Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG HỆ THỐNG TÀI LIỆU HO? TRỢ CHO VIỆC GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP PHẦN Đ?A LÍ TỰ NHIÊN SÁCH GIÁO KHOA THÍ ĐIỂM ĐiA LÍ LỚP 10 THPT BAN KHTN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 84 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA ĐỊA LY

---  ---

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI

Giảng viên hướng dẫn : Cơ Ngũn Thị Kim Liên
Sinh viên thực hiện :

TP. HCM 5 – 2004
 1 

Nguyễn Thị Thanh Dung


Lời cảm ơn

PHẦN 1 : MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.

Lý do chọn đề tài ...................................................................................
Mục đích nghiên cứu...............................................................................
Phương pháp nghiên cứu.........................................................................
Giới hạn của đề tài..................................................................................
Lịch sử nghiên cứu .................................................................................



PHẦN 2 : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Quá trình nắm tri thức của học sinh..........................................................
1.2. Xu hướng chung của công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay......................
1.3. Vai trò của phương tiện trực quan trong dạy học Địa Lí...........................
1.4. Đôi nét về quá trình sử dụng máy tính trong dạy học...............................

Chương 2 : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Thực trạng dạy và học môn Địa Lí hiện nay ở trường phổ thông............
2.2. Tình hình sử dụng phương tiện trực quan của giáo viên và học sinh trong
giảng dạy và học tập môn Địa Lí ở trường phổ thông.............................
2.3. Nhận định về sách giáo khoa chương trình thí điểm Địa Lí lớp 10 THPT
ban Khoa học tự nhiên, phần Địa Lí tự nhiên..........................................
2.4. Giới thiệu khái quát các nguồn cung cấp tư liệu :
2.4.1. Microsoft Encarta Reference Library 2004
2.4.1.1. Giới thiệu khái quát..................................................................
2.4.1.2. Quá trình cài đặt.......................................................................
2.4.1.3. Các thành phần.........................................................................
2.4.1.4. Thao tác tìm kiếm, lưu trữ .......................................................
 2 


2.4.2. International Network
2.4.2.1. Khái niệm cơ bản...................................................................
2.4.2.2. Các trang web dò tìm.............................................................
2.4.2.3. Thao tác tìm kiếm, lưu trữ......................................................
2.5. Thiết kế hệ thống tư liệu hỗ trợ dạy và học phần Địa Lí tự nhiên, sách
giáo khoa thí điểm Địa Lí lớp 10 ban KHTN :
2.5.1. Quá trình thiết kế và sử dụng hệ thống tư liệu hỗ trợ :

2.5.1.1. Các bước thiết kế ..................................................................
2.5.1.2. Quá trình sử dụng ..................................................................
2.5.2. Nội dung sau khi thiết kế :
2.5.2.1. Các chủ đề.............................................................................
* Giáo án điện tử
* Câu hỏi - Bài tập
* Hoạt động ngoại khóa
2.5.2.2. Các thể loại tư liệu, thông tin ................................................
* Thông tin
* Tranh ảnh, mô hình
* Video clip
* Bản đồ
2.5.3. Đề xuất mục đích khai thác, sử dụng ............................................
2.5.3.1. Phục vụ cho việc giảng dạy trên lớp - thiết kế giáo án điện tử
2.5.3.2. Phục vụ cho việc ra bài tập, câu hỏi kiểm tra, ôn tập
2.5.3.3. Phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa
2.5.3.4. Sử dụng như tài liệu hỗ trợ cho học sinh
2.5.3.5. Sử dụng như tài liệu hỗ trợ giáo viên
2.6. Hướng dẫn học sinh tiếp cận thông tin từ hệ thống thiết kế.....................
2.7. Nhận xét - Kiến nghị - Góp ý...................................................................

