Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Thực tiễn quyền miễn trừ tư pháp quốc gia trong Tư pháp quốc tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.44 KB, 8 trang )


A. Mở Đầu
Tư pháp quốc tế là một lĩnh vực pháp luật có hệ thống chủ thể riêng của
mình bao gồm thể nhân, pháp nhân và quốc gia. Khác với các thể nhân và pháp
nhân, quốc gia là một thực thể có chủ quyền, nói cách khác quốc gia được xác
định là chủ thể đặc biệt của Tư pháp quốc tế. Khi tham gia vào các quan hệ dân
sự quốc tế, quốc gia được hưởng quy chế pháp lí đặc biệt – quyền miễn trừ tư
pháp quốc gia. Cơ sở pháp lý quốc tế của quy chế pháp lý đặc biệt của quốc gia
thể hiện ở các nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và bình đẳng chủ quyền
Tư pháp quốc tế Trang 1

giữa các quốc gia. Từ xa xưa, các nhà lý luận pháp lý đã thừa nhận nguyên tắc kẻ
ngang quyền này không có quyền lực gì đối với kẻ ngang quyền kia. Đối với Việt
Nam, việc nghiên cứu lý luận và quy định của pháp luật về quyền miễn trừ
tư pháp quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng trong việc góp phần đưa Tư
pháp quốc tế Việt Nam tiến gần hơn các chuẩn mực pháp lý chung của thế
giới.
B. Nội Dung
Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia được ghi nhận rải rác trong các điều ước quốc
tế, điển hình là Công ước Brussels về thống nhất các quy định về miễn trừ tàu
thuyền nhà nước ngày 14/4/1926, Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại
giao, Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự,…
1. Lý thuyết học thuyết miễn trừ tư pháp quốc gia trong Tư pháp
quốc tế
a. Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia trong tư pháp quốc tế
Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia thể hiện qua các nội dung:
Miễn trừ xét xử tại bất cứ Tòa án nào. Nội dung quyền này thể hiện nếu
không có sự đồng ý của quốc gia thì không có một tòa án nước ngoài nào có thẩm
quyền thụ lý và giải quyết vụ kiện mà quốc gia là bị đơn (trong lĩnh vực dân sự).
Điều đó cũng có nghĩa là khi tham gia vào quan hệ dân sự với một quốc gia, cá
nhân và pháp nhân nước ngoài không được phép đệ đơn kiện quốc gia đó tại bất


kỳ tòa án nào, kể cả tại tòa án của chính quốc gia đó, trừ khi quốc gia đó cho
phép. Các tranh chấp phải được giải quyết bằng thương lượng trực tiếp hoặc bằng
con đường ngoại giao giữa các quốc gia. Quốc gia đồng ý cho cá nhân, pháp nhân
nước ngoài kiện mình cũng có nghĩa là đồng ý cho tòa án thụ lý xét xử vụ kiện
mà quốc gia là bị đơn
Miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn kiện, nếu
quốc gia đồng ý cho tổ chức, cá nhân nước ngoài kiện mình, tức là đồng ý cho Tòa
án nước ngoài xét xử vụ kiện mà quốc gia là bị đơn. Nội dung của quyền này thể
hiện trong trường hợp nếu một quốc gia đồng ý để tòa án nước ngoài thụ lý, giải
quyết một vụ tranh chấp mà quốc gia là một bên tham gia thì tòa án nước ngoài
đó được quyền xét xử nhưng tòa án không được áp dụng bất cứ một biện pháp
Tư pháp quốc tế Trang 2

