Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Tìm hiểu nguyên nhân và tác hại của việc ô nhiễm môi trường Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.3 KB, 36 trang )

Nguyễn Thị Hoa Hồng
Nội Dung
1. Thế nào là biến đổi môi trường ?
Chất phát thải ra môi trường là các chất thải sau sản xuất hay tiêu dùng
của hoạt động kinh tế được đưa trực tiếp vào môi trường, khi vượt quá
khả năng hấp thụ của môi trường chúng sẽ làm thay đổi chất lượng môi
trường ở xung quanh, gây ra thiệt hại cho con người và sinh vật trong
vùng bị ảnh hưởng.
2. Các dạng biến đổi của môi trường?
2.1. Ô nhiễm môi trường.
Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, ô nhiễm môi trường
được định nghĩa như sau : “Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi
tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn của môi trường”.
Quan niệm của thế giới cho rằng: “ô nhiễm môi trường được hiểu
là việc chuyển rác, chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức
có khả năng gây hại đến sức khỏe con người, đến sự phát triển của
sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. các tác nhân gây ô
nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí ( khí thải ), lỏng ( nước thải ),
rắn ( chất thải rắn ) chưa hóa chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các
dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ hoặc cường độ các tác nhân trên
đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật
liệu.
2.2. Suy thoái môi trường.
Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam suy thoái môi trường
được định nghĩa như sau : “ Suy thoái môi trường là sự làm thay đổi
1 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
chất lượng của thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu cho đời
sống của con người và thiên nhiên “.
Trong đó, thành phần môi trường được hiểu là các yếu tố tạo thành
môi trường bao gồm : không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng


đất, núi, rừng, sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân
cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác.
2.3. Sự cố môi trường : Đánh giá rủi ro.
Theo luật bảo vệ môi trường của Việt Nam, sự cố môi trường được
định nghĩa như sau : “ Sự cố môi trường là các tai biến hoặc rủi ro xảy
ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc biến đổi bất thường
của thiên nhiên gây suy thoái môi trường nghiêm trọng”.
sự cố môi trường xảy ra do :
- Bão, lũ lụt, hạn hán, nứt đất, động đất, trượt đất, sụt lở đất, núi lửa
phun, mưa axit, mưa đá, biến động khi hậu và thiên tai khác.
- Hỏa hoạn, cháy rừng, sự cố kĩ thuật gây nguy hại về môi trường
của cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học, kĩ
thật, văn hóa, an ninh, quốc phòng.
- Sự cố trong tìm kiếm, thăm dò, khai thác và vận chuyển khoáng
sản, dầu khí, sập hầm lò, phụt dầu, tràn dầu, vỡ đường ống dẫn
dầu, dẫn khí, đắm tàu, sự cố tại cơ sở lọc dầu và các cơ sở công
nghiệp khác.
- Sự cố trong lò phản ứng hạt nhân, nhà máy điện nguyên tử, nhà
máy sản xuất, tái chế nhiên liệu hạt nhân, kho chứa chất phóng xạ.
2 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
 Đánh giá rủi ro là đánh giá về số lượng và chất lượng của rủi ro
ảnh hưởng tới sức khỏe con người và hệ sinh thái, gây ra do độc
hại môi trường tiềm năng hoặc thực tế.
3.
4. Thế nào là ô nhiễm. Các dạng chất ô nhiễm.
4.1. Thế nào là ô nhiễm môi trường?
“Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường; gây
tác hại tới đời sống, sức khoẻ của con người, đến sự phát triển của các

sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường”.
Ô nhiễm môi trường chủ yếu do hoạt động của con người gây ra (như
các chất thải trong sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông…);
ngoài ra, ô nhiễm còn do một số hoạt động của tự nhiên: núi lửa phun
nham thạch (gây nhiều bụi bẩn), thiên tai lũ lụt (tạo điều kiện cho nhiều
loài vi sinh vật gây bệnh phát triển)…nó chuyển các chất thải hoặc năng
lượng vào môi trường, các tác nhân ô nhiễm n ày bao gồm các chất thải ở
dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hóa chất
hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức
xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được xem là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm
lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng
tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
4.2. Các dạng ô nhiễm môi trường.
4.2.1. Ô nhiễm môi trường đất:
3 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
Nguyên nhân chủ yếu của ô nhiễm đất đến từ các chất thải công
nghiệp do các hoạt động sản xuất, khai thác khoáng sản, các chất khí độc
hại được thải ra ngoài môi trường, các chất thải hữu cơ. Thứ hai là các
loại chất thải sinh hoạt của con người hàng ngày mà trong đó đặc biệt
nguy hại là chất thải y tế và các loại chất thải có tính độc hại khác mà
hiện nay vẫn chưa được xử lí triệt để trước khi thải ra ngoài. Thứ ba ô
nhiễm do chất thải nông nghiệp, chúng tích lũy dần trong đất và các loại
cây trộng và chất độc tăng lên rất lớn khi đi vào cơ thể con người ảnh
hưởng rất lớn đến sức khỏe con người.
4.2.2. Ô nhiễm môi trường nước:
Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý –
hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn
làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Làm giảm

