Tải bản đầy đủ (.pdf) (328 trang)

Một số vấn đề cơ bản về tài chính tiền tệ 2006 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.23 MB, 328 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6
MỞ ĐẦU 8
Phần 1. VAI TRÒ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VÀ KINH NGHIỆM
NƯỚC NGOÀI VỀ SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
MỞ CỬA HỘI NHẬP 15
Chƣơng 1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
MỞ CỬA HỘI NHẬP 16
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI CHÍNH VÀ
CSTK TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 16
1.1.1. Quan niệm về tài chính, chức năng và vai trò của tài chính trong kinh tế thị
trƣờng 16
1.1.2. Chính sách tài khóa và sử dụng các công cụ của chính sách tài khóa 22
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG MỞ CỦA HỘI NHẬP 29
1.2.1. Xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ 29
1.2.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ và sự lựa chọn 32
1.2.3. Chính sách ngoại hối và chế độ điều hành tỷ giá 39
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH 42
1.3.1. Cấu trúc của thị trƣờng tài chính 42
1.3.2. Các công cụ của thị trƣờng tài chính và sự phát triển của nghiệp vụ chứng khoán
hóa 44
1.4. PHỐI HỢP ĐỒNG BỘ CSTK VÀ CSTT TRONG ĐIỀU TIẾT
KINH TẾ VĨ MÔ 47
1.4.1. Các quan điểm lý thuyết về sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong điều tiết kinh
tế vĩ mô. 47
1.4.2. Mối quan hệ tác động qua lại giữa CSTK và CSTT trong việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế vĩ mô 50
Chƣơng 2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC SỬ DỤNG


CÔNG CỤ TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ THÚC ĐẨY TĂNG
TRƢỞNG KINH TẾ 53
2.1. KINH NGHIỆM CÁC NƢỚC ĐÔNG NAM Á 53
2.1.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK 53
2.1.2. Kinh nghiệm về phát triển TTTC 56
2.2. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC 59
2.2.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK 59

2
2.2.2. Kinh nghiệm về thực thi CSTT 63
2.2.3. Kinh nghiệm về cải cách hệ thống tỷ giá hối đoái 71
2.2.4. Kinh nghiệm về thiết lập hệ thống giám sát tài chính hiện đại 74
2.3. KINH NGHIỆM CỦA HÀN QUỐC 78
2.3.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK 78
2.3.2. Kinh nghiệm về thực thi CSTT 80
2.3.3. Kinh nghiệm về giám sát TTTC 86
Phần 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2001-2005 92
Chƣơng 1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 93
1.1. THỰC TRẠNG QUY MÔ, CƠ CẤU THU NSNN GIAI ĐOẠN
2001-2005 93
1.1.1. Đánh giá kết quả chuyển dịch quy mô và cơ cấu thu NSNN giai đoạn 2001-2005 93
1.1.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình chuyển dịch cơ cấu thu NSNN giai đoạn
2001-2005 97
1.2. THỰC TRẠNG QUY MÔ, CƠ CẤU CHI NSNN GIAI ĐOẠN
2001-2005 109
1.2.1. Đánh giá kết quả thực hiện cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2001-2005 109
1.2.2. Những vấn đề đặt ra về chi NSNN giai đoạn 2001-2005 124

1.3. THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ NỢ
CÔNG GIAI ĐOẠN 2001-2005 128
1.3.1. Đánh giá kết quả xử lý bội chi ngân sách nhà nƣớc và nợ công giai đoạn 2001-
2005 128
1.3.2. Những vấn đề đặt ra trong xử lý bộ chi NSNN và quản lý nợ công giai đoạn
2001-2005 131
Chƣơng 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 142
2.1. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI
ĐOẠN 2001-2005 142
2.1.1. Đánh giá kết quả thực hiện CSTT giai đoạn 2001-2005 142
2.1.2. Những vấn đề đặt ra trong điều hành CSTT giai đoạn 2001-2005 143
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ
GIÁ GIAI ĐOẠN 2001-2005 150
2.2.1. Đánh giá kết quả quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá giai đoạn 2001-2005 150
2.2.2. Những vấn đề đặt ra về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá giai đoạn 2001-
2005 155

3
2.3. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT GIAI
ĐOẠN 2001-2005 162
2.3.1. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất giai đoạn 2001-2005 162
2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong chính sách tín dụng và lãi suất giai đoạn 2001-2005 166
2.4. THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2001-2005 169
2.4.1. Đánh giá kết quả phối hợp CSTK và CSTT trong việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mô 169
2.4.2. Những hạn chế của cơ chế phối hợp CSTK và CSTT trong việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế vĩ mô. 170
Chƣơng 3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ

TRƢỜNG TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 175
3.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2001-2005 175
3.1.1. Đánh giá tình hình phát triển của thị trƣờng tiền tệ giai đoạn 2001-2005 175
3.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với thị trƣờng tiền tệ giai đoạn 2001-2005 177
3.2. THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG VỐN GIAI ĐOẠN 2001-2005 180
3.2.1. Đánh giá thực trạng phát triển thị trƣờng vốn giai đoạn 2001-2005 180
3.2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc phát triển thị trƣờng vốn giai đoạn 2001-2005 185
3.3. THỰC TRẠNG THANH TRA GIÁM SÁT THỊ TRƢỜNG TÀI
CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 191
3.3.1. Thực trạng thanh tra, giám sát ngân hàng giai đoạn 2001-2005 191
3.3.2. Thực trạng thanh tra, giám sát bảo hiểm 195
3.3.3. Thực trạng thanh tra, giám sát chứng khoán 198
3.3.4. Đánh giá sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính 203
Phần 3. MỤC TIÊU ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
CSTC, TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 208
Chƣơng 1. NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG VÀ MỤC TIÊU ĐỊNH
HƢỚNG HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 209
1.1. NHỮNG XU HƢỚNG VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ
TRONG NƢỚC ẢNH HƢỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 209
1.1.1. Xu hƣớng và đặc điểm kinh tế thế giới giai đoạn 2006-2010 209
1.1.2. Bối cảnh kinh tế trong nƣớc giai đoạn 2006-2010 216
1.2. CÁC MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ ĐỊNH HƢỚNG LỚN VỀ
KINH TẾ, TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐẾN 2010 220
1.2.1. Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội đến 2010 220
1.2.2. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu 221
1.2.3. Các định hƣớng phát triển tài chính, tiền tệ đến năm 2010 221

4

1.3. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHỦ YẾU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 222
1.3.1. Cơ hội đối với hoạt động kinh tế và tài chính, tiền tệ Việt Nam 222
1.3.2. Thách thức đối với kinh tế và tài chính, tiền tệ 225
Chƣơng 2. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CHÍNH
SÁCH TÀI KHÓA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 231
2.1. ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU THU NSNN GIAI ĐOẠN 2006-2010 231
2.1.1. Yêu cầu chủ yếu điều chỉnh cơ cấu thu NSNN giai đoạn 2006-2010 231
2.1.2. Định hƣớng điều chỉnh cơ cấu thu NSNN 232
2.1.3. Chính sách và giải pháp điều chỉnh cơ cấu thu NSNN 233
2.2. ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU CHI NSNN GIAI ĐOẠN 2006-2010 242
2.2.1. Yêu cầu chủ yếu điều chỉnh cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2006 -2010 242
2.2.2. Định hƣớng đổi mới cơ cấu chi NSNN 242
2.2.3. Chính sách giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2006-2010 244
2.3. XỬ LÝ BỘI CHI NSNN VÀ NỢ CÔNG GIAI ĐOẠN 2006-2010 250
2.3.1. Quan điểm về xử lý bội chi NSNN nhằm duy trì sự bền vững của NSNN trong
giai đoạn 2006-2010 250
2.3.2. Định hƣớng về bội chi NSNN và xử lý nợ công nhằm duy trì sự bền vững hợp lý
của NSNN trong giai đoạn 2006-2010 251
2.3.3. Các giải pháp xử lý và tăng cƣờng quản lý nợ công trong giai đoạn 2006-2010 255
Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 261
3.1. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 261
3.1.1. Xác định hệ thống mục tiêu và cơ chế truyền tải CSTT 261
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống mục tiêu, cơ chế truyền tải CSTT 262
3.2. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ
GIAI ĐOẠN 2006-2010 264
3.2.1. Định hƣớng hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá 264
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá 265
3.3. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ TÍN DỤNG GIAI