PHẦN 3 : KẾT LUẬN ................................................................................
Phụ lục
Tài liệu tham khảo

 3 


Đ


ược học tập, nghiên cứu và thực hiện khóa luận tốt nghiệp là một mơ ước
lớn đối với tất cả các sinh viên từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Và
mơ ước đó đã trở thành sự thật với tôi - ngày hôm nay được bày tỏ những suy
nghó, đúc rút những hoài bão, kinh nghiệm và một phần niềm tin, lý tưởng nung
nấu trong mình chuyển tải thành một công trình khoa học nghiêm túc và hy
vọng là có chất lượng. Để đạt được đến điều đó là cả một quá trình phấn đấu,
học tập, rèn luyện và nỗ lực không ngừng trong suốt 4 năm học dưới sự hướng
dẫn, chỉ bảo và dạy dỗ nhiệt tình từ lòng yêu thương và sự quan tâm lớn lao của
các Thầy Cô.
Chính vì vậy em xin được gửi lại nơi đây lòng biết ơn chân thành và sâu
sắc đối với tất cả Quý Thầy Cô trong khoa Địa Lí, trường Đại học Sư Phạm
TP.HCM - những người Cha, người Mẹ thứ hai trong suốt thời gian vừa qua đã
luôn ở bên để chở che, dìu dắt và nâng đỡ để em được trưởng thành như hôm
nay!
Và đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô Nguyễn Thị
Kim Liên - Trưởng bộ môn Giáo Pháp Học Khoa Địa Lí trường Đại Học Sư
Phạm TP.HCM - Người vừa trực tiếp hướng dẫn, vừa luôn động viên và giúp đỡ
mọi mặt để em đủ tự tin và sức mạnh hoàn thành khóa luận này. Sự tận tụy
nhiệt tâm cùng tinh thần khoa học đầy trách nhiệm của Cô là một mẫu mực để
chúng em noi theo và học tập. Em xin được cảm ơn Cô rất nhiều.
Sau cùng, xin chân thành gửi lại nơi đây lòng tri ân sâu nặng về Mẹ Cha
và Anh cùng những người thân và bạn bè xung quanh - bằng tình yêu thương và
quan tâm hết mực đã cho tôi thêm niềm tin và nghị lực để sống, học tập và lao
động đạt được kết quả như ngày hôm nay.
Xin cảm ơn tất cả mọi người !!!
Sinh viên : Nguyễn Thị Thanh Dung
TP.HCM thaùng 5 - 2004.
 4 



1. Lý do chọn đề tài :
Địa Lí học thực chất là một môn học cực kì hấp dẫn và lí thú bởi nó có liên
quan đến rất nhiều mặt trong đời sống thực tế : từ tự nhiên đến kinh tế xã hội, từ
địa phương đến vùng, quốc gia, khu vực và thế giới, từ Trái Đất đến vũ trụ, từ cổ
xưa đến hiện đại … Thế nhưng có một sự thật đáng buồn là từ trước đến nay Địa
Lí vẫn luôn bị xem như một môn học có vai trò kém quan trọng trong số các bộ
môn được giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Vì sao như vậy ??? Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng tựu trung lại vấn đề này đã và đang
gây nhiều nhức nhối cho giới quan tâm và những người có trách nhiệm.
Chính vì vậy mà gần đây người ta đã liên tục cải cách nội dung sách giáo
khoa, rất nhiều hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ
thông cũng đã diễn ra nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Và một trong
những giải pháp được quan tâm đó là ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng
dạy một cách có chọn lọc nhằm khơi gợi hứng thú và sự quan tâm thực sự của
học sinh đối với môn học này.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin, cụ thể hơn là áp dụng tri thức từù một số
mạng thông tin hay phần mềm chuyên biệt vào giảng dạy đã đem lại những
thành công nhất định, đáng khích lệ. Trong đó phần mềm Microsoft Encarta
Reference Library 2004 và mạng thông tin toàn cầu International Network
(từ đây xin được gọi tắt là Encarta và Internet) đã thực sự chứng tỏ được hiệu quả
lớn lao của nó với một khối lượng thông tin khổng lồ, cực kì phong phú, đa dạng,
cả về chủng loại lẫn tính năng sử dụng.
Song song đó, hiện nay đang diễn ra quá trình đổi mới để nâng cao chất
lượng dạy và học Địa Lí, cụ thể là chương trình thí điểm đổi mới sách giáo khoa
và phương pháp dạy học các cấp lớp của bậc Trung học. Sách giáo khoa được đổi
mới đã tạo ra một tiền đề vô cùng thuận lợi cho người dạy và người học, tuy
nhiên nguồn tài liệu để tham khảo, mở rộng, nâng cao kiến thức còn tương đối
hạn chế. Các tranh ảnh, mô hình, bản - biểu đồ … chưa đa dạng, màu sắc và
chủng loại chưa phong phú, hấp dẫn, lại thiếu những thông tin tham khảo bên
 5 