độ đa dạng sinh vật trong nước.
Nước bị ô nhiễm ở các khu vực nướpc ngọt và các vùng ven biển,
vùng biển khép kín. Do lượng muối khoáng và hàm lượng các chất hữu
cơ quá dư thừa làm cho các quần thể sinh vật trong nước không thể đồng
hoá được. Kết quả làm cho hàm lượng ôxy trong nước giảm đột ngột, các
khí độc tăng lên, tăng độ đục của nước, gây suy thoái thủy vực. Ở các đại
dương là nguyên nhân chính gây ô nhiễm đó là các sự cố tràn dầu Ô
nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và nước thải công
nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa qua xử lí đúng mức;
4 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm
và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven
sông gây ô nhiễm trầm trọng,ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân
trong khu vực.
 Nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường đất và nước:
 Nguồn gốc tự nhiên:
Trong các khoáng vật hình thành nên đất thường chứa một hàm lượng
nhất định kim loại nặng, trong điều kiện bình thường chúng là những
nguyên tố trung lượng và vi lượng không thể thiếu cho cây trồng và sinh
vật đất, tuy nhiên, trong một số điều kiện đặc biệt chúng vượt một giới
hạn nhất định và trở thành chất ô nhiễm.
Do phun trào núi lửa, mưa bảo gây ngập úng đất đai, đất bị nhiễm mặn
do xâm thực thủy triều, đất bị vùi lấp do cát bay hoặc hạn hán…
 Nguồn gốc nhân tạo:
- Áp lực tăng dân số đòi hỏi nhu cầu tăng lương thực, thực phẩm ngày
càng nhiều và phải tăng cường khai thác độ phì nhiêu của đất bằng
nhiều biện pháp:
- Tăng cường sử dụng hóa chất như bón phân vô cơ, thuốc diệt cỏ,
thuốc trừ sâu.

5 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
- Sử dụng chất kích thích sinh trưởng làm giảm thất thoát và tạo nguồn
lợi cho thu hoạch.
- Mở rộng các hệ thống tưới tiêu.
- Việc đẩy mạnh đô thị hóa, công nghiệp hóa và mạng lưới giao thông.
 Ô nhiễm do các chất thải sinh hoạt:
Chất thải rắn đô thị cũng là một nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường
đất nếu không được quản lý thu gom và kiểm soát đúng quy trình kỹ
thuật.Chất thải rắn đô thị rất phức tạp, nó bao gồm các thức ăn thừa, rác
thải nhà bếp, làm vườn , đồ dùng hỏng , gỗ, thủy tinh, nhựa, các loại giấy
thải,các loạirác đường phố bụi, bùn, lá cây…
Ở các thành phố lớn , chất thải rắn sinh hoạt được thu gom , tập
trung ,phân loại và xử lý. Sau khi phân loại có thể tái sử dụng hoặc xử lý
rác thải đô thị để chế biến phân hữu cơ, hoặc đốt chôn. Cuối cùng vẫn là
chôn lấp và ảnh hưởng tới môi trường.
Ô nhiễm môi trường đất tại các bãi chôn lấp có thể do mùi hôi thối
sinh ra do phân hủy rác làm ảnh hưởng tới sinh vật trong đất, giảm lượng
oxi trong đất.
Các chất độc hại sản phẩm của quá trình lên men khuếch tán , thấm và
ở lại trong đất.
6 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
Nước rỉ từ các hầm ủ và bãi chôn lấp có tải lượng ô nhiễm chất hữu cơ
rất cao cũng như các kim loại nặng như Cu , Zn, Pb, Al ,Fe, Cd , Hg và cả
các chất như P ,N, … cũng cao. Nước rỉ này sẽ ngấm xuống đất gây ô
nhiễm đất và nước ngầm.
Ô nhiễm môi trường đất, nước còn có thể do bùn cống rãnh của hệ
thống thoát nước của thành phố là mà thành phần các chất hữu cơ , vô cơ,
kim loại tạo nên các hỗn hợp các phức chất và đơn chất khó phân hủy.