ĐOẠN 2006-2010 271
3.3.1. Định hƣớng hoàn thiện chính sách lãi suất và tín dụng giai đoạn 2006 – 2010. 271
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất và tín dụng giai đoạn 2006 - 2010. 271
3.4. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG PHỐI HỢP
GIỮA CSTK VÀ CSTT TRONG ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH
TẾ 276
3.4.1. Định hƣớng phối hợp giữa CSTK và CSTT 276
3.4.2. Giải pháp tăng cƣờng phối hợp giữa CSTK và CSTT 277

5
Chƣơng 4. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ
TRƢỜNG TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2006-2010 280
4.1. PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 280
4.1.1. Định hƣớng chủ yếu phát triển thị trƣờng tiền tệ giai đoạn 2006-2010 280
4.1.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng tiền tệ giai đoạn 2006 – 2010. 281
4.2. PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG VỐN GIAI ĐOẠN 2006-2010 284
4.2.1. Định hƣớng chủ yếu phát triển thị trƣờng vốn giai đoạn 2006-2010 284
4.2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng vốn 2006-2010 285
4.3. ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THANH TRA GIÁM
SÁT THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH 289
4.3.1. Sự cần thiết phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống thanh tra, giám sát TTTC và
dịch vụ tài chính Việt Nam 289
4.3.2. Giải pháp đổi mới hệ thống giám sát thị trƣờng tài chính, hình thành tổ chức giám
sát TTTC thống nhất 291
KẾT LUẬN 296
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 304
PHỤ LỤC 307




6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN Hiệp hội các nƣớc Đông Nam Á
BNM Ngân hàng trung ƣơng Malaysia
CAB Cán cân vãng lai
CB Cán cân vốn
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
CNY Đồng Nhân dân tệ
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK Chính sách tài khóa
CTCP Công ty cổ phần
CSTT Chính sách tiền tệ
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
DNNN Doanh nghiệp nhà nƣớc
DNV&N Doanh nghiệp vừa và nhỏ
ĐTPT Đầu tƣ phát triển
ECB Ngân hàng trung ƣơng châu Âu
EU Liên minh châu Âu
FED Cục dự trữ liên bang Mỹ
GDCK Giao dịch chứng khoán
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GTGT Giá trị gia tăng
HĐND Hội đồng nhân dân
HĐQT Hội đồng quản trị
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
MAS Cơ quan quản lý tiền tệ singapore
MB Tiền cơ bản
M2 Tổng phƣơng tiện thanh toán
NDA Tài sản có trong nƣớc ròng

NER Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
NFA Tài sản có ngoại tệ ròng
NHNN NHNN việt nam
NHTM Ngân hàng thƣơng mại
NHTW Ngân hàng trung ƣơng
NHNN Ngân hàng nhà nƣớc
NHNNg Ngân hàng nƣớc ngoài
NHTM Ngân hàng thƣơng mại
NHTMCP Ngân hàng thƣơng mại cổ phần
NHTMNN Ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc
NHTMVN Ngân hàng thƣơng mại Việt Nam
NHTW Ngân hàng Trung ƣơng
NSĐP Ngân sách địa phƣơng
NSNN Ngân sách nhà nƣớc

7
NSTW Ngân sách Trung ƣơng
OMOs Nghiệp vụ thị trƣờng mở
PBC Ngân hàng Trung ƣơng Trung Quốc
PT&DB Phân tích và dự báo
REPO Giao dịch mua có kỳ hạn
RER Tỷ giá hối đoái thực
REER Tỷ giá hối đoái thực hữu hiệu
RERE Tỷ giá hối đoái thực cân bằng
SWAP Hoán đổi
TBCN Tƣ bản chủ nghĩa
TCTD Tổ chức tín dụng
TNCN Thu nhập cá nhân
TTCK Thị trƣờng chứng khoán
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt

TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTTC Thị trƣờng tài chính
TTTD Thị trƣờng tín dụng
USD Đô la Mỹ
VND Đồng Việt Nam
WTO Tổ chức Thƣơng mại thế giới
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XDCB Xây dựng cơ bản
XNK Xuất nhập khẩu


8
MỞ ĐẦU
Sự cần thiết nghiên cứu
Trong thập kỷ 90, trên con đƣờng tiếp tục thực hiện đƣờng lối đổi mới
nền kinh tế, các chính sách và công cụ tài chính, tiền tệ đã đƣợc tích cực sử
dụng hƣớng vào mục tiêu phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhờ vậy,
nền kinh tế nƣớc ta đã có bƣớc tăng trƣởng cao trong thời gian dài, tạo đà cho
sự phát triển kinh tế trong cả giai đoạn 1991-2000. Bƣớc vào giai đoạn 2001-
2010, Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội nƣớc ta đã đặt ra mục tiêu cao về
mức tăng trƣởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ to lớn đó, Chính phủ đã sử dụng đồng bộ hệ
thống các công cụ kinh tế, trong đó có tài chính, tiền tệ để điều tiết vĩ mô nền
kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trƣởng nhanh. Tổng kết hoạt động thực tiễn giai
đoạn 2001-2005 đã chứng tỏ rằng: CSTC và CSTT đã góp phần tích cực thúc
đẩy tăng trƣởng, thực hiện thành công chiến lƣợc xóa đói giảm nghèo, đảm bảo
điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5
năm 2001-2005.
Bƣớc vào giai đoạn 2006-2010 – giai đoạn mở cửa hội nhập đầy đủ và
sâu rộng với nền kinh tế thế giới, đã nảy sinh nhiều cơ hội mới, đồng thời cũng

đặt ra những thách thức và khó khăn nhiều mặt trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ.
Trong bối cảnh đó, CSTC và CSTT đang đặt ra nhiều vấn đề cần tập trung giải
quyết.
Thứ nhất, CSTK, đặc biệt là chính sách thu, chi NSNN đã đƣợc đổi mới
theo hƣớng huy động và phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực tài chính, góp
phần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và công bằng
xã hội. Tuy nhiên, CSTK còn nhiều hạn chế và bất cập, chƣa trở thành khâu
đột phá, có tác dụng mở đƣờng thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội. Phân
phối và sử dụng nguồn lực tài chính còn kém hiệu quả, thất thoát lãng phí lớn,
đầu tƣ của Nhà nƣớc chiếm tỷ trọng lớn nhƣng mức đóng góp vào tăng trƣởng
kinh tế chƣa tƣơng xứng; cơ chế, CSTC tuy đã đƣợc đổi mới nhƣng còn nhiều
bất cập, không tƣơng thích với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, CSTT, mặc dù đã đƣợc sử dụng linh hoạt để điều tiết vĩ mô
song hiệu quả thấp; hoạt động tín dụng trung và dài hạn còn chậm phát triển,
chƣa đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội, chính sách
ngoại hối còn nhiều bất cập.
Thứ ba, TTTC đã hình thành và trở thành một kênh huy động vốn
quan trọng cho ĐTPT nhƣng hoạt động chƣa ổn định và chƣa vững chắc, còn
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bên cạnh đó hoạt động của các trung gian tài chính còn
bất cập, chức năng nhiệm vụ chồng chéo, hiệu quả thấp. Mặt khác, giám sát
TTTC – một chức năng quan trong trong hoạt đồng tài chính ngân hàng tuy
đƣợc chú trọng nhƣng hiệu quả hoạt động thấp, cần phải đƣợc nghiên cứu đổi
mới hoàn thiện cả về nội dung, phƣơng pháp và tổ chức bộ máy giám sát
TTTC.