ngoài, buộc giáo viên và học sinh phải tìm kiếm thêm tư liệu và các phương tiện
dạy học hỗ trợ khác ... Nhìn chung, công việc tìm kiếm tương đối vất vả, bị động,
nếu không muốn nói là rất mất công sức, thời gian và cả tiền bạc.
Một bên là nguồn thông tin phong phú và đa dạng, có sẵn, hầu như có thể
khai thác tốt mọi lúc mọi nơi nhưng chưa được sắp xếp theo hệ thống và nói
chung là phải tìm kiếm tương đối mất thời gian ; còn một bên thì lại đang vô
cùng cần những thông tin đó - đây chính là điểm gặp nhau của ý tưởng! Tại sao
ta không thiết kế và lưu trữ sẵn một kho tài liệu dành riêng cho việc dạy và học
để khi nào cần dùng đến là có ngay, không phải vất vả, tốn kém, mất thời gian đi
tìm kiếm ở nhiều nơi mà đôi khi lại không có kết quả ??? Thêm nữa, khi đã có
thông tin trong tay, phải làm sao để có thể khai thác tốt nhất kho tài liệu đó ???
Làm sao để tận dụng chúng một cách hữu ích nhất vào phục vụ giảng dạy và học
tập, để cả thầy lẫn trò đều có thể sử dụng, cả thầy lẫn trò đều có thể phát huy trí
lực, nâng cao trình độ, mở rộng kiến thức và quan trọng hơn - làm sao cho quá
trình dạy học đạt kết quả tốt nhất, mỹ mãn nhất ?
Xuất phát từ ý tưởng đó tôi đã lựa chọn một số tính năng và tiện ích nhất
định của các chương trình trên để thử tìm kiếm những thông tin cần thiết phục vụ
cho việc giảng dạy và học tập phần Địa Lí tự nhiên trong chương trình thí điểm
Địa Lí lớp 10 THPT, ban Khoa học tự nhiên và cụ thể hóa ý tưởng đó để trở
thành khóa luận của mình. Tôi đã thiết kế thử nghiệm một hệ thống tài liệu được
lưu trữ và có thể bổ sung, cập nhật thường xuyên cho phù hợp với mục đích và
yêu cầu sử dụng. Đồng thời đề xuất một số phương pháp, cách thức hướng dẫn
học sinh tiếp cận với nguồn thông tin đó, để các em không chỉ thụ động chờ đón
kiến thức từ phía thầy cô truyền đạt mà còn có thể chủ động tự tìm kiếm, nắm
bắt và khám phá tri thức cho mình.
Chính vì thế, đề tài khóa luận này có mục tiêu hướng vào đối tượng người
dùng là cả giáo viên lẫn học sinh - với mong muốn nhỏ nhoi là cung cấp và chia
sẻ một phần những thông tin, tư liệu mà người viết đã góp nhặt và tích lũy được.

Hy vọng rằng về một phương diện nào đó tài liệu này có thể có ích cho mọi
người, dẫu rằng giá trị hữu ích đó vẫn còn hạn chế bởi tài liệu chưa thật sự phong
phú, đầy đủ và toàn diện.
Do vậy, bản thân người viết hy vọng sẽ nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo và
đóng góp thêm từ phía các Thầy Cô, các anh chị và các bạn để đề tài có thể
hoàn thiện hơn và có thể thực sự được phát huy, sử dụng trong thực tế. Làm được
điều đó, người viết đã đạt được tâm nguyện của mình - hy vọng đóng góp một
phần công sức để đem lại chút gì đó có ích, dù là nhỏ nhoi, để tỏ lòng biết ơn và
trân trọng vô vàn đối với công lao các thầy cô đã tận tâm dạy dỗ suốt những năm
qua. Sau nữa là hy vọng có thể giúp các em học sinh thêm hứng thú và thiện cảm
 6 


