
so sánh thấp hơn Hàn Quốc, Singapore, nhưng cao hơn hầu hết các nước khu vực
ASEAN còn lại.
Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định còn được minh chứng ở
tiềm lực và quy mô nền kinh tế ngày một lớn mạnh. Theo số liệu công bố tại Diễn
17
Tiểu luận Triết
học
đàn Quan hệ đôi tác phát triển Việt Nam năm 2013 GDP Việt Nam đạt gần 176 tỷ
USD, thu nhập bình quân đầu người năm 2013 đã tăng hơn 20%, đạt khoảng 1.960
USD so với mức 1.600 USD năm 2012 và nhiều khả năng hoàn thành sớm mục tiêu
đạt 2.000 USD vào năm 2015 mà Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra.
Theo WB, năm 2012, GDP tính theo PPP Việt Nam đạt 322 tỷ USD, so với
khu vực thế giới, Việt Nam đứng thứ 42.
Tư tưởng kinh tế cốt lõi trong các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ XI là tái
cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển nhanh và
bền vững. Tiền đề để thực hiện thành công nhiệm vụ này là triển khai hiệu quả ba
đột phá chiến lược, trong đó, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường vừa là một đột
phá then chốt, có tác động trực tiếp đến quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng. Do đó, việc xác định rõ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường được
cho là chìa khóa để thành công.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vĩ mô nhanh và bền vững, Chính phủ đã có
những định hướng ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành. Mục tiêu trước mắt trong 2 năm
2014-2015, Chính phủ ưu tiên tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 6,0%/năm.
Trên cơ sở đó, tiếp tục kiên định mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát; tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường, bảo
đảm phục hồi và nâng cao chất lượng tăng trưởng và đảm bảo tăng trưởng ở mức
hợp lý. Thực hiện chính sách tiền tệ đảm bảo cung ứng vốn một cách có hiệu quả
cho nền kinh tế, đồng thời góp phần kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Tiếp tục phát triển đồng bộ và lành mạnh hóa thị trường tiền tệ, giảm dần nợ xấu
thông qua việc tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng. Triển khai có hiệu quả hoạt
động của Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Bổ sung giải
pháp mới để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ thị trường nhằm tập trung
đầu tư cho các công trình trọng điểm về giao thông, thủy lợi và bệnh viện. Sử dụng
một phần thích đáng chi đầu tư công để tham gia các dự án PPP, vốn đối ứng ODA
và kinh phí giải phóng mặt bằng…
Chính sách đối ngoại của Việt Nam “sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất
cả các nước” đã đem lại những kết quả rất tích cực. Đến nay, Việt Nam có quan hệ
ngoại giao với 168 nước trên thế giới và quan hệ thương mại với 165 nước và vùng
lãnh thổ. Hiện nay, Việt Nam là thành viên tích cực của nhiều tổ chức, diễn đàn
18
Tiểu luận Triết
học
quốc tế và khu vực như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM Việt Nam cũng
đang tiến gần đến việc gia nhập WTO.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa thể bằng lòng với những thành tựu đạt được,
bởi chưa xứng với tiềm năng, kinh tế phát triển chưa bền vững. Tăng trưởng kinh tế
vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát
triển theo chiều sâu. Trong khi đó, nền tảng để Việt Nam trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ.
Bên cạnh những thành tựu to lớn và cơ bản đã đạt được, tình hình kinh tế -
xã hội của Việt Nam vẫn còn những mặt yếu kém. “Nền kinh tế Việt Nam đang
hoạt động kém hiệu quả”. Việt Nam trong thời gian vừa qua phát triển kinh tế
dàn trải theo chiều rộng. Tuy nhiên, chiến lược phát triển kinh tế chủ yếu theo
chiều rộng cũng như bất kỳ một chính sách nào cũng đều có những hạn chế của
nó. Phát triển kinh tế theo chiều rộng thông thường đòi hỏi vốn đầu tư cao và
dàn trải. Do vậy, hiệu quả vốn đầu tư khó có thể cao, biểu hiện chỉ số ICOR của
Việt Nam mặc dù có được cải thiện nhưng vẫn ở mức cao so với các nước trong
khu vực và thế giới. Hiệu quả đầu tư không cao và dàn trải được tích tụ qua các