9
Thứ tư, mặc dù tài chính, tiền tệ là những phạm trù kinh tế khác nhau,
nhƣng có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, trở thành các công cụ điều
tiết quan trọng nền kinh tế thị trƣờng, song trong hoạt động thực tiễn, việc
hoạch định và điều hành chính sách tài chính, tiền tệ chƣa tạo ra sự gắn kết

hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Thứ năm, những vấn đề nêu trên đƣợc đặt trong bối cảnh Việt nam đã
gia nhập WTO. Vì vậy, vấn đề điều chỉnh các CSTK và CSTC cho phù hợp
với thông lệ quốc tế càng trở nên cấp bách.
Với ý nghĩa là một lĩnh vực then chốt mang tính huyết mạch đối với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách và công cụ tài chính, tiền
tệ cần phải đƣợc đổi mới và hoàn thiện hƣớng vào thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mô, trong đó có mục tiêu thúc đẩy tăng trƣởng, kiềm chế lạm pháp,
tạo công ăn, việc làm, và xử lý các vấn đề thâm hụt thƣơng mại. Trong đó,
việc xác định những vấn đề cơ bản của tài chính, tiền tệ trong giai đoạn mới
(2006-2010) có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu
của Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 ở nƣớc ta.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề cơ bản về tài chính,
tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2006 -2010” ở cấp Nhà nƣớc là cần thiết,
không chỉ có ‎nghĩa tổng kết những lý luận mới, hiện đại về tài chính, tiền tệ,
mà còn góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách do thực tiễn đặt ra trong
việc đề xuất hệ thống giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
công cụ tài chính, tiền tệ, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trƣởng kinh tế
nhanh và bền vững nhƣ Chiến lƣợc phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 đã
đặt ra, đồng thời tạo cơ sở vững chắc để phát triển tăng tốc trong giai đoạn
2010-2020.
Tình hình nghiên cứu
Trong kinh tế thị trƣờng, những vấn đề lý luận về tài chính – tiền tệ đã
đƣợc các nhà khoa học trên thế giới rất quan tâm nghiên cứu trong lịch sử
phát triển của mình. Nhiều quan điểm và các luận thuyết về tài chính, tiền tệ
theo các trƣờng phái khác nhau đã hình thành và trở thành những vấn đề kinh
điển trong các học thuyết kinh tế.
Tuy nhiên, trong kinh tế học hiện đại, các nhà khoa học đã nhận thấy
rằng, không thể chỉ sử dụng thuần tuý một học thuyết nào đó trong lĩnh vực
tài chính, tiền tệ để giải quyết các vấn đề phức tạp của nền kinh tế. Các nhà

kinh tế học ngày nay cho rằng, cần phải kết hợp các học thuyết kinh tế này
thông qua việc sử dụng linh hoạt chính sách tài khoá và CSTT mới bảo đảm
hiệu quả điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Việc sử dụng các lý thuyết của kinh tế học hiện đại để điều tiết vĩ mô
nền kinh tế đã đƣợc vận dụng linh hoạt và uyển chuyển tuỳ thuộc vào điều
kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong giai
đoạn 1992-2000 Chính quyền của Tổng thống Bill Cliton đã vận dụng hiệu

10
quả CSTK và CSTT để điều tiết vĩ mô nền kinh tế và kết quả là nền kinh tế
Mỹ đã đạt những thành tựu to lớn với những bƣớc phát triển ngoạn mục
trong thập kỷ 90.
Trong số các nền kinh tế mới nổi, Hàn Quốc là nƣớc đã đạt đƣợc
những thành công đáng kể trong việc sử dụng các công cụ của CSTK và
CSTT để giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội trong phạm vi quốc gia. Đặc
biệt là Trung Quốc - một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi với nhiều nét
tƣơng đồng nhƣ Việt Nam – cũng rất thành công trong việc sử dụng hiệu quả
các công cụ của CSTK và CSTT để can thiệp và điều chỉnh sự phát triển nền
kinh tế Trung Quốc, giữ cho kinh tế tăng trƣởng nhanh trong gần 3 thập kỷ.
Ở nƣớc ta, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang kinh tế thị trƣờng định hƣớng XHCN, những vấn đề lý
luận, cũng nhƣ đánh giá thực tiễn sử dụng công cụ tài chính – tiền tệ để điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy tăng trƣởng nhanh và ổn định luôn luôn thu
hút sự quan tâm chú ý của cả Chính phủ lẫn giới khoa học.
Trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế ở nƣớc ta đã xuất hiện nhiều
chƣơng trình nghiên cứu về chính sách và công cụ tài chính – tiền tệ. Đặc biệt
trong thập kỷ 90, nhất là những năm 1998-2003 đã công bố nhiều công trình
nghiên cứu phục vụ hoạch định chính sách và chiến lƣợc trong lĩnh vực tài
chính – tiền tệ: Chiến lƣợc tài chính Việt nam đến năm 2010; Chiến lƣợc phát
triển ngân hàng giai đoạn 2001 – 2010; Chiến lƣợc phát triển TTCK giai

đoạn 2001 – 2010; Chiến lƣợc phát triển bảo hiểm giai đoạn 2001 – 2010;
Chiến lƣợc vay và trả nợ nƣớc ngoài đến năm 2010. Trong các chƣơng trình
nghiên cứu đó, nhiều giải pháp về tài chính – tiền tệ đã đƣợc đề xuất nhằm
thúc đẩy nền kinh tế – xã hội phát triển nhanh và bền vững.
Hàng năm, các tổ chức quốc tế nhƣ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ
quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á… thƣờng đƣa ra các báo cáo đánh giá
về thực trạng công cuộc cải cách kinh tế-xã hội của Việt Nam. Các báo cáo
này khá tổng quát, bao trùm hầu hết các vấn đề nổi cộm của nền kinh tế, xã
hội Việt Nam nhƣ tăng trƣởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, đầu tƣ, cải cách
tài khoá, cải cách ngân hàng… Đồng thời, các báo cáo này cũng đƣa ra một
số đề xuất, kiến nghị đối với Việt Nam về các giải pháp tài chính – tiền tệ
nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, đây là cách nhìn của các tổ chức quốc tế, chịu ảnh hƣởng
rất sâu sắc của tƣ tƣởng phát triển nền kinh tế thị trƣờng phát triển. Do vậy,
một số nhận xét, đánh giá và định hƣớng phát triển về kinh tế-xã hội Việt
Nam còn phù hợp với thực tiễn có tính đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Do
đó, một số đề xuất, kiến nghị có tính chất đẩy mạnh cải cách quá “nhanh,
mạnh” sẽ khó có khả năng thực hiện trong tƣơng lai gần. Các đánh giá, nhận
xét cũng nhƣ đề xuất kiến nghị chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực, vấn đề
then chốt nhƣ CSTK, CSTT mang tính vĩ mô cao, mức độ cụ thể thấp. Các
dự báo về phát triển kinh tế, xã hội thƣờng trong ngắn hạn (1 – 3 năm). Tuy

11
vậy, nghiên cứu kỹ các báo cáo này rất có ‎ý nghĩa đối với các nhà hoạch định
chính sách, các nhà khoa học Việt Nam nhằm bổ sung, hoàn thiện hệ thống
giải pháp và xác định bƣớc đi, lộ trình thích hợp cho tiến trình cải cách kinh
tế- xã hội ở nƣớc ta.
Bƣớc vào giai đoạn 2006-2010, giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng
với nền kinh tế thế giới, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội trong và ngoài nƣớc nẩy
sinh sẽ ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động tài chính, tiền tệ của đất nƣớc.

Tác động đó có thể đƣa đến sự vận động của phạm trù tài chính, tiền tệ theo
những định hƣớng khác nhau. Việc nắm bắt đƣợc những xu thế đó để có giải
pháp điều chỉnh kịp thời đang đặt ra những nhiệm vụ cấp bách cho các nhà
khoa học kinh tế Việt Nam. Xét theo khía cạnh đó, đến nay vẫn chƣa có một
công trình hoặc những nghiên cứu nào có cách đánh giá đầy đủ, toàn diện
mang tính vĩ mô về thực tiễn hoạt động tài chính-tiền tệ giai đoạn 2001-2005
ở nƣớc ta, tạo cơ sở khoa học và thực tiễn để đề xuất định hƣớng CSTC và
CSTT trong giai đoạn 2006-2010. Những nghiên cứu trong đề tài này sẽ kế
thừa hợp lý những lý luận và kinh nghiệm quốc tế để vận dụng vào hoàn
cảnh cụ thể nƣớc ta.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát chung nhất của đề tài là nghiên cứu nhằm tổng kết
những lý luận mới, hiện đại về tài chính-tiền tệ, nhận dạng những vấn đề cơ
bản về tài chính – tiền tệ của nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay, đề xuất
phƣơng hƣớng giải pháp xử lý các vấn đề cơ bản về tài chính, tiền tệ giai
đoạn 2006-2010 nhằm thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững.
Mục tiêu cụ thể, đƣợc xác định là:
 Nghiên cứu, tổng kết, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tài chính,
tiền tệ trong điều kiện mới.
 Xác lập luận cứ khoa học và kinh nghiệm quốc tế trong việc sử
dụng các công cụ tài chính – tài chính để thúc đẩy phát triển kinh
tế – xã hội trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế và mở cửa hội
nhập.
 Đánh giá thực trạng tài chính, tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2001–
2005, chỉ rõ những thành tựu, những mặt hạn chế, yếu kém của
công cuộc cải cách tài chính, tiền tệ.
 Phân tích bối cảnh kinh tế - xã hội trong nƣớc và quốc tế giai đoạn
2006-2010, những cơ hội và thách thức đặt ra đối với hoạt động tài
chính – tiền tệ ở nƣớc ta, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, nhiệm
vụ và định hƣớng đổi mới lĩnh vực tài chính – tiền tệ giai đoạn

