Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Nguyên nhân và tác động của việc tái áp đặt hạn ngạch Dệt may Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.47 KB, 22 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
gày 1/1/2005, Hiệp định hàng dệt may (ATC) về chế độ hạn ngạch xuất
khẩu dệt may chính thức chấm dứt hiệu lực. Kể từ khi Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) dỡ bỏ hạn ngạch, bức tranh thị trường dệt may thế giới đã
có sự thay đổi rõ nét, trong đó “phần thắng” chủ yếu thuộc về ngành dệt may
Trung Quốc, trong khi các doanh nghiệp dệt may ở nhiều nước khác đang lao
đao vì không thể cạnh tranh, hàng nghìn công nhân mất việc làm kéo theo nhiều
vấn đề xã hội khác. Giới kinh doanh dệt may cho rằng, sau khi bãi bỏ hạn ngạch,
thị trường dệt may thế giới tưởng chừng như không còn biên giới, các doanh
nghiệp được tự do làm ăn không hạn chế. Tuy nhiên thực tế lại không đơn giản
như vậy.
N
Sau khi WTO bãi bỏ chế độ hạn ngạch, hàng dệt may của Trung Quốc vào
Mỹ đã tăng vọt. Nhiều nhóm vận động hành lang có quyền lực ở thị trường này
đã kêu gọi chính quyền của họ có những hành động pháp lý ngăn không để
“dòng thác” hàng dệt may giá rẻ của Trung Quốc lấn át các doanh nghiệp nội
địa. Kết quả là Mỹ đã dựa vào điều khoản về cơ chế tự vệ mà Trung Quốc ký
với WTO để đưa ra biện pháp hạn chế mới đối với hàng dệt may nhập khẩu từ
Trung Quốc bằng cách tái áp đặt hạn ngạch dệt may, làm cho ngành dệt may
Trung Quốc thực sự đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức.
Bắt đầu từ ngày 11/1/2007, ngày Việt Nam chính thức vào WTO, hạn
ngạch đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ được bãi
bỏ. Đây là cơ hội lớn cho thị trường xuất khẩu, song đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức, trong số đó có nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ. Từ
đây đặt ra yêu cầu Việt Nam phải tìm hiểu bài học kinh nghiệm từ các nước
khác, điển hình là Trung Quốc, nhằm tận dụng tối đa cơ hội và giảm thiểu
thách thức, phát huy lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực dệt may. Và đó cũng
chính là lý do mà em lựa chọn đề tài này.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


Đề án gồm 3 chương với kết cấu :
Chương 1 : Dệt may Trung Quốc và câu chuyện thời hậu hạn ngạch.
Chương 2 : Nguyên nhân và tác động của việc tái áp đặt hạn ngạch.
Chương 3 : Dệt may Việt Nam với bài học từ Trung Quốc.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Huy Nhượng đã hướng dẫn và góp ý cho
em trong quá trình thực hiện đề án này.
Do những hạn chế về thời gian và trình độ của bản thân em nên đề án không
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét từ
phía thầy để em có thể rút kinh nghiệm sao cho những lần viết đề án sau này
ngày càng tốt hơn.
Sinh viên Nguyễn Thùy Linh

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I. DỆT MAY TRUNG QUỐC VÀ CÂU CHUYỆN
THỜI HẬU HẠN NGẠCH
1.1. Tình hình xuất khẩu dệt may của Trung Quốc vào Mỹ trước
thời điểm bị tái áp đặt hạn ngạch dệt may
Mỹ có nhu cầu tiêu thụ lớn về hàng dệt may nên đóng vai trò là một thị
trường lớn nhập khẩu hàng dệt may của thế giới. Còn Trung Quốc là một quốc
gia sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may lớn của thế giới với sản lượng chiếm 1/3
tổng sản lượng toàn cầu. Sau khi gia nhập WTO vào tháng 11/2001, thị phần các
mặt hàng may mặc của Trung Quốc được Mỹ xoá bỏ chế độ quota xuất khẩu đã
tăng 1.009%, giá bán buôn các mặt hàng này của Trung Quốc trên thị trường Mỹ
giảm 53%. Xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc vào Hoa Kỳ trong mấy
năm qua tăng mạnh : năm 2003 đạt 14,2 tỷ USD, năm 2004 đạt 17,8 tỷ USD.
Trước sức ép cạnh tranh từ hàng hoá Trung Quốc trên thị trường Mỹ ngày càng
gia tăng, nhiều nhà sản xuất hàng dệt may của Mỹ đã phải chuyển nhà máy sang
Mexico, Trung Mỹ và nhiều nước khác trong khu vực.
Việc hệ thống hạn ngạch dệt may được bãi bỏ từ 1/1/2005 giữa các thành