cưỡng chế nào như bắt giữ, tịch thu tài sản của quốc gia để phục vụ cho việc xét
xử. Tòa án chỉ được áp dụng các biện pháp này nếu được quốc gia cho phép. Và
như vậy, tài sản của quốc gia hưởng quyền bất khả xâm phạm, không thể bị áp
dụng trái với ý nguyện của quốc gia sở hữu. Điều 18 Công ước của Liên Hiệp
Quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia quy định:
“Không có biện pháp cưỡng chế tiền tố tụng nào như tịch thu, chiếm giữ tài sản
trái pháp luật của quốc gia được áp dụng trong một vụ kiện trước một tòa án nước
ngoài…”.
Miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thi hành quyết
định của Tòa án trong trường hợp quốc gia không đồng ý cho các tổ chức, cá
nhân nước ngoài kiện, đồng ý cho Tòa án xét xử. Trong trường hợp quốc gia đồng
ý cho một tòa án nước ngoài giải quyết một tranh chấp mà quốc gia là một bên
tham gia và nếu quốc gia là bên thua kiện thì bản án của tòa án nước ngoài đó
cũng phải được quốc gia tự nguyện thi hành. Nếu không có sự đồng ý của quốc
gia thì không thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt giữ, tịch thu tài sản
của quốc gia nhằm cưỡng chế thi hành bản án đó. Ngay cả khi quốc gia từ bỏ
quyền miễn trừ xét xử thì quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo

đảm thi hành phán quyết của tòa án vẫn phải được tôn trọng.
Các nội dung nêu trên của quyền miễn trừ tư pháp quốc gia có quan hệ gắn
bó mật thiết với nhau. Quốc gia có quyền từ bỏ từng nội dung hoặc tất cả các nội
dung của quyền miễn trừ tư pháp của mình bởi vì đây là quyền của quốc gia chứ
không phải nghĩa vụ của quốc gia.
b . Các quan điểm khác nhau về quyền miễn trừ của quốc gia
Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia khi tham gia vào quan hệ dân sự quốc tế
đã được thừa nhận trong pháp luật quốc tế (các điều ước quốc tế, tập quán quốc
tế) và pháp luật hầu hết các nước. Tuy nhiên, pháp luật của các nước lại có những
quan điểm khác nhau về mức độ hưởng quyền này của quốc gia. Về cơ bản có hai
quan điểm chính về vấn đề này:
Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia là tuyệt đối, nghĩa là quốc gia phải được
hưởng quyền này trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự mà quốc gia tham gia
và trong bất kỳ trường hợp nào. Những người theo quan điểm này xuất phát từ
chủ quyền quốc gia là tuyệt đối và bất khả xâm phạm, bất kỳ chủ thể nào cũng
Tư pháp quốc tế Trang 3

không có quyền vượt lên trên chủ quyền quốc gia. Thậm chí, quyền miễn trừ này
còn được mở rộng cho người đứng đầu của quốc gia khi tham gia vào các mối
quan hệ với tư cách người đứng đầu quốc gia hay tư cách cá nhân. Cần nhận thức
rõ vấn đề ở đây, khi thừa nhận quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia vào các
quan hệ dân sự quốc tế là tuyệt đối thì điều này có nghĩa là quốc gia sẽ được
hưởng quyền miễn trừ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự quốc tế và trong
tất cả các trường hợp mà quốc gia tham gia với tư cách là một bên chủ thể trong
quan hệ dân sự quốc tế. Việc quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ tuyệt đối của mình
phải được thể hiện rõ rang bằng các quy định trong hợp đồng, trong pháp luật
quốc gia, trong điều ước quốc tế mà quốc gia kí kết hoặc tham gia, bằng con
đường ngoại giao.
Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia là tương đối (miễn trừ chức năng), do các
học giả của các nước theo chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa khởi xướng và xây