2006-2010.
 Xác định rõ những yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc trong giai đoạn 2006-2010 đặt ra cho lĩnh vực tài chính, tiền

12
tệ, trên cơ sở đó vạch rõ những vấn đề tài chính, tiền tệ cơ bản cần
giải quyết và luận cứ khoa học và thực tiễn của việc xác định đó.
 Xác lập các quan điểm và yêu cầu giải quyết có hiệu quả các vấn
đề cơ bản về tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao vai trò và tác động
của tài chính, tiền tệ trong phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc giai
đoạn 2006-2010.
 Đề xuất đƣợc hệ thống giải pháp về các vấn đề tài chính – tiền tệ
cơ bản giai đoạn 2006 – 2010 phù hợp kinh tế thị trƣờng và mở
cửa hội nhập.
Cách tiếp cận nghiên cứu
Tài chính và tiền tệ là hai phạm trù độc lập có các chức năng riêng có
của mình, có quá trình phát sinh, phát triển trong những điều kiện khác nhau,
nhƣng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau.
Tài chính ra đời phải có 2 điều kiện: sự ra đời của nhà nƣớc và sự phát
sinh, phát triển của kinh tế hàng hóa và tiền tệ. Tài chính phản ánh và biểu
hiện sự vận động của tiền tệ trong quá trình hình thành các quỹ tiền tệ của các
chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Tài chính không phải là tiền tệ, mà chỉ
dùng tiền tệ làm hình thức biểu hiện cho nội dung vật chất của mình. Bản
thân tài chính và tiền tệ là hai thuộc tính khác nhau và trở thành đối tƣợng và
những vấn đề nghiên cứu khác nhau của khoa học kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, tài chính và tiền tệ là hai công cụ quan
trọng đƣợc nhà nƣớc sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, bản
thân trong nội hàm từng công cụ và CSTC hay CSTT cũng chứa dựng nhiều
lĩnh vực và nhiều khâu khác nhau, mà mỗi lĩnh vực đó, trong điều kiện phát
triển kinh tế và mở cửa hội nhập ở nƣớc ta hiện nay đều là những vấn đề có

nội dung nghiên cứu rất phức tạp, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn.
Do vậy, nội dung nghiên cứu đặt ra cho đề tài này trong điều kiện của nƣớc ta
trong giai đoạn 2006-2010 bao gồm:
Thứ nhất, những vấn đề đổi mới CSTK
NSNN là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính, một lĩnh
vực quan trọng trong CSTK của nhà nƣớc có vai trò đảm bảo nguồn lực tài
chính cần thiết để duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, đồng thời thực
hiện điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế-xã hội. Trong xã hội hiện đại, vai
trò của CSTK càng trở nên trọng yếu giúp Nhà nƣớc điều hành nền kinh tế xã
hội.
CSTK bao gồm nhiều khâu, nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, mà
mỗi khâu, mỗi lĩnh vực hoạt động đó vừa chứa đựng những đặc điểm chung
nhất của hệ thống tài chính, vừa mang những đặc thù riêng, trong đó bao hàm
nhiều vấn đề phức tạp nhƣ thuế, chi tiêu ngân sách, bội chi ngân sách và nợ
chính phủ.

13
Trong một nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập ngày càng sâu
rộng nhƣ ở nƣớc ta hiện nay, thuế, chi tiêu ngân sách và vay nợ chính phủ
đang trở thành những vấn đề thực tiễn quan trọng trong hoạt động tài chính
và đang đặt ra những yêu cầu cần đổi mới và hoàn thiện. Vì vậy, đổi mới và
hoàn thiện cơ cấu thu, chi NSNN, xử lý bội chi và vay nợ chính phủ đã trở
thành những vấn đề trọng tâm trong CSTK giai đoạn 2006-2010.
Thứ hai, những vấn đề về đổi mới điều hành CSTT
HNQT trong lĩnh vực tài chính ngân hàng giai đoạn 2006-2010 gắn
liền với việc tự do hoá tài chính, tự do hoá về luồng luân chuyển vốn, đòi hỏi
phải tăng cƣờng tính linh hoạt và hiệu quả của CSTT, chính sách tín dụng và
điều hành tỷ giá. Nhƣ vậy, CSTT lại bao hàm trong đó nhiều vấn đề cần giải
quyết.
Trong những năm qua, việc điều hành CSTT đã đạt đƣợc một số kết

quả nhất định theo hƣớng chuyển dần sang điều tiết tiền tệ gián tiếp, duy trì
ổn định tiền tệ, ổn định tỷ giá, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng
trƣởng kinh tế. Hệ thống mục tiêu CSTT và các công cụ CSTT bƣớc đầu
đƣợc hình thành. Tuy nhiên, trong điều hành CSTT vẫn còn có một số hạn
chế, bất cập về khả năng kiểm soát tiền tệ, điều tiết thị trƣờng tiền tệ. Vì vậy,
đổi mới việc điều hành CSTT phục vụ mục tiêu tăng trƣởng trở thành một
vấn đề quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô ở nƣớc ta giai đoạn 2006-
2010.
Với ý nghĩa là một nội dung của CSTT, song chính sách tín dụng lại
đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ đảm bảo cung ứng phƣơng tiện thanh toán
cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa
trên các quỹ cho vay đƣợc tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ
thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trƣờng. Tuy
nhiên, trong bối cảnh TTTC nói chung và thị trƣờng tiền tệ ở nƣớc ta còn
nhiều bất cập, các các nguyên tắc của thị trƣờng chƣa đƣợc tuân thủ một cách
triệt để thì hiệu ứng đòn bẩy của chính sách tín dụng và lãi suất còn rất hạn
chế trong việc kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả.
Thứ ba, những vấn đề về phát triển TTTC
TTTC là một trong những thị trƣờng yếu tố sản xuất quan trọng trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trƣờng hiện nay ở nƣớc ta, trong đó bao gồm
thị trƣờng tiền tệ (thị trƣờng ngắn hạn) và thị trƣờng vốn (thị trƣờng vốn tín
dụng dài hạn và TTCK). Một TTTC phát triển đồng bộ sẽ là tiền đề cơ bản để
các nguồn vốn đƣợc huy động và phân bổ có hiệu quả cho phát triển kinh tế-
xã hội. Tuy nhiên, TTTC ở nƣớc ta đang trong quá trình hình thành và phát
triển, bản thân nội tại từng trƣờng cũng chứa dựng các yếu tố không vững
chắc, phát triển chƣa đồng bộ và chƣa phát huy vai trò to lớn trong huy động
nguồn lực cho ĐTPT. Mặt khác, sự phát triển không ổn định và quá nóng của
TTCK cùng với khuynh hƣớng đầu cơ của thị trƣờng trong thời gian gần đây
là những nhân tố gây bất ổn và chứa đựng nguy cơ mất an toàn hệ thống tài


14
chính. Điều đó đặt ra vấn đề hình thành tổ chức giám sát TTTC thống nhất
nhằm đảm bảo an toàn và an ninh tài chính quốc gia.
Vì vậy, hoàn thiện và phát triển TTTC là một nội dung quan trọng và
trở thành vấn đề cấp thiết, mang tính thời sự trong giai đoạn 2006-2010 ở
nƣớc ta.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đã đƣợc triển khai với một cách tiếp cận vừa khoa học, vừa thực
tế, nghiên cứu các vấn đề cả trong nƣớc và kinh nghiệm nƣớc ngoài, gắn lý
luận với thực tiễn, dùng lý luận để xem xét thực tiễn, qua đó tổng kết thực
tiễn để làm sáng tỏ và bổ sung thêm các khía cạnh lý luận về tài chính, tiền tệ
trong nền kinh tế thị trƣờng chƣa hoàn chỉnh ở Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài
không đi sâu phân tích các vấn đề lý luận, các học thuyết kinh tế - tài chính –
tiền tệ mang tính học thuật, mà tập trung phân tích chính sách, xây dựng quan
điểm nhằm xử lý những vấn đề cụ thể về tài chính- tiền tệ trong giai đoạn
2006-2010.
Đề tài đã sử dụng các phƣơng pháp phân tích, dự báo, thống kê, điều
tra khảo sát. Trong đó, có bao gồm các đánh giá thực trạng hoạt động tài
chính – tiền tệ giai đoạn 2001-2005; các phân tích, dự báo hoạt động kinh tế,
tài chính, tiền tệ giai đoạn 2006-2010.
Đề tài đã tổ chức một số cuộc hội thảo, tọa đàm và báo cáo khoa học
nhằm cung cấp thông tin và phƣơng pháp luận khi tổ chức nghiên cứu.
Kết cấu của đề tài
Đề tài đƣợc xây dựng thành 3 Phần. Phần thứ nhất dành nghiên cứu
các vấn đề lý luận chủ yếu. Phần thứ 2 bàn về thực trạng CSTK, CSTT và
TTTC. Phần thứ ba dành nghiên cứu các vấn đề định hƣớng và giải pháp đổi
mới hoàn thiện CSTK, CSTT và phát triển TTTC trong giai đoạn 2006-2010.
Trong mỗi phần lại đƣợc kết cấu thành các chƣơng theo các chủ đề
tƣơng ứng, mỗi chƣơng lại chia thành nhiều mục và tiểu mục thích hợp.