viên Tổ chức thương mại thế giới WTO đã mang lại cơ hội lớn cho xuất khẩu
dệt may của Trung Quốc. Ngay sau khi WTO bãi bỏ chế độ hạn ngạch, đơn
hàng của các doanh nghiệp Mỹ ngày càng đổ dồn vào các nhà sản xuất Trung
Quốc.
Chỉ tính riêng tháng 1, xuất khẩu dệt may Trung Quốc sang Mỹ đạt 1,4 tỷ
USD, tăng tới 65,26% so với cùng kỳ năm 2004. Riêng lượng áo sơ mi chất liệu
cotton xuất khẩu sang tăng 1.800%.
Đối với Mỹ, chỉ trong hai tháng đầu năm, hàng dệt may từ Trung Quốc xuất
khẩu sang đã tăng 87%. Hai tháng đầu năm 2005, Trung Quốc đã xuất sang Mỹ
27 triệu quần bò (jeans) thay vì 1,9 triệu (trong trường hợp còn giữ chế độ hạn
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ngạch). Xuất khẩu áo sơ mi dệt kim của Trung Quốc tăng 603% lên 1,6 triệu
USD trong tháng 2/05. Xuất khẩu quần vải bông tăng 548% lên 60 triệu USD.
Tại Mỹ, số liệu trong tháng 2 và tháng 3 cho thấy, kim ngạch nhập khẩu hàng
dệt may từ Trung Quốc tăng 63% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu của Trung Quốc, hàng dệt may nước này xuất khẩu sang Mỹ
trong ba tháng đầu năm đã tăng 258%. Một số mã hàng có tốc độ tăng chóng
mặt trên 1.000%.
Bảng 1. Số liệu nhập khẩu của 3 Cat có kim ngạch tăng nhanh trong
quý I năm 2005
2004
Tháng 3/2004-
3/2005
Tháng 1-
3/2004
Tháng 1-
3/2005
Tháng 1-3
2004/2005

Cat 338/339(áo sơ mi cotton)
Lượng (tá) 2.816.081 94.35.000 518.481 7.137.399 1.276,6%
Trị giá
(USD)
216.500.000 411.477.000 37.504.000 232.482.000 519,9%
Cat 347/348 (quần cotton)
Lượng (tá) 2.184.056 8.572.361 406.070 6.794.375 1.573,2%
Trị giá
(USD)
271.881.000 609.706.000 50.900.000 388.726.000 663,7%
Cat 352/652 (đồ lót nam)
Lượng (tá) 5.211.316 9.208.507 1.255.900 5.206.929 318,2%
Trị giá
(USD)
137.109.000 176.722.000 29.965.000 69.579.000 132,2%
(Nguồn : trang Web Bộ tài chính www.mof.gov.vn)
Trong 4 tháng đầu năm 2005, Mỹ đã nhập khẩu 2,5 tỷ USD hàng dệt may
Trung Quốc, chiếm 39% tổng kim ngạch hàng dệt may được nhập vào Mỹ.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
1.2. Diễn biến việc ra quyết định tái áp đặt hạn ngạch của Mỹ
Tháng 9 năm 2004, ông Karl Spilhaus, Chủ tịch Hiệp hội Dệt quốc gia Mỹ,
cho biết, ngành dệt may Mỹ đã có nhiều cuộc thảo luận kỹ lưỡng với các quan
chức thương mại của Chính phủ nước này về mối đe doạ của hàng dệt may nhập
khẩu đối với các nhà sản xuất hàng dệt may trong nước sau khi WTO xoá bỏ chế
độ quota trong buôn bán các loại hàng này. Cũng theo ông Karl Spilhaus, Tổng
thống George W. Bush đã ghi nhận sự cảnh báo nguy cơ đối với ngành dệt may
Mỹ sau khi WTO xoá bỏ chế độ quota và hứa sẽ đưa ra Chính phủ xem xét
những kiến nghị của các doanh nghiệp dệt may trong nước nhằm khắc phục
nguy cơ này.