 Ô nhiễm do chất thải công nghiệp:
Các hoạt động công nghiệp rất phong phú và đa dạng, chúng có thể là
nguồn gây ô nhiễm.
Bảng 3: Nguồn gốc công nghiệp của một số kim loại nặng.
Kim loại nặng Nguồn gốc công nghiệp
As Nước thải công nghiệp thủy tinh, sản xuất phân bón
Cd Luyện kim, mạ điện, xưởng thuốc nhuộm, hơi thải chứa Cd
Cu
Luyện kim, công nghiệp chế đồ uống, sản xuất thuốc bảo
vệ thực vật( BVTV)
Cr Luy Luyện kim, mạ, nước thải xưởng in và nhuộm
Hg Xưởng sản xuất hợp chất có chứa Hg, thuốc BVTV có
7 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
chứa Hg
Nước thải luyện kim, BVTV, Nhà máy sản xuất pin, ắc
quy, khí thải chứa Pb
Zn
Nước thải luyện kim, xưởng dệt, nông dược chứa Zn và
Phân lân
Ni Nước thải luyện kim, mạ, luyện dầu, thuốc nhuộm
F Nước thải sau khi sản xuất phân lân
Muối kiềm Nước thải nhà máy giấy, nhà máy hóa chất
Axit Nước thải nhà máy sản xuất axit sunfuric, đá dầu, mạ điện
- Những tác động về vật lý như: gây xói mòn, nén chặt đất và phá hủy
cấu trúc đất do kết quả của các hoạt động xây dựng, sản xuất khai thác
mỏ.
- Những tác động về hóa học như: các chất thải rắn, lỏng và khí tác
động đến đất.Các chất thải độc hại có thể được tích lũy trong đất trong
thời gian dài gây ra nguy cơ ô nhiễm môi trường đất nghiêm trọng.

 Ô nhiễm do chất thải nông nghiệp:
Áp lực tăng dân số đòi hỏi nhu cầu tăng lương thực, thực phẩm ngày
càng tăng và phải tăng cường khai thác độ phì nhiêu của đất bằng nhiều
biện pháp : Tăng cường sử dụng hóa chất như phân bón vô cơ, thuốc trừ
sâu, diệt cỏ, sử dụng chất kích thích sinh trưởng làm giảm thất thoát và
tạo nguồn lợi cho thu hoạch, mở rộng các hệ tưới tiêu.
8 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
Tuy nhiên trong phân bón và thuốc bảo vệ thực vật thường có sẵn kim
loại nặng và chất khó phân hủy, khi tích lũy đến một giới hạn nhất định,
chúng sẽ thành chất ô nhiễm.
 Ô nhiễm do phân bón hóa học:
* Sử dụng phân vô cơ:
- Nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cây trồng chỉ sử dụng hữu
hiệu tối đa 30% lượng phân bón vào đất. Phần còn lại sẽ bị rửa trôi theo
nước hoặc nằm lại trên đất gây ô nhiễm môi trường.
Ví dụ:
+ Phân lân rất dễ chuyển hóa thành nitrat NO3 Một phần nitrat được
thực vật hấp thụ làm chất dinh dưỡng nhưng nếu tích lũy quá nhiều nitrat
NO3-sẽ sinh ra quá trình đềnitrat (khử nitrat) bởi vi sinh tạo nên nitrit
NO2- là chất sẽ theo dây chuyền thực phẩm đi vào động vật gây ảnh
hưởng tới sức khỏe. Mặt khác, các anion NO3- và NO2- ít bị hấp phụ
trong đất (vì hầu hết các keo trong đất là keo âm) sẽ đi vào nước, gây ô
nhiễm nước
9 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
+ Hàm lượng (NH4)2SO4, K2SO4, KCl, superphotphat còn tồn dư
acid nếu bón liên tục mà không có biện pháp trung hòa sẽ làm chua đất,
nghèo kiệt các ion bazơvà xuất hiện nhiều độc tố đối với cây trồng (như:
Al3+, Fe3+, Mn2+…) làm giảm hoạt tính sinh học của đất.