đối với môn học này. Qua đó, bản thân người viết cũng có dịp để củng cố, thu
thập kiến thức và nâng cao trình độ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm nghiên cứu, thu thập, thiết kế một hệ thống tài liệu được dùng
như một phương tiện dạy học mang tính chất bổ trợ cho sách giáo khoa, thử sử
dụng chúng phục vụ dạy học Địa Lí lớp 10 chương trình thí điểm, phần Địa Lí tự
nhiên. Đồng thời tìm cách hướng dẫn học sinh tiếp xúc và sử dụng hệ thống. Qua
đó hy vọng nâng cao chất lượng học tập của học sinh cũng như trình độ chuyên
môn và tin học của giáo viên; đồng thời góp phần đổi mới phương pháp dạy học,
tạo hiệu quả học tập cao hơn.
Cụ thể hơn, trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, mục đích của tôi là tập
trung nghiên cứu những vấn đề sau :
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của đề tài, làm rõ vai trò của phương pháp sử dụng
thông tin hỗ trợ và phương tiện trực quan trong dạy học Địa Lí, đôi nét về chương
trình dạy học thí điểm.
- Tình hình thế giới và Việt Nam đòi hỏi phải đổi mới việc dạy học (nói
chung) và đổi mới dạy học Địa Lí nói riêng một cách toàn diện cả về nội dung,

phương pháp. Quan niệm dạy học mới hiện nay là giáo viên không cung cấp kiến
thức có sẵn cho học sinh mà cho học sinh tiếp xúc trực tiếp, tự khám phá tri thức
dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của giáo viên.
- Do đặc điểm của quá trình nhận thức Địa Lí và đặc trưng bộ môn, việc
hướng dẫn học sinh tiếp cận thông tin, tư liệu trong dạy học là rất cần thiết. Qua
tiếp cận tư liệu, học sinh sẽ nắm vững được kiến thức cụ thể, tạo cơ sở cho hoạt
động tư duy, tìm ra các tri thức mới, đồng thời óc quan sát, kó năng sử dụng ngôn
ngữ, năng lực tư duy của các em cũng phát triển. Với cách dạy này, giáo viên trở
lại đúng với phương pháp bộ môn - phương pháp dạy học Địa Lí - đưa học sinh đi
từ cái cụ thể đến những tri thức trừu tượng, khái quát. Bên cạnh đó, cách dạy mới
này giúp cho học sinh nắm được cách khai thác tư liệu và tìm thấy hứng thú trong
việc học tập bộ môn. Mà, như ta biết, hứng thú chính là yếu tố thúc đẩy sự tích
cực, chủ động nhận thức, phát hiện, giải quyết các vấn đề trong học tập cũng như
trong cuộc sống của học sinh.
Như vậy, việc cho học sinh tiếp cận với phương tiện trực quan sinh động là
điều có ý nghóa rất tích cực đối với việc đảm bảo chất lượng bộ môn.

 7 


3. Phương pháp nghiên cứu :
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
 Phương pháp tham khảo, nghiên cứu tài liệu
- Nghiên cứu các văn kiện Đại hội Đảng, tài liệu của Bộ giáo dục, Luật
giáo dục để nắm được về cơ bản thực trạng giáo dục, những yêu cầu và nội dung
đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước ta, trong đó yêu cầu sử dụng các phương
tiện, phương pháp hiện đại nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo trong nhận
thức của học sinh.
- Nghiên cứu các tài liệu lí luận về nhận thức và các tài liệu khoa học về
tâm lí giáo dục để hiểu được con đường biện chứng của quá trình nhận thức, bản

chất của hoạt động học tập, biết được mục tiêu giáo dục, phương hướng và con
đường đổi mới cách dạy học nói chung, dạy học Địa Lí nói riêng.
- Tìm hiểu các công trình nghiên cứu về tư liệu Địa Lí để nắm được các loại
tư liệu và ý nghóa của nó đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập Địa Lí.
 Phương pháp sưu tầm, lưu trữ, xử lý thông tin:
Chọn lọc thông tin từ các nguồn cung cấp, xử lý và đưa vào hệ thống.
 Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
- Từ việc nghiên cứu nghiêm túc các vấn đề trên, so sánh, phân tích, tổng
hợp vấn đề, tôi nêu lên nhận thức của mình về kiểu dạy học theo hướng cho học
sinh tiếp cận với thông tin, tư liệu Địa Lí, đặc biệt là khi giảng dạy phần Địa Lí
tự nhiên; cố gắng làm rõ sự cần thiết phải áp dụng cách dạy này vào giảng dạy ở
phổ thông; khẳng định tính phù hợp, đúng đắn của cách dạy này về mặt lý
thuyết. Đồng thời qua đó nêu ý kiến về những cách tiếp cận các loại tư liệu
khác nhau nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học môn Địa Lí.
- Vận dụng kiểu dạy học theo hướng cho học sinh tiếp cận trực tiếp với
nguồn tư liệu để thiết kế một vài giáo án cụ thể trong phần Địa Lí tự nhiên, một
số phần kiểm tra kiến thức cùng hoạt động ngoại khoá nhằm tạo cơ sở để kiểm
nghiệm lý thuyết đã đưa ra.
 Phương pháp khảo sát
- Tìm hiểu thực tế phổ thông (khảo sát thực trạng dạy và học) để thấy được
những ưu điểm và hạn chế còn tồn tại của việc dạy học Địa Lí nói chung và phần
Địa Lí tự nhiên nói riêng nhằm tìm cách khắc phục, góp phần đảm bảo chất
lượng bộ môn.

