Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

phân loại tội phạm, hãy xác định loại tội phạm mà A đã thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.49 KB, 10 trang )

Đề số 2 – Hình Sự nhóm 1 – Ds 33 D 2 - 3
LỜI NÓI ĐẦU
Điều 8 Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa khái
niệm tội phạm: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản,
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật Xã hội chủ nghĩa”. Định nghĩa trên đã thể hiện sự tập trung về quan điểm của nhà
nước ta về tội phạm. Đó là cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định tội phạm, những
loại tôi phạm cụ thể và áp dụng đúng đắn những điều luật vào từng loại tội phạm. Hiểu rõ
định nghĩa tội phạm trên cho phép chúng ta xác định được hành vi nào là tội phạm, xác định
được loại tội phạm, qua đó áp dụng chính xác những điều luật và đưa ra hình phạt thích
đáng.
Để làm rõ vấn đề trên, trong bài tập nhóm tháng của mình, nhóm DS33D2-3 xin đi
vào giải quyết tình huống được đưa ra trong đề bài số 2.
Do còn thiếu kinh nghiệm trong việc tìm và phân tích tài liệu cũng như kỹ năng
thuyết trình, bài tập nhóm của chúng em không tránh khỏi những sai sót. Mong được thầy
cô và các bạn nhận xét và góp ý. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
1. Trên cơ sở phân loại tội phạm, hãy xác định loại tội phạm mà A đã thực hiện
và giải thích tại sao?
Muốn biết tội phạm mà A đó thực hiện thuộc loại tội phạm gì, ta phải căn cứ vào
việc xác định xem người phạm tội đó thực hiện tội phạm gì, tội phạm đó được phản ánh
trong khoản nào, điều nào của BLHS, và mức cao nhất của khung hình phạt được phản ánh
trong CTTP của tội phạm đó là bao nhiêu năm. Sau đó căn cứ vào cách phân loại tội phạm
theo khoản 2 điều 8 BLHS và định nghĩa về từng loại tội phạm theo khoản 3 điều 8 BLHS
ta sẽ kết luận được loại tội phạm mà người đó phạm phải.
Trong trường hợp trên, A đó lén lút chiếm đoạt xe ,máy của chị B trị giá 60 triệu đồng, hành
vi của A đó bị Tòa án kết án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 điều 138
BLHS 1999.


Điều 138: Tội trộm cắp tài sản
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tự từ hai năm đến
bảy năm:
e. chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đến dưới hai trăm triệu đồng.”
Khoản 2 điều 8 BLHS quy định về phân loại tội phạm như sau:
“2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được qui định
trong bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Và theo quy định tại khoản 3 điều 8 BLHS ta có:
“3. … tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; …”
Như vậy, trong trường hợp của A, A bị Tòa án tuyên án 3 năm tù theo điểm e khoản
2 điều 138 BLHS, mà mức cao nhất của khung hình phạt được phản ánh trong CTTP của tội
trộm cắp tài sản theo khoản 2 điều 138 là 7 năm tù.
Với những lập luận trên, ta có thể kết luận loại tội phạm mà A đó thực hiện là loại
tội phạm nghiêm trọng.
2. Có thể căn cứ vào hình phạt 3 năm tù để xác định tội phạm do A thực hiện
thuộc loại tội nào được không? Vì sao?
A bị tòa án kết án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 điều 138 BLHS năm
1999, nhưng không thể căn cứ vào hình phạt 3 năm tù đó để xác đinh tội phạm do A thực
hiện thuộc loại tội nào được vì nếu căn cứ vào mức án tòa án tuyên cụ thể để phân loại tội
phạm thì không đúng với quy định tại khoản 3 điều 8.
Theo khoản 3 điều 8 BLHS 1999 định nghĩa về từng loại tội phạm, ta có: “Tội phạm
ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; …”
Với một mức án cụ thể của toà án đối với 1 tội phạm, thì tội phạm đó hoàn toàn có
khả năng rơi vào các loại tội phạm khác nhau được định nghĩa theo khoản 3 điều 8 BLHS
1999.
Chẳng hạn trong trường hợp của A, A bị toà kết án 3 năm tù theo điều 138 BLHS

1999. Từ mức án 3 năm tù này ta có thể suy ra rất nhiều khả năng khác nhau:
- Khả năng thứ nhất, có thể A phạm tội theo khoản 1 điều 138, với khung hình phạt
từ 6 tháng đến 3 năm tù, và mức hình phạt cao nhất là 3 năm tù, vì thế tội của A thuộc loại
“tội phạm ít nghiêm trọng’
2
- Khả năng thứ hai, có thể là A phạm tội theo khoản 2 điều 138 BLHS, theo quy
định tại khoản 2 thì khung hình phạt là từ 2 năm đến 7 năm, mà mức cao nhất của khung
hình phạt là 7 năm tù, vì thế tội phạm mà A đã thực hiện thuộc loại “tội phạm nghiêm
trọng”.
- Khả năng thứ ba, có thế A phạm tội theo khoản 3 điều 138 BLHS, khoản 3 điều
138 qui định khung hình phạt từ 7 năm đến 15 năm tù, mức án 3 năm tù của A cũng có thể
là do A có nhiều tình tiết giảm nhẹ (dưới khung hình phạt), với mức cao nhất của khung
hình phạt là 15 năm tù, vì thế tội của A thuộc loại “ tội phạm rất nghiêm trọng’’.
- Khả năng thứ tư, cũng có thể A phạm tội theo khoản 4 điều 138 BLHS, với khung
hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Nhưng có thể do A có nhiều tình tiết
giảm nhẹ nên toà án giảm án cho A xuống 3 năm (dưới khung hình phạt). Mức cao nhất của
khung hình phạt tại khoản 4 điều 138 là tù chung thân, theo định nghĩa tội phạm tại khoản 3
điều 8 BLHS thì ta có thể kết luận tội của A thuộc loại “tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”
Tóm lại, mức án ba năm tù là một mức án đã được toà án đưa ra cho một trường
hợp phạm tội cụ thể, nó là một mức án mà trong đó tòa án đã căn cứ theo quy định của Bộ
luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ,
nhân thân người phạm tội các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự rồi mới
quyết định hình phạt (Theo Điều 45 “căn cứ quyết định hình phạt” Bộ luật Hình sự 1999).
Vì thế việc dựa vào mức án 3 năm tù mà Tòa án tuyên phạt đối với A để kết luận tội mà A
đã phạm thuộc loại tội nào là không đúng với quy định của pháp luật.
3. Sự khác nhau giữa tội trộm cắp tài sản và hành vi trộm cắp tài sản
Tội trộm cắp tài sản Hành vi trộm cắp tài sản
KHÁCH
THỂ
Cùng xâm hại quan hệ sỡ hữu nhưng