* Sử dụng phân hữu cơ:
Trong phân chuồng cũng có chứa rất nhiều các loại kim loại nặng và
các vi sinh vật gây hại. Ở Việt Nam, phân chuồng thường ít được ủ đúng
kỹ thuật và bón đúng liều lượng nên dễ gây ô nhiễm môi trường đất, gây
hại cho động vật và người. Bởi vì trong phân bón này có chứa nhiều giun
sán, trứng giun, sâu bọ, vi trùng, và các mầm bệnh dễ lây lan. Khi bón
vào đất chúng có điều kiện phát triển làm ô nhiễm môi trường sinh thái
qua lan truyền trong nước mặt hoặc bốc hơi trong không khí.
 Ô nhiễm do thuốc bảo vệ thực vật:
Việc lạm dụng và sử dụng một cách không phù hợp đã trở thành
nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất, nước.
Các thuốc bảo vệ thực vật thường là những hóa chất độc, khả năng tồn
dư lâu trong đất tươi, tác động tới môi trường đất, sau đó đến sản phẩm
nông nghiệp, đến động vật và người, theo kiểu tích tụ, ăn sâu và bào mòn.
Hiện nay do sử dụng và bảo quản thuốc BVTV chưa đúng quy định nên
10 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
đã gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí và nông sản gây nhiều
hậu quả nghiêm trọng.
Đất, nước một khi đã bị ô nhiễm thì việc xử lí là vô cùng khó khăn và
mất nhiều công sức, tiền của. Do đó cần phải có biện pháp ngăn chặn ô
nhiễm đất, nước trong đó giải pháp quan trọng nhất là nâng cao ý thức
của con người trong việc thải bỏ chất thải,ý thức xử dụng thốc trừ sâu,
phân bón hóa học của những người nông dân. Đồng thới cần khuyến
khích sử dụng phân bón sinh học, sử dụng các giống cây trồng không có
sâu bệnh để hạn chế việc sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón hóa học,
tuyên truyền cho người dân thực hiện luật môi trường để bảo vệ môi
trường đất, nước bảo vệ các sinh vật sinh sống trên Trái Đất để cuộc sống
của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn.
4.2.3. Ô nhiễm không khí:

Hằng năm có khoảng 20 tỉ tấn CO2 + 1,53 triệu tấn SiO2 + Hơn 1
triệu tấn Niken + 700 triệu tấn bụi + 1,5 triệu tấn Asen + 900 tấn coban +
600.000 tấn Kẽm (Zn), hơi Thuỷ ngân (Hg), hơi Chì (Pb) và các chất độc
hại khác. Làm tăng đột biến các chất như CO2, NOX, SO3 …
11 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
Các chất ô nhiễm phát xuất từ nhiều nguồn khác khau; ô nhiễm không khí
rất khó phân tích vì chất ô nhiễm thay đổi nhiều do điều kiện thời tiết và
địa hình; nhiều chất còn phản ứng với nhau tạo ra chất mới rất độc.
 Ảnh hưởng đến môi trường đa dạng và phong phú. Vì vậy, xử l ý
kh í th ải là điều rất cần thiết.
 Tác hại đến con người:
 Tác hại của bụi:
- Thành phần hóa học, thời gian tiếp xúc là các yếu tố ảnh hưởng đến
các cơ quan nội tạng.
- Mức độ bụi trong bộ máy hô hấp phụ thuộc vào kích thước, hình
dạng, mật độ hạt bụi và cá nhân từng người.
12 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
- Bụi vào phổi gây kích thích cơ học, xơ hóa phổi dẫn đến các bệnh về
hô hấp như khó thở, ho và khạc đờm, ho ra máu, đau ngực …
- TCVN 2005 qui định bụi tổng cộng trong không khí xung quanh 0,5
mg/m3.
Ví dụ:
+ Bụi đất đá không gây ra các phản ứng phụ: tính trõ, không có tính
gây độc. Kích thước lớn (bụi thô), nặng, ít có khả năng đi vào phế nang
phổi, ít ảnh hưởng đến sức khỏe.
+ Bụi than: thành phần chủ yếu là hydrocacbon đa vòng (VD: 3,4-
benzenpyrene), có độc tính cao, có khả năng gây ung thư, phần lớn bụi
than có kích thước lớn hơn 5 micromet bị các dịch nhầy ở các tuyến phế