 8 


 Phương pháp phỏng vấn
Tìm hiểu qua các Thầy Cô về cách thức, phương pháp cho học sinh tiếp cận

với thông tin, nguồn tài liệu … Tìm hiểu sở thích, hứng thú, mong muốn của học
sinh khi học tập Địa Lí, đặc biệt là phần Địa Lí tự nhiên.
4. Giới hạn của đề tài :

 Phạm vi nghiên cứu :
Đề tài giới hạn việc nghiên cứu, thu thập, lưu trữ, xử lý tài liệu từ các nguồn :
- Phần mềm Microsoft Encarta Reference Library 2004.
- Mạng thông tin toàn cầu International Network.
Ứng dụng những tính năng và tiện ích của các chương trình trên vào giảng
dạy phần Địa Lí tự nhiên của chương trình thí điểm Địa Lí lớp 10 THPT.
 Đối tượng nghiên cứu :
- Học sinh lớp 10
- Chương trình Địa Lí lớp 10 THPT, phần Địa Lí tự nhiên.
5. Lịch sử nghiên cứu :
Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đang là vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong sự nghiệp phát triển giáo dục. Học sinh cần phải được tiếp cận sâu sát
với nguồn tư liệu có tác dụng phục vụ trực tiếp cho quá trình học tập, khám phá
và lónh hội tri thức của các em.
Nguyên tắc trực quan trong dạy học đã có từ thời Hy Lạp _ La Mã cổ đại
nhưng được phát triển thành quan điểm vào khoảng thế kỷ XVII với quan điểm
giáo dục của Cômenxki. Ông yêu cầu người thầy giáo phải cho học sinh được sử
dụng các giác quan vào việc tri giác tài liệu (nghe, nhìn, ngửi, nếm, sờ mó….).
Đây là quan điểm tiến bộ mang tính duy vật, đối lập với nền giáo dục phong kiến
đương thời.
Qua nhiều thăng trầm của thời đại, đến thế kỷ XXI, phương pháp này vẫn
giữ nguyên giá trị và đã được bổ trợ bằng việc sử dụng máy tính điện tử như một
công cụ để tiến hành dạy học. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây phương
pháp này đã được áp dụng mạnh mẽ có sự kết hợp với các phần mềm máy tính
và phần mềm ứng dụng, mà trước hết phải kể đến là phần mềm Microsoft
Encarta Reference Library và mạng thông tin toàn cầu Internet. Riêng đối với bộ

môn Địa Lí, đây vẫn là một phương pháp dạy học còn vẹn nguyên giá trị và vẫn
luôn chứng tỏ được ưu thế của nó trong quá trình dạy chữ rèn người.