Một số quan chức ngành dệt may Mỹ cho biết, ngành này sẽ kiến nghị Chính
phủ hạn chế nhập khẩu lượng lớn đối với nhiều chủng loại hàng dệt may từ
Trung Quốc, sao cho số lượng các mặt hàng này nhập khẩu từ Trung Quốc trong
những năm tới sẽ không tăng quá 7,5% so với năm 2004.
Cuối tháng 4 năm 2005, Mỹ đã quyết định mở cuộc điều tra về 6 Cat hàng
dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc. Cuộc điều tra do Ủy ban thực thi các hiệp
định về hàng dệt của Mỹ (CITA) tiến hành. CITA đã dành 30 ngày để lấy ý kiến
về việc có áp dụng biện pháp tự vệ với 3 chủng loại hàng kể trên hay không.
Cuộc thăm dò kết thúc vào 9/5 với kết quả thuận theo hướng tái áp hạn ngạch.
Đến đêm 13/5, trong thông cáo đăng tải trên website Bộ Thương mại Mỹ,
CITA bất ngờ tuyên bố áp quota với 3 chủng loại hàng nhập khẩu từ Trung
Quốc là áo sơ mi, quần tây và đồ lót nam. CITA sẽ dành tối đa 4 tháng để 2 bên
tìm tiếng nói chung, nếu không biện pháp trừng phạt sẽ được áp dụng cho suốt
năm 2005.
Tân Bộ trưởng Thương mại Mỹ Carlos Gutierrez phát biểu "Hôm nay, CITA
tuyên bố áp dụng biện pháp tự vệ nhập khẩu đối với hàng dệt may nhập khẩu từ
Trung Quốc do những sản phẩm này đe đoạ làm đảo lộn thị trường. Hành động
của CITA hoàn toàn tuân thủ theo cam kết trong các hiệp định thương mại đã ký
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kết. Chúng tôi sẽ nỗ lực tìm tiếng nói chung với Trung Quốc nhằm tìm ra một
giải pháp phát triển trật tự thương mại trong môi trường phi quota". Theo CITA,
những Cat 338/339, 347/348 và 352/652 bị tái áp hạn ngạch do có sự tăng kim
ngạch đột biến trong quý I năm 2005 và góp phần làm đảo lộn thị trường Mỹ.
Mức hạn ngạch dự kiến theo quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) sẽ bằng khối lượng hàng nhập khẩu 3 Cat này năm ngoái cộng với 7,5%
tăng trưởng. Biện pháp tự vệ này được áp dụng cũng có nghĩa từ nay trở đi, các
lô hàng thuộc 3 mã kể trên sẽ không được thông quan vào Mỹ, bởi trên thực tế
lượng nhập đã vượt quá nhiều so với hạn mức cho phép.
Chiều 18/5/2005, chính quyền Bush thông báo quyết định sẽ đặt mức hạn chế

mới đối với 5 chủng loại quần áo Trung Quốc xuất sang Mỹ. Đây là lần thứ hai
trong vòng 5 ngày, Washington thông báo áp dụng hạn ngạch với lý do hàng dệt
may Trung Quốc đang ảnh hưởng xấu tới các công ty cùng loại của Mỹ. Các
chủng loại hàng bị tiếp tục hạn chế lần này bao gồm đồ nam và đồ trẻ em nam;
áo sơ-mi sợi nhân tạo; quần nam sợi nhân tạo; áo sơ-mi và áo kiểu nữ sợi nhân
tạo và sợi cotton. Theo một đại diện thương mại Mỹ, các chủng loại như quần
tây, áo sơ-mi và áo kiểu nữ ảnh hưởng tới các sản phẩm nam và nữ sản xuất
trong nước.Quyết định này được Uỷ ban quốc gia do Bộ Thương mại Mỹ dẫn
đầu đưa ra, sau khi phát hiện thấy các chủng loại hàng nhập khẩu nói trên đe doạ
ảnh hưởng xấu tới thị trường dệt may Mỹ. Lượng hàng xuất từ Trung Quốc sang
Mỹ đã tăng đột biến kể từ đầu năm tới nay.
Tính đến tháng 10, Mỹ áp đặt hạn ngạch chỉ có 2 tỷ USD/năm đối với hàng
dệt may nhập khẩu từ Trung Quốc, kể cả hàng dệt kim, quần áo sợi vải bông và
đồ lót
Sau nhiều tháng đàm phán thất bại, trong cuộc gặp gỡ tại Luân Đôn (Anh)
ngày 8/11, Đại diện Thương mại Mỹ Rob Portman và Bộ trưởng Thương mại
Trung Quốc Bạc Hy Lai mới đạt được thỏa thuận về vấn đề giới hạn xuất khẩu
hàng dệt may Trung Quốc sang thị trường Mỹ. Thỏa thuận này bắt đầu có hiệu
lực từ ngày 1/1/2006 và kéo dài đến cuối năm 2008, được áp dụng đối với 34
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mặt hàng vải và quần áo may sẵn của Trung Quốc xuất sang thị trường Mỹ với
tổng giá trị lên tới 5,1 tỷ USD/năm, trong đó có quần âu, áo sơmi và đồ lót. Cụ
thể mức tăng trưởng xuất khẩu quần áo may sẵn được giới hạn ở mức 10% năm
2006, 12,5% năm 2007 và 15% năm 2008; còn đối với sản phẩm dệt, các mức
tăng sẽ là 12,5% năm 2006 và 2007, và 16% năm 2008, cao hơn hạn ngạch hiện
hành về mức tăng trưởng hàng dệt may Trung Quốc vào Mỹ là 7,5%/năm.
1.3. Phản ứng của các bên liên quan
1.3.1. Phản ứng của chính phủ Trung Quốc
Ngay sau khi Uỷ ban Thực thi các Hiệp định dệt may của Mỹ (CITA) thông