15
Phần 1. VAI TRÒ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VÀ
KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VỀ SỬ
DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH,
TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG MỞ CỬA HỘI NHẬP

16
Chƣơng 1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ
TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG MỞ CỬA HỘI NHẬP
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI CHÍNH VÀ
CSTK TRONG KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1.1.1. Quan niệm về tài chính, chức năng và vai trò của tài chính trong
kinh tế thị trƣờng
1). Quan niệm về tài chính
Thuật ngữ "tài chính" bắt nguồn từ tiếng La-tinh "fiancia", dịch theo
nghĩa hẹp là thanh toán, thu nhập; theo nghĩa rộng là vốn tiền tệ, chu chuyển
tiền tệ. Từ thế kỷ XIII-XV lần đầu tiên danh từ "thanh toán bằng tiền" đƣợc
sử dụng rộng rãi trong một số thành phố nổi tiếng của Italia với tƣ cách là
những trung tâm khổng lồ về thƣơng mại và ngân hàng của châu Âu. Sau đó
thuật ngữ này đƣợc lan rộng ra các nƣớc khác và đƣợc sử dụng nhƣ một khái
niệm, gắn liền với hệ thống các quan hệ tiền tệ hình thành các quỹ tiền tệ
đƣợc động viên bởi nhà nƣớc để thực hiện các chức năng chính trị và kinh tế.
Theo Từ điển Larousse
1
cho rằng Tài chính (tiếng Pháp cổ là finer) có
nghĩa là một khoản thanh toán. Thuật ngữ tài chính (nếu đứng ở số nhiều -

finances), đƣợc hiểu là tài sản công cộng; toàn bộ các nguồn thu và khoản chi
của Nhà nƣớc, hoặc của một lãnh thổ; Nếu hiểu theo nghĩa thông thƣờng: là
nguồn tiền mặt của một cá nhân.
Trong kinh tế thị trƣờng, thuật ngữ tài chính còn đƣợc mô tả theo
nghĩa là vốn dƣới hình thức tiền tệ, đƣợc thể hiện dƣới dạng các quỹ cho vay
hoặc đi vay thông qua TTTC hay định chế, tổ chức tài chính.
Nhƣ vậy, tài chính đƣợc quan niệm nhƣ là nguồn tiền bạc, thu nhập
hay tài sản; là cách thức, hay sự huy động, phân phối, bố trí, cung cấp, cấp
phát, trợ giúp, chi tiêu, sử dụng, kiểm soát các quỹ tiền bạc; điều hành, dẫn
dắt của cải. Các quan niệm này thƣờng xem xét ở khía cạnh mô tả các biểu
hiện, hiện tƣợng của hoạt động tài chính.
Có thể thấy rằng, khái niệm tài chính gắn liền mật thiết với tiền tệ và
các quan hệ hàng hóa-tiền tệ. Tài chính nảy sinh trong điều kiện kinh tế hàng
hóa-tiền tệ dƣới tác động ảnh hƣởng của sự phát triển chức năng và nhu cầu
của nhà nƣớc và nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Do đó, tài chính có quan hệ
mật thiết với các quá trình kinh tế-xã hội, đƣợc thể hiện trong các hình thức
vận động khác nhau và nhất định bao giờ cũng biểu hiện dƣới hình thái tiền tệ
và kèm theo sự vận động của tiền tệ.
Từ quan niệm đó, ngƣời ta thƣờng nhầm lẫn tài chính với tiền tệ và
trong nhiều trƣờng hợp tài chính đƣợc coi là tiền tệ. Những quan niệm sai

17
lầm đó đƣa đến việc không đánh giá đúng mức vai trò của các phạm trù kinh
tế khách quan.
Để có cách hiểu đúng đắn về bản chất của tài chính, chúng tôi nêu lên
một số dấu hiệu có tính chất đặc trƣng để nhận biết về phạm trù tài chính.
Thứ nhất, trong thực tiễn, nếu quan sát quá trình vận động của tài
chính có thể nhận thấy: các biểu hiện bên ngoài của tài chính thể hiện ra dƣới
dạng các hiện tƣợng thu vào bằng tiền và các hiện tƣợng chi ra bằng tiền ở
các chủ thể kinh tế-xã hội. Các hiện tƣợng thu, chi bằng tiền đó đều mang

một tính chất chung là vốn tiền tệ đang vận động. Nhƣ vậy, tính chất tiền tệ
của các quan hệ tài chính - đó là một dấu hiệu quan trọng của tài chính.
Dấu hiệu này khẳng định rằng, sự hoạt động của tài chính chỉ có thể
khi có những điều kiện nhất định, mà nếu thiếu điều kiện đó thì tức khắc biến
mất ranh giới tác động của phạm trù này. Sự xuất hiện các quan hệ tài chính
luôn luôn biểu hiện ở chỗ tồn tại sự vận động của vốn tiền tệ, ở đâu thiếu sự
vận động đó thì nơi đó không phải là chỗ nảy sinh tài chính. Nhƣ vậy, sự hiện
diện của tiền tệ là điều kiện bắt buộc cho sự tồn tại của tài chính. Không có
tiền tệ thì không thể có tài chính. Tiền tệ biểu hiện cơ sở vật chất cho sự tồn
tại tài chính. Tuy nhiên, tài chính và tiền tệ là hai khái niệm khác nhau, nhƣng
có quan hệ mật thiết với nhau. Tài chính khác biệt căn bản với tiền tệ cả ở nội
dung và cả ở các chức năng mà nó thực hiện. Ngƣời ta có thể cảm nhận đƣợc
tiền tệ nhờ vào trực giác, còn tài chính biểu hiện sự vận động của tiền tệ, luôn
ẩn đằng sau sự vận động của tiền tệ, khiến ngƣời ta không “sờ mó” đƣợc vào
tài chính.
Thứ hai, lĩnh vực nảy sinh và hoạt động của tài chính chính là khâu
phân phối, mà trong đó diễn ra quá trình phân phối giá trị sản phẩm xã hội và
thu nhập giữa các chủ thể trong hoạt động kinh tế. Bởi vậy dấu hiệu quan
trọng của tài chính là tính chất phân phối của các quan hệ tài chính.
Thứ ba, sự phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận
động của vốn tiền tệ và có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính.
Các nguồn tài chính đó đƣợc hình thành ở các chủ thể kinh tế và nhà nƣớc
nhờ các dạng vận động khác nhau của thu nhập, tích lũy, thanh toán, trích
nộp dƣới hình thức tiền tệ và đƣợc sử dụng vào những mục đích nhất định để
đáp ứng nhu cầu của mình.
Thứ tư, chính các nguồn tài chính là sự biểu hiện vật chất hóa của các
quan hệ tài chính và việc sử dụng các nguồn tài chính đó đƣợc thực hiện về
cơ bản thông qua các quỹ tiền tệ có những mục đích nhất định. Bởi vậy dấu
hiệu đặc biệt quan trọng của tài chính, khác biệt với các phạm trù phân phối
khác là ở chỗ, các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự hình thành các

quỹ tiền tệ có hình thức biểu hiện là các nguồn tài chính.
Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể nói
trên (Nhà nƣớc, doanh nghiệp, hộ gia đình) chính là quá trình tham gia phân