 9 


Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật đã tác động mạnh mẽ tới tất cả các
lónh vực của đời sống kinh tế - xã hội trong đó có giáo dục. Chính sự tác động đó
đã trở thành một nhân tố gián tiếp đặt ra những yêu cầu mới về việc đào tạo
những phẩm chất cho thế hệ trẻ - một lực lượng lao động phục vụ công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - một đội ngũ lao động có năng lực tư
duy, có khả năng sáng tạo, xử lí các nguồn thông tin, nhạy bén trong việc thích
ứng với những biến động nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội và khả năng giải
quyết các vấn đề của cuộc sống hiện đại.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng đã làm cho kiến thức của các
ngành khoa học tăng lên nhanh chóng, trong đó có cả khoa học Địa Lí. Đối tượng
nghiên cứu của khoa học Địa Lí là các vấn đề tự nhiên và kinh tế - xã hội nên
kiến thức của ngành khoa học này được tăng lên hàng ngày, hàng giờ, nếu không
bắt kịp sự biến đổi đó sẽ nhanh chóng bị tụt hậu. Thêm vào đó quá trình bùng nổ
thông tin hiện nay đã làm cho nguồn tri thức Địa Lí ngày càng phong phú, không
còn chỉ giới hạn trong những phương tiện truyền thống như sách, báo, tài liệu
thông thường mà được phổ biến rộng rãi với nhiều phương tiện và công nghệ
hiện đại.
Bối cảnh đó đã tạo những điều kiện vô cùng thuận lợi cho quá trình học tập
của học sinh nhưng cũng đem lại những thách thức mới đối với việc giảng dạy
của giáo viên. Thời gian học bài trên lớp có hạn - làm sao để có thể vừa truyền
đạt được những vấn đề cốt lõi của bài học, vừa cập nhật được những vấn đề mới
của xã hội và nội dung khoa học của bộ môn ? Điều này đòi hỏi một sự thay đổi
về phương pháp trong công tác giảng dạy của người giáo viên. Người giáo viên
lúc này không chỉ có nhiệm vụ truyền đạt tri thức, mà còn phải là người hướng

dẫn cho học sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu để bắt kịp sự phát triển của
xã hội. Tri thức giờ đây không chỉ đơn giản gói gọn trong sách giáo khoa mà còn
cần phải bổ sung, hỗ trợ, hoàn thiện thêm bằng các thông tin bổ trợ bên ngoài.
Vì vậy, việc ứng dụng tin học như một phương tiện giảng dạy và học tập là
một nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục phổ thông hiện nay. Đồng thời đây cũng
là một điều kiện thiết yếu để hiện đại hoá nền giáo dục nói chung và môn Địa Lí
nói riêng cho phù hợp với xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật và của cả Lí
luận dạy học Địa Lí. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nói chung và
trong dạy học bộ môn Địa Lí nói riêng có thể tiến hành ở nhiều phương diện như
nghiên cứu thiết kế, xây dựng giáo án và sách điện tử, đổi mới phương pháp dạy
học, tăng cường các phương tiện, thiết bị dạy học mới v.v... Song trong phạm vi
khóa luận này chúng tôi chỉ đề cập đến vấn đề ứng dụng Internet và phần mềm
 10 


Encarta để thiết kế một hệ thống tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy và học tập
Phần Địa Lí tự nhiên của chương trình thí điểm Địa Lí lớp 10 THPT, ban Khoa
học tự nhiên.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quá trình nắm tri thức của học sinh :
Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan và quy luật của nó vào bộ óc
của con người. Ban đầu, nhận thức chỉ đơn giản là những quan niệm về nguồn
gốc, tổ tiên……Với thời gian, cùng với sự phát triển của xã hội, nhận thức của con
người ngày càng phát triển đa dạng, phong phú và sâu sắc hơn, thể hiện tính
khoa học và khách quan hơn.
Có một câu nói rất nổi tiếng về quá trình nhận thức của con người : “từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng” và “từ tư duy trừu tượng đến chân lý”.

Câu nói đó là của nhà cách mạng vó đại Lênin. Là một người theo quan điểm chủ
nghóa duy vật, Lênin đã khái quát một cách súc tích và sâu sắc quá trình nhận
thức theo con đường đầy biện chứng trên.
Như vậy, theo Lênin, nhận thức của con người trải qua hai giai đoạn. Giai
đoạn thứ nhất là nhận thức cảm tính thông qua hệ thống các giác quan, vì vậy
luôn mang tính chủ quan. Giai đoạn thứ hai là nhận thức lý tính. Trong giai đoạn
này bằng sức mạnh của tư duy trừu tượng con người sẽ rút ra được những khái
niệm, quy luật.
 11 