dựng nhằm loại trừ khả năng hưởng quyền miễn trừ của các công ty thuộc sở hữu
nhà nước của các nước theo chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa khi tham gia vào
các quan hệ kinh tế thương mại quốc tế. Học thuyết này nhanh chóng được các
nước khác ủng hộ và cụ thể hóa vào các đạo luật quốc gia. Theo học thuyết này,
quốc gia khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế sẽ được hưởng quyền miễn
trừ về tài phán và quyền miễn trừ về tài sản trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân
sự. Tuy nhiên, có những trường hợp quốc gia sẽ không được hưởng quyền này
mà phải tham gia với tư cách một chủ thể dân sự như các chủ thể thông thường
khác. Như vậy, Thuyết quyền miễn trừ tương đối chấp nhận cho quốc gia được
hưởng quyền miễn trừ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự mà quốc gia tham
gia, nhưng lại hạn chế những trường hợp mà quốc gia sẽ không được hưởng
quyền miễn trừ.
2 . Thực tiễn q uyền miễn trừ tư pháp quốc gia trong Tư pháp quốc tế Việt
Nam
T hứ nhất, Tại Việt Nam hiện nay, về mặt lý luận, quyền miễn trừ tư pháp
quốc gia bao gồm quyền miễn trừ xét xử, quyền miễn trừ đối với các biện pháp
cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn kiện, quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng
chế bảo đảm thi hành phán quyết của tòa án nước ngoài.
Tư pháp quốc tế Trang 4

Thứ hai, Pháp luật thực định của Việt Nam chưa có quy định chính thức
nào về nội dung của quyền miễn trừ tư pháp quốc gia. Pháp lệnh về quyền ưu đãi,
miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại
diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam ngày 07/9/1993 có một số quy định về
quyền miễn trừ tư pháp. Theo khoản 1 Điều 12 Pháp lệnh, “viên chức ngoại giao
được hưởng quyền miễn trừ xét xử về hình sự tại Việt Nam. Họ cũng được hưởng
quyền miễn trừ xét xử về dân sự và xử phạt hành chính”. Và khoản 3 Điều 12 Pháp
lệnh quy định: “viên chức ngoại giao được hưởng quyền miễn trừ đối với các biện
pháp thi hành án”. Đây chỉ là những quy định về quyền miễn trừ dành cho viên
chức ngoại giao và thành viên gia đình của họ (khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh).

Không có quy phạm cụ thể nào của Pháp lệnh quy định chi tiết nhà nước nước
ngoài có quyền miễn trừ tư pháp quốc gia ở Việt Nam. Khoản 4 Điều 2 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài
được hưởng các quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao hoặc các quyền ưu đãi, miễn
trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia thì vụ việc dân sự có liên quan đến cá
nhân, cơ quan, tổ chức đó được giải quyết bằng con đường ngoại giao”. Nhưng ta
có thể theo logic suy luận người đại diện cho quốc gia được hưởng quyền miễn
trừ tư pháp thì đương nhiên bản thân quốc gia cũng là đối tượng được hưởng
quyền miễn trừ tư pháp. Trước đây, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự (đã hết hiệu lực thi hành) có quy định: “vụ án dân sự có liên quan đến nhà
nước nước ngoài hoặc người được hưởng quy chế ngoại giao được giải quyết
bằng con đường ngoại giao, trừ trường hợp nhà nước nước ngoài hoặc người
được hưởng quy chế ngoại giao đồng ý tham gia tố tụng tại tòa án Việt Nam”. Đây
là văn bản pháp luật duy nhất có quy định về quyền miễn trừ của nhà nước nước
ngoài trong tố tụng dân sự quốc tế nhưng cũng không đề cập đến nội dung của
quyền miễn trừ. Tuy nhiên, từ ngày 01/01/2005 khi Bộ luật Tố tụng dân sự có
hiệu lực pháp luật thì không còn có quy phạm nào thừa nhận quyền miễn trừ tư
pháp của nhà nước nước ngoài ở Việt Nam.
Nội dung quyền miễn trừ của quốc gia đã được quy định thống nhất trong
các văn bản của LHQ, các điều ước quốc tế có liên quan và được cụ thể hóa vào
văn bản pháp luật của nhiều nước. Chính vì vậy, việc quy định một cách rõ ràng,
cụ thể nội dung quyền miễn trừ của quốc gia trong pháp luật Việt Nam cũng góp
Tư pháp quốc tế Trang 5

×