18
phối các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền của các
chủ thể. Các hoạt động thu, chi bằng tiền đó là sự vận động của tiền tệ - mặt
biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn các quỹ tiền tệ do các chủ thể nắm giữ
là biểu hiện nội dung vật chất của tài chính - một thuộc tính vốn có của tài
chính. Nhƣng trên cơ sở các hoạt động thu, chi bằng tiền do các chủ thể thực
hiện lại làm nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong xã hội. Đó
chính là các quan hệ về mặt lợi ích nảy sinh trong quá trình tham gia phân
phối và sử dụng các nguồn tài chính để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ.
Các quan hệ kinh tế đó chính là mặt bản chất bên trong của tài chính, biểu
hiện nội dung kinh tế-xã hội của tài chính.
Từ những phân tích nêu trên chúng tôi cho rằng, tài chính là biểu hiện
sự vận động của tiền tệ, gắn liền với quá trình huy động và phân phối các
nguồn tài chính nhằm thực hiện các lợi ích của các chủ thể kinh tế.
Khái niệm này có nhiều điểm khác biết với những quan niệm thƣờng
thấy trên các sách, báo chuyên ngành trên thế giới và ở nƣớc ta. Hiện nay,
trong kinh tế học hiện đại, cũng xuất hiện một số quan niệm khác nhau và
cũng khác biệt so với quan niệm của chúng tôi. Điển hình là quan niệm về tài
chính của các tác giả cuốn giáo khoa “Tài chính học” do Z. Bodi và R.
Merton chủ biên khi cho rằng, tài chính là việc nghiên cứu các cánh thức
phân bổ nguồn lực vốn khan hiếm của các chủ thể trong nền kinh tế theo thời
gian. Quan niệm này khá cụ thể và trực diện, song theo chúng tôi nó hàm
chứa ý nghĩa về các quan hệ của TTTC.
Quan niệm về tài chính của chúng tôi trình bày trên đây cho phép nhìn
nhận một cách đầy đủ, toàn diện và khách quan về tài chính. Quan niệm đó
vừa chỉ ra mặt cụ thể, hình thức bên ngoài - nội dung vật chất của tài chính là

sự vận động của các quỹ tiền tệ, vừa vạch rõ mặt trừu tƣợng, mặt bản chất
bên trong - nội dung kinh tế - xã hội của tài chính là các quan hệ kinh tế nảy
sinh trong quá trình huy động và phân bổ các nguồn tài chính để thực hiện
các mục đích khác nhau của các chủ thể kinh tế, đồng thời có tính bao quát
toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của tài chính nói chung, trong đó bao gồm cả
TCC và TTTC.
2). Chức năng mới của tài chính trong kinh tế thị trường
Theo chúng tôi, chức năng của tài chính là sự thể hiện bản chất nội
hàm bên trong của tài chính, từ đó quy định vai trò tác động của tài chính
trong hoạt động thực tiễn. Chức năng của tài chính tồn tại độc lập với sự nhận
thức hoặc tác động của con ngƣời. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ các chức
năng vốn có của tài chính là điều hết sức quan trọng bởi đó là những nhận
thức cơ bản mang tính nền tảng, quyết định không những đến việc hiểu đúng
bản thân khái niệm tài chính mà còn có ý nghĩa quyết định đến chất lƣợng,
hiệu quả của việc xây dựng và sử dụng các công cụ tài chính trong kinh tế thị
trƣờng, giúp tránh đƣợc những quyết định chủ quan duy ý chí - cội nguồn của
các sai lầm không đáng có trong điều hành chính sách tài chính, tiền tệ.

19
Cho đến nay, trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, đều chƣa có sự thống
nhất trong việc đƣa ra số lƣợng các chức năng của tài chính, cũng nhƣ tên gọi
của các chức năng của tài chính. Tuy nhiên, đa số các học giả đều thừa nhận
tài chính có 2 chức năng cơ bản là phân phối và giám đốc bằng đồng tiền (gọi
tắt là giám đốc).
Chúng tôi cho rằng, tài chính có 2 chức năng là phân phối và giám
đốc, điều này đúng, nhƣng chƣa đủ. Đúng vì chỉ phù hợp với thể chế kinh tế
kế hoạch hóa tập trung trƣớc đây. Chƣa đủ vì trong kinh tế thị trƣờng, tài
chính vận động trong môi trƣờng kinh tế có những đặc trƣng khác biệt, do đó
có cơ sở để phát huy các tác động xuất phát từ khả năng và bản chất nội tại
của tài chính. Vì thế, theo quan điểm của chúng tôi, tài chính, ngoài 2 chức

năng phân phối và giám đốc còn có chức năng khác, đó là chức năng hiệu
quả và sinh lời.
Sự phát huy tác động của chức năng này trong kinh tế thị trƣờng là
hoàn toàn có cơ sở, vì rằng: trong nền kinh tế thị trƣờng, khác với nền sản
xuất hàng hóa giản đơn, quá trình vận động của tƣ bản đƣợc thể hiện qua
công thức: T – H – T‟. Ở đây, tài chính đƣợc coi là khởi điểm của quá trình
vận động của tƣ bản và cũng chính tài chính, sau một quá trình sử dụng có
khả năng tạo ra một lƣợng giá trị lớn hơn so với tƣ bản ứng trƣớc. Rõ ràng,
đây là khả năng bên trong của tài chính, là cái vốn có, nhờ đó mà phát huy tác
động của tài chính trong hoạt động thực tiễn.
Giữa các chức năng của tài chính có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau. Chức năng phân phối nảy sinh đồng thời với sự ra đời của tài chính và
đƣợc coi là chức năng cơ sở, qua đó quy định sự hình thành và phát triển của
chức năng giám đốc và chức năng hiệu quả, sinh lời. Điều đó thể hiện rằng,
trong những môi trƣờng nhất định chính sự phân phối và sử dụng các nguồn
lực tài chính đã tạo cơ sở để đem lại nguồn tài chính hiệu quả hơn.
Ngƣợc lại, nhờ việc thực thi chức năng giám đốc đối với mọi hoạt
động tài chính mà làm cho tài chính đƣợc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, góp
phần tăng thu nhập và của cải, đến lƣợt nó lại tạo ra cơ sở vững chắc để thực
hiện chức năng phân phối tài chính. Ý nghĩa của chức năng phân phối tài
chính càng tăng lên khi Nhà nƣớc có nguồn lực tài chính nhất định để tác
động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã hội. Điều đó tạo ra
tiền đề để tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cƣ,
do đó mà củng cố chức năng hiệu quả và sinh lời của tài chính.
Đó là sự thống nhất biện chứng giữa các chức năng của tài chính. Sự
thống nhất đó cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi mà
phân phối tài chính không hợp lý, nguồn lực tài chính không đƣợc giám sát
đầy đủ trong quá trình sử dụng thì chắc chắn không thể có sự sinh lời hay
hiệu quả về mặt tài chính. Ngƣời ta gọi đó là tính hai mặt của tài chính, nó có
khả năng ảnh hƣởng đến nền kinh tế một cách tích cực, nhƣng cũng có thể

ảnh hƣởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải đƣợc

20
tính toán kỹ lƣỡng trong tiến trình hoạch định chính sách tài chính ở mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế khác nhau.
3). Vai trò mới của tài chính trong kinh tế thị trường và mở cửa hội
nhập
Về phƣơng diện lý luận, vai trò của tài chính đã đƣợc làm rõ với tƣ
cách là công cụ quan trọng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nƣớc và thực hiện việc phân phối thu nhập đảm công bằng xã hội.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trƣờng, chúng tôi cho rằng, ngoài
các chức năng kể trên tài chính còn đóng vai trò là nhân tố quyết định sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
Đây là vai trò quan trọng nhất của tài chính trong kinh tế thị trƣờng và
mở cửa hội nhập. Sự nhận thức mới về vai trò này là cả quá trình phát triển
về lý luận dựa trên những cơ sở sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ những quan điểm của các trường phái kinh tế
học Phương Tây.
Các trƣờng phái kinh tế học Phƣơng Tây, mặc dù có cách lập luận
khác nhau nhƣng lại thống nhất quan điểm rằng, phân phối có mối quan hệ
rất mật thiết với tăng trƣởng kinh tế và đƣợc coi là một nhân tố quan trọng
thúc đẩy tăng trƣởng và phát triển kinh tế.
Đã từ lâu, nhà kinh tế lỗi lạc Adam Smith cho rằng, để tăng số ngƣời
lao động mang tính sản xuất thì phải tăng tƣ bản từ quỹ tăng lao động và
muốn tăng năng suất lao động lại đòi hỏi phải tăng thêm tƣ bản. Từ đó cho
thấy đầu tƣ tăng tƣ bản cho sản xuất kinh doanh giữ vai trò quan trọng trong
quá trình tăng trƣởng kinh tế. Cùng với Adam Smith, David Ricardo lại chú
trọng tới tỷ lệ phân phối của các loại thu nhập và ảnh hƣởng của nó tới tích
luỹ tƣ bản và tăng trƣởng kinh tế. Ông phân tích hàm số tăng trƣởng và rút ra
nhận xét, do tích luỹ tƣ bản có xu hƣớng co lại nên làm kinh tế tăng trƣởng