năm là nguyên nhân chủ yếu làm cho lạm phát tăng cao.
Nhu cầu đầu tư lớn dẫn đến tình trạng đầu tư vượt xa khả năng tích lũy
của nền kinh tế, thâm hụt ngân sách luôn ở mức cao. Để bù đắp phần thiếu hụt
phải trông cậy vào đầu tư nước ngoài và vay nợ nước ngoài. Thực tế này đã làm
cho nợ quốc gia và nợ công nước ngoài tăng nhanh trong những năm vừa qua,
mặc dù vẫn trong ngưỡng an toàn nhưng cũng đến lúc phải thận trọng.
Thâm hụt cán cân thương mại, nhập siêu ở mức cao và trở thành căn
bệnh kinh niên của nền kinh tế. Lạm phát cao, nhập siêu lớn là nguyên nhân cơ
bản làm mất giá đồng Việt Nam, suy giảm dự trữ ngoại tệ quốc gia và làm giảm
lòng tin của người dân vào VND, tạo cơ hội cho đầu cơ, găm giữ, buôn lậu, buôn
bán trái phép ngoại tệ và vàng. Tới tháng 4/2011, các nước lân cận lạm phát đều
không quá 5-6%, còn Việt Nam thì lên đến gần 18% so với cùng kỳ.
Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ nguyên nhân: "Về khách
quan, do tác động tiêu cực của tình hình kinh tế thế giới; về chủ quan là do
những hạn chế, yếu kém vốn có của nền kinh tế, mô hình tăng trưởng và cơ cấu
kinh tế chậm được khắc phục, bị tích tụ nặng nề hơn trong những năm phải đối
phó với tình trạng suy giảm kinh tế và do một số hạn chế trong quản lý, điều
19
Tiểu luận Triết
học
hành của các cấp. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng
trong nhiều năm qua, nước ta luôn phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao và
kinh tế vĩ mô không vững chắc, gay gắt hơn các nước trong khu vực."
Mặc dù Việt Nam đã bước vào ngưỡng đầu của các nước có mức thu nhập
trung bình, nhưng kết cấu cơ sở hạ tầng của nền kinh tế còn nhiều bất cập và yếu
kém cùng với tâm lý thỏa mãn lan tràn trong dân cư cũng như các nhà lãnh đạo;
quyền lợi của các nhóm người trong xã hội trỗi dậy, đan xen và ràng buộc lẫn
nhau kìm hãm mọi quá trình cải cách trong nền kinh tế; tham ô, tham nhũng bóp
méo mọi quan hệ của đời sống kinh tế xã hội.
Bên cạnh đó, một trong những trở ngại của nền kinh tế Việt Nam là thiếu

nguồn nhân lực có trình độ. Nguồn lao động của Việt Nam dồi dào, trẻ, có trình
độ học vấn nhưng thiếu kỹ năng và tay nghề. Nhiều dự án đầu tư của Việt Nam
không phát huy được những lợi thế này.
Nguồn nhân lực giá rẻ không còn được xem là lợi thế cạnh tranh của Việt
Nam. Chất lượng nguồn nhân lực thấp trở thành một rào cản phát triển kinh tế.
Số người lao động qua đào tạo đang chiếm một tỷ lệ thấp, chất lượng cũng chưa
đáp ứng được những công việc đòi hỏi kiến thức và kỹ năng. Đào tạo đại học và
nghề chưa theo sát với nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề
nhân lực là trở ngại lớn đối với nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào
Việt Nam.
Kinh tế Việt Nam còn có một số tồn tại, làm giảm tốc độ tăng trưởng trong
dài hạn. “Việt Nam đã bị bỏ lại so với các nước khác trong khu vực”, cho dù đã
đạt được thành tựu tăng trưởng kinh tế cao trong một thời gian dài, trích dẫn
theo tính toán của các chuyên gia quốc tế.
20
Tiểu luận Triết
học
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,1993
2. Giáo trình Kinh tế chính trị, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. Nền sản xuất hàng hóa - Wikipedia
/>%C3%B3a
4. Kinh tế Việt Nam - Wikipedia
/>5. Sự hình thành và phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam
/>truong-dinh-huong-xhcn-o-viet-nam 267974.html
6. Tạp chí cộng sản: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta - Nhận thức lý luận, thực tiễn và kiến nghị
/>XHCN/2015/32040/Phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-
chu.aspx
7. Tạp chí tài chính: Một số giải pháp phát triển thị trường hàng hóa trong nước

/>thi-truong-hang-hoa-trong-nuoc/50396.tctc
8. Kinh tế thị trường ở Việt Nam nhìn từ góc độ triết học
DUOI-
GOC-NHIN-CUA-TRIET-HOC/
9. Sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa
/>hang-hoa/4cc04ef3
21
Tiểu luận Triết
học
22

×