quản và các lông giữ lại. Chỉ có các hạt bụi có kích thước nhỏ hơn 5 mm
vào được phế nang.
 Tác hại của SO2 và NOX:
- SO2, NOX là chất kích thích, khi tiếp xúc với niêm mạc ẩm ướt tạo
thành axít (HNO3, H2SO3, H2SO4). Các chất khí trên vào cơ thể qua
đường hô hấp hoặc hòa tan vào nước bọt rồi vào đường tiêu hoá, sau đó
phân tán vào máu tuần hoàn.
13 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
- Kết hợp với bụi => bụi lơ lửng có tính axít, kích thước < 2-3µm sẽ
vào tới phế nang, bị đại thực bào phá hủy hoặc đưa đến hệ thống bạch
huyết.
- SO2 nhiễm độc qua da làm giảm dự trữ kiềm trong máu, đào thải
amoniac ra nước tiểu và kiềm ra nước bọt.
- Độc tính chung của SO2 thể hiện ở rối loạn chuyển hóa protein và
đường, thiếu vitamin B và C, ức chế enzym oxydaza.
- Giới hạn phát hiện thấy bằng mũi SO2 từ 8 – 13 mg/m3.
- Giới hạn gây độc tính của SO2 là 20 – 30 mg/m3, giới hạn gây kích
thích hô hấp, ho là 50mg/m3.
- Giới hạn gây nguy hiểm sau khi hít thở 30 – 60 phút là từ 130 đến
260mg/m3
- Giới hạn gây tử vong nhanh (30’ – 1h) là 1.000-1.300mg/m3.
- Tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y Tế Việt Nam đối với SO2, SO3, NO2
týõng ứng là 0,5; 0,3 và 0,085 mg/m3 (nồng độ tối đa 1 lần nhiễm).
 Tác hại của HF:
14 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
- HF sinh ra do quá trình sản xuất hóa chất (HF) và là một tác nhân ô
nhiễm quan trọng khi nung gạch ngói, gốm sứ.
- Không khí bị ô nhiễm bởi HF và các hợp chất fluorua gây ảnh hưởng

trực tiếp đến đời sống sinh vật và sức khoẻ của người. Các hợp chất
fluorua gây ra bệnh fluorosis trên hệ xương và răng.
 Tác hại của CO:
- Ôxít cacbon (CO) kết hợp với hemoglobin (Hb) trong máu thành hợp
chất bền vững là cacboxy hemoglobin (HbCO) làm cho máu giảm khả
năng vận chuyển ôxy dẫn đến thiếu ôxy trong máu rồi thiếu ôxy ở các tổ
chức.
- Mối liên quan giữa nồng độ CO và triệu chứng nhiễm độc tóm tắt dưới đây:

15 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
 AMONIAC (NH3):
- NH3 không ăn mòn thép, nhôm, tan trong nước gây ăn mòn kim loại
màu: kẽm, đồng và các hợp kim của đồng. NH3 tạo với không khí một
hỗn hợp có nồng độ trong khoảng từ 16 đến 25% thể tích sẽ gây nổ.
- NH3 là khí độc có khả năng kích thích mạnh lên mũi, miệng và hệ
thống hô hấp.
- Ngưỡng chịu đựng đối với NH3 là 20 – 40 mg/m3.
- Tiếp xúc với NH3 với nồng độ 100 mg/m3 trong khoảng thời gian
ngắn sẽ không để lại hậu qủa lâu dài.
- Tiếp xúc với NH3 ở nồng độ 1.500 – 2.000 mg/m3 trong thời gian
30’ sẽ nguy hiểm đối với tính mạng.
 HYDRO SUNFUA (H2S):
- Phát hiện dễ dàng nhờ vào mùi đặc trưng.
- Xâm nhập vào cơ thể qua phổi, H2S bị oxy hoá => sunfat, các hợp
chất có độc tính thấp. Không tích lũy trong cơ thể. Khoảng 6% lượng khí
hấp thụ sẽ được thải ra ngoài qua khí thở ra, phần còn lại sau khi chuyển
hóa được bài tiết qua nước tiểu.
16 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng

- Ở nồng độ thấp, H2S có kích thích lên mắt và đường hô hấp.
- Hít thở lượng lớn hỗn hợp khí H2S, mercaptan, ammoniac… gây
thiếu oxy đột ngột, có thể dẫn đến tử vong do ngạt.
- Dấu hiệu nhiễm độc cấp tính: buồn nôn, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy,
mũi họng khô và có mùi hôi, mắt có biểu hiện phù mi, viêm kết mạc nhãn
cầu, tiết dịch mủ và giảm thị lực.
- Sunfua được tạo thành xâm nhập hệ tuần hoàn tác động đến các vùng
cảm giác – mạch, vùng sinh phản xạ của các thần kinh động mạch cảnh.
- Thường xuyên tiếp xúc với H2S ở nồng độ dưới mức gây độc cấp
tính có thể gây nhiễm độc mãn tính. Các triệu chứng có thể là: suy nhược,
rối loạn hệ thần kinh, hệ tiêu hóa, tính khí thất thường, khó tập trung, mất
ngủ, viêm phế quản mãn tính…
 Tác hại của HYDROCACBON:
- Hơi dầu có chứa các chất hydrocacbon nhẹ như metan, propan,
butan, sunfua hydro.
- Giới hạn nhiễm độc của các khí như sau: Metan 60-95 %, Propan 10
%, Butan 30 %, Sulfua hydro 10 ppm.
- Tiêu chuẩn của Bộ Y Tế Việt Nam năm 1977 qui định tại nơi lao
động: dầu xăng nhiên liệu là 100mg/m3, dầu hỏa là 300mg/m3. TCVN
17 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
5938-2005 qui định nồng độ xăng dầu trong không khí xung quanh tối đa
trong 1 giờ là 5mg/m3.
- Nồng độ hơi xăng, dầu từ 45% (thể tích) trở lên sẽ gây ngạt thở do
thiếu ôxy. Triệu chứng nhiễm độc như say, co giật, ngạt, viêm phổi, áp xe
phổi.
- Dầu xăng ở nồng độ trên 40.000 mg/m3 có thể bị tai biến cấp tính
với các triệu chứng như tức ngực, chóng mặt, rối loạn giác quan, tâm
thần, nhức đầu, buồn nôn, ở nồng độ trên 60.000 mg/m3 sẽ xuất hiện các
cơn co giật, rối loạn tim và hô hấp, thậm chí gây tử vong.

- Người nhạy cảm xăng dầu: tác động trực tiếp lên da (ghẻ, ban đỏ,
eczema, bệnh nốt dầu, ung thư da).
- Các hợp chất hữu cơ bay hơi:Dưới ánh sáng mặt trời, các hợp chất
hữu cơ với NOx tạo thành ozon hoặc những chất oxy hóa mạnh khác. Các
chất này có hại tới sức khỏe (rối loạn hô hấp, đau đầu, nhức mắt), gây hại
cho cây cối và vật liệu.
 Tác hại của FORMALDEHYDE:
- Formaldehyde với nồng độ thấp kích thích da, mắt, đường hô hấp, ở
liều cao có tác động toàn thân, gây ngủ.
18 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
- Nhiễm theo đường tiêu hoá với liều lượng cao hơn 200mg/ngày sẽ
gây nôn, choáng váng.
- Người bị nhiễm độc mãn tính có tổn thương rất đặc trưng ở móng
tay: móng tay màu nâu, mềm ra, dễ gẫy, viêm nhiễm ở xung quanh móng
rồi mưng mủ.
- Nồng độ tối đa cho phép của hơi formaldehyde trong không khí là
0,012mg/m3 (TCVN 5938-1995), trong khí thải là 6 mg/m3.
- Tổ chức Y tế Thế giới: nồng độ giới hạn formandehyde là 100
mg/m3 trong không khí với thời gian trung bình 30phút.
 Tác hại của ô nhiễm không khí tới động thực vật:
- Ô nhiễm không khí gây ảnh hưởng tai hại cho tất cả sinh vật.
- Thực vật rất nhạy cảm đối với ô nhiễm không khí.
- SO2, NO2, ozon, fluor, chì… gây hại trực tiếp cho thực vật khi đi
vào khí khổng, làm hư hại hệ thống giảm thoát nước và giảm khả năng
kháng bệnh.
- Ngăn cản sự quang hợp và tăng trưởng của thực vật; giảm sự hấp
thu thức ăn, làm lá vàng và rụng sớm.
- Đa số cây ăn quả rất nhạy đối với HF. Khi tiếp xúc với nồng độ HF
lớn hơn 0,002 mg/m3 thì lá cây bị cháy đốm, rụng lá.

19 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
- Mưa acid còn tác động gián tiếp lên thực vật và làm cây thiếu thức
ăn như Ca và giết chết các vi sinh vật đất. Nó làm ion Al được giải phóng
vào nước làm hại rễ cây (lông hút) và làm giảm hấp thu thức ăn và nước.
- Ðối với động vật, nhất là vật nuôi, thì fluor gây nhiều tai họa hơn cả.
Chúng bị nhiễm độc do hít trực tiếp và qua chuỗi thức ăn.
 Tác hại của ô nhiễm môi trường tới tài sản:
- Làm gỉ kim loại.
- Ăn mòn bêtông.
- Mài mòn, phân huỷ chất sõn trên bề mặt sản phẩm.
- Làm mất màu, hư hại tranh.
- Làm giảm độ bền dẻo, mất màu sợi vải.
- Giảm độ bền của giấy, cao su, thuộc da.
4.2.4. Ô nhiễm tiếng ồn:
Những thí dụ minh họa cho các chỉ số dB :
10-20 Gió vi vu qua lá cây được xem là trạng thái yên tỉnh
20 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
dB
30 dB Thì thầm (trong phòng ngủ)
40 dB Tiếng nói chuyện bình thường
50 dB
Tiếng máy giặt, ồn ở siêu thị, có gây phiền nhưng còn chịu
được
55 dB
-80 dB
Động cơ xe hơi, xe máy, gây khó chịu, mệt mỏi
80 dB -
85 dB