báo đã chấp nhận lời kêu gọi của ngành dệt may nội địa Mỹ về việc hạn chế
nhập khẩu dệt may của Trung Quốc hồi giữa tháng 11/2004, Phòng thương mại
về xuất, nhập khẩu hàng dệt may Trung Quốc đã ra một tuyên bố phản đối việc
CITA kêu gọi hạn chế nhập khẩu các sản phẩm làm từ vải của Trung Quốc.
Tuyên bố của Bộ Thương mại Trung Quốc nói rằng quan hệ kinh tế và buôn bán
song phương giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ bị tác động nghiêm trọng nếu Mỹ áp
đặt bất cứ một hạn ngạch nhập khẩu nào đối với các mặt hàng dệt may của
Trung Quốc. Bộ Thương mại Trung Quốc nhấn mạnh việc áp đặt hạn ngạch các
hàng dệt may này đi ngược lại nguyên tắc buôn bán tự do của WTO.
Ngày 7/4/2005, Trung Quốc đã phản đối việc Mỹ cảnh báo khả năng áp dụng
các biện pháp hạn chế hàng dệt may Trung Quốc nhập khẩu vào các thị trường
này.
Người phát ngôn Bộ Thương mại Trung Quốc Trùng Quán cho đây là một
quyết định vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO).Ông Trùng Quán cho biết “Quyết định của Mỹ không
những gây ảnh hưởng bất lợi trong quan hệ thương mại Trung Quốc và Mỹ mà
còn ảnh hưởng đến tiềm năng phát triển ngành công nghiệp may mặc toàn cầu.
Là những nước thành viên của WTO, Trung Quốc và Mỹ đều có nghĩa vụ bảo
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vệ và thúc đẩy thực hiện thành công quyết định bãi bỏ hạn ngạch hàng dệt may,
bất kỳ hành vi nào nhằm kéo dài thêm cơ chế hạn ngạch đều sẽ làm tổn hại đến
nguyên tắc tự do, công bằng và cạnh tranh thương mại lành mạnh”. Ông Trùng
Quán cũng bày tỏ hy vọng Mỹ sẽ sớm nhận ra những tác động tiêu cực của các
biện pháp hạn chế trên và không để một quyết định đơn phương làm ảnh hưởng
đến quan hệ thương mại toàn cục giữa các bên.
Ngay sau khi Mỹ quyết định áp dụng hạn ngạch dệt may trở lại hôm
13/5/2005, Bộ Thương mại Trung Quốc ngay lập tức đã lớn tiếng phản đối quyết
định này, cho đó là hành động đi ngược lại các thoả thuận của Tổ chức Thương
mại thế giới đồng thời tạo ra tiền lệ xấu. Trùng Quán, người phát ngôn Bộ

Thương mại Trung Quốc phát biểu "Động thái trên đi ngược lại hoàn toàn tinh
thần tự do thương mại và các nguyên tắc cơ bản của WTO. Trung Quốc mong
muốn điều chỉnh lại quyết định trên để ngăn ngừa chủ nghĩa bảo hộ làm xấu đi
quan hệ thương mại hai bên".
Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo và các chuyên gia ngành dệt nước này đã
thúc giục Mỹ tôn trọng sự hội nhập của ngành dệt may trên phạm vi toàn cầu.
Trung Quốc cho rằng việc Mỹ quyết định hạn chế hàng dệt may xuất khẩu của
Trung Quốc đe doạ nghiêm trọng hệ thống mậu dịch đa phương. Trong cuộc gặp
đoàn đại biểu Phòng Thương mại Mỹ hôm 16/5/2005 tại Bắc Kinh, Thủ tướng
Ôn Gia Bảo nói, hành động của phía Mỹ làm phương hại quan hệ mậu dịch song
phương giữa hai nước. Theo ông, Trung Quốc và Mỹ phải đặt viễn cảnh dài hạn
lên hàng đầu và cùng nhau hợp tác nhằm bảo đảm sự phát triển của ngành dệt
may.
Theo thông báo ngày 30/5 trên trang web của Bộ Tài chính Trung Quốc, bắt
đầu từ ngày 1/6, nước này sẽ bãi bỏ thuế xuất khẩu đối với 81 mặt hàng dệt may
và hủy thông báo ngày 20/5 vừa qua về việc tăng thuế xuất khẩu áp dụng đối với
74 mặt hàng này. Bộ trưởng Thương mại Trung Quốc Bạc Hy Lai nói "Chúng
tôi buộc phải thay đổi chính sách vì phía Mỹ đã đặt ra hạn chế lớn đối với hàng
dệt may. Chúng tôi phải mang lại công bằng cho các nhà sản xuất trong nước".
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×