chậm lại. Các biện pháp thúc đẩy tăng trƣởng đƣợc xuất phát từ tăng tỷ lệ
hình thành tƣ bản, coi đó là nhân tố chủ yếu quyết định tăng trƣởng kinh tế.
Các nhà khoa học Roy Harrod và Evsey Domar (sau này gọi là mô
hình Harrod–Domar) đã gắn tăng trƣởng kinh tế với việc cơ cấu lại tiết kiệm
và đầu tƣ trong tổng thu nhập. Hai ông cho rằng, sản lƣợng của bất cứ một
đơn vị kinh tế nào, dù là một doanh nghiệp, một ngành hay toàn bộ nền kinh
tế cũng đều phụ thuộc chắc chắn vào tổng số vốn có đƣợc. Khi nói tăng
trƣởng kinh tế thì phải nói đến mức tăng thêm của sản lƣợng, nhƣng mức
tăng thêm của sản lƣợng lại do lƣợng tăng thêm của vốn quyết định hay nói
cách khác do thay đổi cơ cấu đầu tƣ vốn quyết định đến tăng trƣởng kinh tế.
Cambridge cho rằng, con đƣờng căn bản để thực hiện sự tăng trƣởng
ổn định nền kinh tế nằm ở chỗ điều chỉnh chế độ phân phối. Ông cho rằng, có
thể áp dụng biện pháp phân phối lại để điều chỉnh tăng phần thu nhập của các
tầng lớp khác nhau, từ đó thực hiện đƣợc sự tăng trƣởng ổn định của nền kinh

21
tế quốc dân. Bởi vì, sự tác động khác nhau giữa khuynh hƣớng tiết kiệm và
tiêu dùng là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế.
Nhà kinh tế lỗi lạc ngƣời Anh J. Kenyes trong cuốn sách “Lý thuyết
chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936), đã coi chi tiêu nhà nƣớc là một
công cụ cơ bản của Chính phủ để can thiệp vào sự phát triển có tính chất chu
kỳ của nền kinh tế để vƣợt qua khủng hoảng. Bởi vậy, sự hình thành cơ cấu
và tốc độ của chi tiêu nhà nƣớc là yếu tố quan trọng và không thể tách rời để
đạt đƣợc "cầu hiệu qủa". Tốc độ chi tiêu nhà nƣớc theo ông cần phải thúc đẩy
tăng thu nhập quốc dân và cuối cùng phải nhằm vào mục tiêu đảm bảo việc
làm. Để thực hiện đƣợc điều đó, nhà nƣớc phải tác động đến các tác nhân của
cầu là: tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng đầu tƣ.
Nhƣ vậy, đã từ lâu các nhà kinh tế học Phƣơng tây đã rất đề cao vai trò
của phân phối tài chính, coi đó là một nhân tố quan trọng để kích thích tăng
trƣởng và phát triển kinh tế-xã hội.

Thứ hai, xuất phát từ quan điểm của C. Mác
Quan điểm của Mác về vai trò của tài chính xuất phát từ những nghiên
cứu lý luận sau đây:
Một làt, Mác đã nghiên cứu về cấu tạo hữu cơ của tƣ bản và rút ra kết
luận: cấu tạo hữu cơ tăng sẽ làm tăng năng suất lao động, tạo thêm giá trị
thặng dƣ cho xã hội.
Mác phân biệt cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tƣ bản. Cấu tạo kỹ
thuật của tƣ bản biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lƣợng tƣ liệu sản xuất với số
lƣợng lao động sử dụng trong quá trình sản xuất. Đó là quan hệ tất yếu, do
trình độ phát triển của sản xuất quyết định và phản ánh trình độ tiến bộ kỹ
thuật. Cấu tạo giá trị của tƣ bản biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lƣợng giá trị
tƣ bản bất biến và tƣ bản khả biến cần thiết để để tiến hành sản xuất. Cấu tạo
kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tƣ bản có quan hệ với nhau và phụ thuộc vào
nhau: sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cấu tạo
giá trị. Sự thể hiện mối quan hệ mật thiết đó đã hình thành một phạm trù mới,
đó là cấu tạo hữu cơ của tƣ bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ
thuật quyết định và phản ánh những biến đổi của cấu tạo kỹ thuật đó.
Do trình độ kỹ thuật không ngừng phát triển nên cấu tạo hữu cơ của tƣ
bản cũng không ngừng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ đƣợc thể hiện
ở tƣ bản bất biến tăng lên tuyệt đối và tƣơng đối, còn tƣ bản khả biến giảm
tƣơng đối. Nhƣ vậy, do cấu tạo hữu cơ tăng sẽ làm tăng năng suất lao động,
tạo thêm giá trị thặng dư và tăng quy mô tích lũy tư bản.
Hai là, khi nghiên cứu vai trò của các khâu cấu thành trong quá trình
tái sản xuất mở rộng tƣ bản chủ nghĩa, bao gồm: sản xuất, trao đổi, phân phối
và tiêu dùng, quan điểm của Mác cho rằng: sản xuất là khâu quyết định phân

22
phối, còn phân phối có tác động ngược trở lại đối với sản xuất theo hướng
thúc đẩy hoặc kìm hãm.

Nhƣ vậy, phân phối với tƣ cách là một khâu của quá trình tái sản xuất
xã hội đƣợc coi là nhân tố có tác động thúc đẩy sự tăng trƣởng kinh tế. Nói
cách khác, tài chính là một bộ phận của các quan hệ phân phối dƣới hình thức
tiền tệ có vai trò quan trọng trong khuyến khích thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế.
Tuy nhiên, theo Mác vai trò này có phần bị động, vì phân phối là do
sản xuất quyết định. Điều này đƣa đến những quan điểm hạn chế vai trò của
phân phối, trong đó có tài chính.
Thứ ba, xuất phát từ bản chất, chức năng của tài chính
Tài chính có chức năng phân phối và chức năng hiệu quả, sinh lời.
Chính các chức năng này đã quyết định vai trò của tài chính trở thành nhân tố
quyết định sự tăng trƣởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trƣờng, khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn,
công thức vận động của tƣ bản đƣợc khái quát là:
TLSX
T – H …Sx – H‟ – T‟
SLĐ
Nhƣ vậy, trong công thức trên: tài chính đƣợc coi là khởi điểm của quá
trình vận động của tƣ bản, nếu sự đầu tƣ nguồn lực tài chính cho các bộ phận
của sản xuất theo những tỷ lệ hợp lý sẽ tạo ra thặng dƣ cho xã hội. Với ý
nghĩa đó, theo quan điểm của chúng tôi, tài chính là nhân tố quyết định sản
xuất, quyết định tăng trưởng kinh tế.
Vì thế, để nền kinh tế tăng trƣởng nhanh, góp phần thực hiện tốt các
CSXH, cần phải coi việc đổi mới cơ cấu huy động, phân bổ và sử dụng các
nguồn lực tài chính và coi đó là nhân tố có tính đột phá, quyết định sự thay
đổi cơ cấu kinh tế và ảnh hƣởng đến tăng trƣởng kinh tế.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi cho rằng, sản xuất là cơ sở của phân phối,
của tài chính, nhưng phân phối và tài chính lại có tác động quyết định sản
xuất, quyết định tăng trưởng kinh tế.
1.1.2. Chính sách tài khóa và sử dụng các công cụ của chính sách tài
khóa

1). Khái quát về chính sách tài khóa
Trong bất kỳ một xã hội nào, nhà nƣớc muốn thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của mình để đạt đƣợc các mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định đều
phải sử dụng công cụ tài chính. Vai trò quan trọng việc thực hiện các mục
tiêu nói trên thuộc về CSTK.