mức độ gây thiệt hại và đe dọa gây ra
cho quan hệ sở hữu là lớn hơn.
Cùng xâm phạm quan hệ sở hữu nhưng
mức độ thiệt hại hoặc đe dọa gây ra cho
quan hệ sở hữu là ít hơn.
VỀ MẶT
HÌNH
THỨC
PHÁP LÝ
=> Là hành vi trái pháp luật hình sự hay
được quy định trong bộ luật hình sự
Theo điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999
thì: Người trộm cắp tài sản của người
=> Không trái pháp luật hoặc không quy
định trong luật hình sự.
Căn cứ vào điều 138 Bộ luật hình sự 1999
hiện đang có hiệu lực thi hành thì các
3
khác:
- Có giá trị từ 500 nghìn trở lên
- Hoặc dưới 500 nghìn nhưng gây
hậu quả nghiêm trọng
- Hoặc dưới 500 nghìn nhưng đã bị
xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt tài sản
- Hoặc dưới 500 nghìn nhưng đã
từng bị kết án về tội chiếm đoạt
tài sản và chưa được xóa án tích
- Hoặc hành vi trộm cắp tài sản
nhưng rơi vào một trong các

trường hợp sau:
+ Có tổ chức;
+ Có tính chất chuyên nghiệp
+ Tái phạm nguy hiểm;
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy
hiểm;
+ Hành hung để tẩu thoát.
thì bị coi là tội phạm nếu đủ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật (điều 12) và không rơi vào tình
trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự (theo quy định tại điều 13 Bộ
luật hình sự 1999)
trường hợp sau không phải là tội phạm:
- Có hành vi trộm cắp nhưng giá trị
tài sản trộm cắp dưới 500 nghìn
đồng, chưa gây hậu quả nghiêm
trọng (hoặc gây hậu quả ít nghiêm
trọng),chưa bị xử phạt hành chính
về hành vi chiếm đoạt lần nào,chưa
bị kết về tội chiếm đoạt tài sản
(hoặc đã bị kết án nhưng đã được
xóa án tích)
- Không phải là hành vi trộm cắp:
+ Có tổ chức;
+ Hoặc có tính chất chuyên nghiệp;
+ Hoặc tái phạm nguy hiểm;
+ Hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt,
nguy hiểm;
+ Hoặc hành hung để tẩu thoát

CHỦ THỂ Chủ thể thực hiện phải là người đạt độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không
rơi vào trường hợp không có năng lực
trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành
vi trộm cắp bị coi là tội phạm
Điều 12 Bộ luật hình sự 1999: Tuổi chịu
trách nhiệm hình sự:
“1. Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm về mọi tội phạm. 2. Người
Người thực hiện hành vi trộm cắp có thể là
người có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi luật định hoặc không
4
đủ 14 tuổi trở lên. nhưng chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng”
Khoản 1 điều 13: “Người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự;
đối với người này phải áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh.”
PHÁN
QUYẾT
CỦA TÒA
ÁN
Một người chỉ bị coi là phạm tội khi có

bản án, quyết định của toà án đã có hiệu
lực pháp luật.
Nếu chưa có bản án, quyết định của toà án
hoặc có bản án, quyết định rồi nhưng nó
chưa có hiệu lực pháp luật thì người đó chỉ
bị coi là có hành vi trộm cắp tài sản chứ
chưa phải phạm tội trộm cắp tài sản.
CHẾ TÀI
Tội phạm bị xử lý bằng biện pháp cưỡng
chế nhà nước, nghiêm khắc nhất là hình
phạt. Tội trộm cắp tài sản có các hình
phạt là: cải tạo không giam giữ, tù có
thời hạn, tù chung thân và có thể có thêm
hình phạt tiền là hình phạt bổ sung.
Các biện pháp cưỡng chế ít nghiêm khắc
hơn, chịu trách nhiệm dân sự: trả lại tài
sản, sửa chữa, bồi thường thiệt hại…
TÍNH
NGUY
HIỂM
CHO XÃ
HỘI
Tội trộm cắp tài sản có tính chất và mức
độ nguy hiểm cao hơn
Hành vi trộm cắp tài sản có tính chất và
mức độ nguy hiểm ít hơn.
Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý là theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Hình sự 1999 ban hành năm 2009 thì mức định lượng tối thiểu để truy cứu trách nhiệm
hình sự quy định tại khoản 1 của một số điều đã được sửa đổi. Trong đó sửa đổi cụm từ
“năm trăm nghìn đồng” thành “hai triệu đồng” tại khoản 1 của các điều: 137, 138, 139, 143,

5

×