Máy cắt cỏ, hút bụi, cắt gỗ, làm rất khó chịu
90 dB -
100 dB
phát ra ở Công trường xây dựng, ồn ở mức nguy hiểm
120dB -
140 dB
Máy bay lúc cất cánh, ồn quá lớn gây tổn thương tâm trí
Hậu quả ô nhiễm tiếng ồn: ô nhiểm tiếng ồn có hại về sinh lý, tâm lý
và có tầm ảnh hưởng xã hội.
- Về sinh lý, trên một mức nào đó, tiếng ồn gây thương tích tai, làm
điếc. Trong môi trường ồn, ta dễ bị bệnh về giấc ngủ (không ngủ được,
cấu trúc của giấc ngủ bị rối loạn).
21 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
- Sống trong tiếng ồn, ta có thể bị đau đầu, lâu dần thành bệnh kinh
niên, mất khả năng làm việc, hay là ít nhất là mất giá trị sống. Nguy hại
hơn nữa là những bệnh về tim mạch và huyết áp.
- Về tâm lý, môi trường ồn có thể gây cho ta stress, căng thẳng thần
kinh, dễ cáu, nóng nảy, hung hăng, dễ bị kích động,
- Về xã hội, ở trong tiếng ồn ta hay phán đoán người khác, nghi ngờ
và lo sợ trước người khác, khó tiếp xúc với người khác,
Đó là những kết quả đã được các nghiên cứu nghiêm chỉnh đưa ra. Dĩ
nhiên các kết luận này phải được vận dụng có chừng mực, dè dặt . Hậu
quả của tiếng ồn còn tùy thuộc thời gian chịu ồn và phản ứng hay khả
năng “thích ứng” độ ồn của từng cá nhân.
 Nguyên nhân của tiếng ồn
 Do nguồn gốc thiên nhiên: Do hoạt động của núi lửa và động đất.
Tuy nhiên đây chỉ là nguyên nhân thứ yếu do hoạt động của núi lửa và
động đất xảy ra một cách ngẫu nhiên, chỉ tác động đến một khu vực
nhất định.

 Do nguồn gốc nhân tạo: là nguyên nhân chủ yếu gây ra ô nhiễm
tiếng ồn.
• Giao thông: Hiện nay phương tiện giao thông đang ngày càng tăng
với mức độ chóng mặt, mật độ xe lưu thông trên đường phố ngày càng
22 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
lớn gây nên ô nhiễm về tiếng ồn do tiếng của động cơ, tiếng còi cũng như
tiếng phanh xe, số lượng phương tiện kém chất lượng lưu thông trên
đường phố
• Xây dựng, công nghiệp sản xuất: Hiện nay, việc sử dụng các loại
máy móc trong xây dựng, sản xuất khá phổ biến. Tuy nhiên do sự thiếu ý
thức của các cơ sở đã làm cho mức độ ô nhiễm tiếng ồn đang ngày càng
tăng cao.
• Sinh hoạt: Việc bật máy nghe nhạc quá lớn cũng tác động không
nhỏ đến thính giác của người xung quanh, nhất là trong các vũ trường hay
quán bar…
4.2.5. Ô nhiễm tiếng phóng xạ
Năng lượng nguyên tử và các chất phóng xạ có khả năng gây đột biến
ở người và sinh vật, gây ra một số bệnh đột biến, di truyền và ung thư.
Nguồn ô nhiễm phóng xạ chủ yếu là từ chất thải của công trường khai
thác chất phóng xạ, các nhà máy điện nguyên tử, và qua những vụ thử vủ
khí hạt nhân.
4.3. Các dạng chất ô nhiễm.
4.3.1. Chất ô nhiễm luỹ tích và chất ô nhiễm không luỹ tích .
Một đặc trưng quan trọng và đơn giản của chất ô nhiễm môi trường là
chúng được tích luỹ theo thời gian hay có xu hướng tiêu tan ngay sau khi
được phát ra. Ví dụ, tiếng ồn. Khi nguồn gây tiếng ồn hoạt động thì tiếng
ồn phát ra và lan truyền vào không gian xung quanh, nhưng ngay khi tắt
23 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng

nguồn thì tiếng ồn cũng mất. ở đầu này chất ô nhiễm được phát ra, thì ở
đầu kia chúng ta sẽ có chất ô nhiễm môi trường với số lượng gần như lúc
chúng phát ra. Như chất thải phóng xạ chẳng hạn, chúng phân rã theo thời
gian, nhưng với tốc độ hết sức chậm so với đời sống của con người, cho
nên chúng sẽ tồn tại vĩnh viễn với chúng ta. Chúng là loại chất ô nhiễm
cực kỳ lũy tích. Hay chất dẻo cũng vậy. Mặc dù trong nhiều thập kỷ qua,
người ta đã tiến hành nghiên cứu để tìm ra các chất dẻo thoái hoá được,
nhưng chất dẻo vẫn là một chất phân huỷ rất chậm. Nó cũng là chất ô
nhiễm luỹ tích. Nhiều loại hoá chất là chất ô nhiễm luỹ tích, mỗi khi phát
ra, về cơ bản, chúng vẫn tồn tại với chúng ta.
Xen kẽ giữa chất ô nhiễm luỹ tích và không luỹ tích là loại chất ô nhiễm
lũy tích đến một mức độ nhất định nào đó, chứ không luỹ tích hoàn toàn.
Ví dụ: Chất thải hữu cơ phát ra vào môi trường nước của các nhà máy
xử lý chất thải đô thị. Mỗi khi phát ra, chất thải chịu tác động của quá
trình hoá học tự nhiên, có xu hướng phá vỡ cấu trúc của nó, làm cho nó
trở nên vô hại. Nói cách khác, nước có khả năng đồng hoá tự nhiên nên
có thể tiếp nhận các chất hữu cơ và làm cho chúng ít có hại hơn.
Nếu như không vượt quá khả năng đồng hoá đó, chúng ta có thể cắt
nguồn chất thải đi thì trong một thời gian nhất định, nước sẽ trở lại bình
thường. Đương nhiên, tự nhiên có một ít khả năng đồng hoá không có
nghĩa là chúng ta có các chất ô nhiễm hoàn toàn không tích luỹ. Khi chất
24 | P a g e
Nguyễn Thị Hoa Hồng
thải phát ra đã vượt quá khả năng đồng hoá thì có nghĩa là chúng ta
chuyển vào quy trình lũy tích. Ví dụ: Khí quyển của Trái Đất có một khả
năng nhất định hấp thụ CO2 do hoạt động của con người phát ra, miễn là
không vượt quá khả năng đó. CO2 là một chất ô nhiễm không luỹ tích.
Nhưng, nếu khả năng đồng hoá CO2 của Trái Đất bị vượt quá, thì tất yếu
chúng ta sẽ lâm vào tình thế chất phát ra lũy tích theo thời gian.
4.3.2. Chất ô nhiễm địa phương, vùng và toàn cầu

Các chất phát thải có phạm vi ảnh hưởng rất khác nhau. Một số chất phát
thải mang tính cục bộ, chỉ có ảnh hưởng trong một vùng nhỏ hẹp. Ví dụ:
ô nhiễm tiếng ồn, suy thoái cảnh quan môi trường mang tính địa phương
và thiệt hại do bất cứ nguồn nào gây ra cũng thường được giới hạn bởi
các nhóm dân cư nhỏ sinh sống tại một vùng nhất định. Ngược lại, một số
chất phát thải khác lại lan truyền ô nhiễm trong cả một vùng rộng lớn, có
thể ảnh hưởng đến môi trường toàn cầu. Chẳng hạn, mưa axít là một vấn
đề mang tính vùng; các chất phát thải tại một vùng nào đó ở Mỹ hoặc
Châu Âu có ảnh hưởng đến dân cư của các vùng khác trong nước hay
nước khác. Hiệu ứng làm suy giảm tầng ôzôn của Clo, Fluo, Các bon phát
ra từ nhiều nước phát triển do những thay đổi hoá học ở tầng bình lưu của
Trái Đất là ảnh hưởng mang tính toàn cầu. Đương nhiên, các vấn đề môi
trường địa phương dễ giải quyết hơn so với các vấn đề môi trường vùng
và quốc gia. Đến lượt mình, các vấn đề môi trường vùng và quốc gia dễ
25 | P a g e

×