23
CSTK là một phạm trù kinh tế học dùng để chỉ các hành động của
Chính phủ quyết định mức chi tiêu công và cách thức có đủ nguồn tài chính
để đảm bảo mức chi tiêu công đó. Chính phủ phải chi tiêu cho nhiều nhiệm
vụ rất đa dạng, từ quân sự, cảnh sát, đến các dịch vụ nhƣ giáo dục, y tế, phúc
lợi xã hội. Có nhiều nguồn để đảm bảo cho các khoản chi trên, trong đó quan
trọng nhất là thu thuế từ ngƣời dân và vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách.
CSTK là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô được Chính phủ sử
dụng để huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính
nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia.
Nội dung của CSTK thông thƣờng chứa đựng các yếu tố sau:
- Mục tiêu của chính sách: thể hiện phƣơng hƣớng, đƣờng lối, chủ
trƣơng của nhà nƣớc về sử dụng chính sách huy đông, phân phối và sử dụng
các nguồn lực tài chính.
- Các công cụ của chính sách
- Cơ chế chuyển tải của chính sách, bao gồm cách thức hay phƣơng
thức huy động, phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính và các chế tài đảm
bảo thực hiện phƣơng thức đó.
Căn cứ vào tác dụng điều tiết chu kỳ kinh tế có thể chia CSTK thành
CSTK tự động ổn định và CSTK có sự điều chỉnh của nhà nƣớc.
CSTK tự động ổn định là loại CSTC dựa trên cơ sở sự biến động của
nền kinh tế quốc dân mà tự động phát sinh tác dụng thay đổi tình hình kinh tế
mà không cần dựa vào sự tác động của phía Chính phủ.
Loại hiệu quả ổn định tự động này sinh ra từ nội tại của CSTC, tự

mình phát huy tác dụng điều tiết, không cần có bất kỳ hành động can thiệp
nào của chính quyền.
Tính tự động ổn định của CSTC đƣợc thực hiện bởi sự hoạt động của
cơ chế thị trƣờng. Chính nhờ cơ chế đó mà tạo ra khả năng phân phối lại một
cách tự do và nhanh chóng các nguồn tài chính giữa các chủ thể kinh tế khác
nhau.
Tuy nhiên, trong một vài trƣờng hợp cơ chế thị trƣờng cũng thể hiện
sự kém hiệu qủa trong việc phân phối nguồn tài chính và sự phân phối đó bị
ngáng trở bởi các tổ chức độc quyền. Nói cách khác, cơ chế thị trƣờng không
đảm bảo sự phân phối thu nhập phù hợp với mục tiêu của một xã hội dân
chủ. Bởi vậy, nẩy sinh sự cần thiết phải thực hiện cơ chế điều chỉnh của nhà
nƣớc.
CSTK có sự điều chỉnh của nhà nước là một loại CSTC mà bản thân
nó không có tác dụng tự động ổn định mà cần nhờ tác động bên ngoài mới có
thể phát sinh tác dụng điều tiết đối với nền kinh tế.

24
Sự cần thiết xuất hiện vai trò của nhà nƣớc can thiệp vào nền kinh tế
căn cứ vào việc giải quyết những nhiệm vụ, gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu
của xã hội về phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Tuy nhiên cũng cần phải khẳng định rằng, sự điều chỉnh của nhà nƣớc
cũng có những gianh giới qui định hình thành một cách khách quan. Nếu can
thiệp qúa mức sẽ làm suy yếu những đòn bẩy kinh tế và hạ thấp hiệu qủa hoạt
động của cơ chế thị trƣờng.
Nếu căn cứ vào tính chất điều tiết mặt lượng của tài chính đối với nền
kinh tế thì CSTK đƣợc chia thành: CSTK mở rộng, CSTK thu hẹp và CSTK
trung tính.
CSTK mang tính chất mở rộng là CSTC mà thông qua phân phối và
sử dụng các nguồn tài chính nhà nƣớc thực hiện kích thích tăng tổng nhu cầu
xã hội.

Trong điều kiện nền kinh tế thiếu hụt về tổng cầu, nhà nƣớc thực hiện
CSTK mở rộng để thu hẹp khoản chênh lệch giữa tổng cầu và tổng cung. Khi
tổng cầu và tổng cung đã cân đối thì thông qua CSTK mang tính chất mở
rộng nhà nƣớc sẽ làm cho tổng nhu cầu vƣợt qúa tổng cung cấp.
Công cụ thực hiện CSTK mang tính chất mở rộng chủ yếu là giảm
thuế và tăng quy mô chi tiêu ngân sách. Nếu thực hiện song song việc giảm
thuế với việc tăng chi tiêu ngân sách, CSTK mở rộng sẽ dẫn đến bội chi ngân
sách. Bởi vậy,CSTK mang tính chất mở rộng thƣờng đƣợc gọi là CSTC bội
chi.
CSTK mang tính chất thắt chặt là CSTC thông qua phân phối và sử
dụng nguồn tài chính, nhà nƣớc thực hiện giảm bớt và hạn chế tổng nhu cầu.
Trong điều kiện tăng tổng nhu cầu qúa mức của nền kinh tế, nhà nƣớc thông
qua CSTK thắt chặt thực hiện kiềm chế lạm phát để cân đối cung và cầu.
Trong điều kiện tổng cung cầu đã cân đối, nhà nƣớc có thể thi hành CSTK
thắt chặt để tạo ra thiếu hụt nhu cầu hữu ích. Biện pháp thực hiện mục tiêu
của CSTK mang tính chất thắt chặt chủ yếu là tăng thuế và giảm bớt chi tiêu
ngân sách. Nếu trong điều kiện vừa tiến hành tăng thuế, vừa thực hiện giảm
chi thì có thẻ phát sinh khả năng kết dƣ ngân sách. Bởi vậy, CSTK mang tính
chất thắt chặt thƣờng đƣợc gọi là CSTC kết dƣ.
CSTK trung tính luôn luôn thể hiện sự cân đối giữa tổng cung và tổng
cầu trong hoạt động phân phối và sử dụng nguồn tài chính. Vì thế, hoạt động
thu chi tài chính không thể sinh ra hiệu ứng mở rộng, cũng nhƣ không thể
sinh ra hiệu ứng thắt chặt. Nói chung, CSTK trung tính luôn luôn yêu cầu thu
chi tài chính giữ vững đƣợc sự cân đối.
2). Sử dụng các công cụ của chính sách tài khóa để điều tiết kinh tế
Các công cụ của CSTK thƣờng đƣợc sử dụng bao gồm: Thuế, chi tiêu
ngân sách và vay nợ của chính phủ. Mỗi công cụ có những cơ chế tác động
khác nhau đến hoạt động kinh tế-xã hội và đƣợc sử dụng tùy thuộc vào bối

25

cảnh kinh tế từng thời kỳ. Trong nội dung này, chúng tôi chi nghiên cứu và
đƣa ra những điểm mới về lý thuyết sử dụng các công cụ của chính sách tài
khóa để điều tiết kinh tế vĩ mô.
1) Sử dụng hệ số điều tiết của thuế
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân
cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử
dụng cho mục đích công cộng.
Thuế có những đặc điểm riêng để phân biệt với các công cụ tài chính
khác nhƣ sau:
- Thuế là một khoản đóng góp thu nhập của các tầng lớp trong xã hội
cho nhà nƣớc mang tính bắt buộc. Đây là một thuộc tính cơ bản vốn có của
thuế để phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác.
- Việc đóng góp thu nhập dƣới hình thức thuế không mang tính chất
hoàn trả trực tiếp.
- Việc đóng góp thu nhập dƣới hình thức thuế đƣợc quy định trƣớc
bằng luật pháp.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng, với sự thay đổi phƣơng thức
can thiệp của Nhà nƣớc vào hoạt động kinh tế, thuế trở thành công cụ quan
trọng để huy động nguồn lực tài chính cho Chính phủ và thực hiện điều tiết vĩ
mô nền kinh tế.
Sử dụng công cụ thuế để huy động nguồn lực tài chính có ƣu điểm:
- Thuế là một công cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối
tƣợng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và
phát sinh nguồn thu nhập nộp thuế. Vì thế, thuế trở thành công cụ huy động
nguồn lực chủ yếu của Chính phủ.
- Phƣơng thức huy động tập trung nguồn lực của thuế sử dụng
phƣơng pháp chuyển giao thu nhập bắt buộc. Do vậy nhà nƣớc đảm bảo thực
hiện sự công bằng trong việc phân bố gánh nặng của các khoản chi tiêu công
cộng, mặt khác việc động viên thông qua thuế mang tính pháp lý cao.
- Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội

và thu nhập quốc nội, nhờ đó mà một bộ phận đáng kể thu nhập của xã hội
đƣợc tập trung vào trong tay nhà nƣớc một cách nhanh chóng, thƣờng xuyên
và ổn định để đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho các biện pháp kinh tế -xã hội.
- Tính ƣu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ tài
chính khác ở chỗ: Thuế kết hợp giữa phƣơng thức cƣỡng bức, đƣợc qui định
dƣới hình thức pháp luật cao với kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm
của các chủ thể kinh tế đến chất lƣợng và hiệu qủa kinh doanh.

×