Quan điểm trên đã khẳng định rằng thực tiễn là điểm xuất phát và là cơ sở
của quá trình nhận thức. Thực tiễn càng sinh động thì tính chính xác trong nhận
thức càng cao. Trong dạy học K.D.Usinxky cũng nói “Việc dạy học không dựa
trên những biểu tượng trừu tượng mà dựa trên những hình ảnh cụ thể do học
sinh trực tiếp tri giác được : những hình ảnh này hoặc do học sinh tri giác ngay
khi học dưới sự hướng dẫn của giáo viên hoặc do các em độc lập quan sát trước
đó. Giáo viên sẽ tìm ở các em những hình ảnh có sẵn mà dạy. Tiến trình dạy
học này đi từ cụ thể đến trừu tượng, từ biểu tượng đến tư tưởng…” (Hà Thế NgữĐặng Vũ Họat, Giáo dục học tập 1, NXBGD,TP. HCM, tr. 154 )
Học thuyết phản xạ của I.P.Pavlốp cũng đề cập trực tiếp đến vấn đề này.
Qua quá trình nghiên cứu Pavlốp đã rút ra kết luận phản xạ của con người là
phản xạ có điều kiện (phản xạ được hình thành trong cuộc sống do tập luyện).
Đồng thời ông đã chứng minh được quá trình nhận thức luôn luôn có hai tín hiệu.
Hai hệ thống tín hiệu này không diễn ra đồng thời mà diễn ra một cách tuần tự cái trước, cái sau và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
- Hệ thống tín hiệu thứ nhất : là lúc tín hiệu truyền đi còn ở dạng cảm tính
do tri giác thông qua hệ thống giác quan. Tín hiệu này có ở người và ở động vật,
là hệ thống cơ sở cho hệ thống thứ hai.
- Hệ thống tín hiệu thứ hai : qua quá trình tư duy mà khái quát hóa các
thông tin nhận được từ tín hiệu thứ nhất. Hệ thống tín hiệu này được truyền đi
dưới dạng lý tính là các khái niệm, quy luật … mang tính chủ quan.

Hệ thống tín hiệu thứ hai (biểu hiện cho khối lượng, chất lượng, độ bền của
tri thức) liên quan chặt chẽ với hệ thống tín hiệu thứ nhất vì hệ thống tín hiệu thứ
nhất sẽ quyết định chất lượng, khối lượng kiến thức.
Trong học tập Địa Lí, để cho hệ thống tín hiệu thứ nhất thêm phong phú, đa
dạng thì phương pháp sử dụng thông tin hỗ trợ và các tài liệu trực quan là rất cần
thiết. Chính điều này góp phần quan trọng làm cho hệ thống tín hiệu tăng thêm
độ chính xác, trung thực và đáng tin cậy hơn.
Từ xa xưa, khoa học tâm lí cũng đã chứng minh được rằng quá trình nhận
thức của con người có trọn vẹn hay không phụ thuộc vào việc sử dụng các giác
quan trong quá trình nhận thức.
Hệ thống các giác quan của con người bao gồm : xúc giác, thị giác, khứu
giác, vị giác, thính giác … có vai trò quan trọng trong nhận thức thế giới khách
quan. Tuy nhiên trong quá trình nhận thức, nếu kết hợp nhiều giác quan cùng
một lúc thì sẽ giảm được sai sót, nhầm lẫn và tăng cường tính chính xác, bền
vững của tri thức. Người ta đã tổng kết mức độ ảnh hưởng của các giác quan
trong quá trình truyền thông nhö sau :
 12 


+ Sự tiếp thu tri thức khi học đạt được :
• 1% qua nếm
• 1,5% qua sờ
• 3,5% qua ngửi
• 11% qua nghe
• 83% qua nhìn
( Theo Tô Xuân Giáp, Phương tiện dạy học, NXBGD, 1997, tr.21 )
+ Hiệu quả ghi nhớ
Cách ghi nhớ
Hiệu quả ghi nhớ
Ghi nhớ bằng thị giác

70%
Ghi nhớ bằng thính giác
60%
Ghi nhớ bằng thính giác - thị giác
86%
( Đào Thị Kim Dung, Luận văn tốt nghiệp NK1998-2002, ĐHSP TP.HCM , tr.14)
Từ những kết quả trên cho ta thấy khả năng thu nhận thông tin bằng thị giác
cao hơn bằng thính giác. Tuy nhiên nếu kết hợp được cả thị giác và thính giác thì
quá trình thu nhận thông tin càng được tăng cường, kết quả nhận thức đạt gần
đến mức tối đa .
Như ta biết, quá trình dạy học là quá trình tác động qua lại giữa thầy và trò,
nói đúng hơn là quá trình thông báo giữa thầy và trò. Việc thông báo diễn ra nhờ
“rãnh chuyển tải” trong não. Thông tin thu nhận được truyền qua các rãnh đó có
công thức tính toán như sau :
C = H/ T= Bit/s
Ngh
C : Năng lực chuyển tải e
H : Lượng thông tin trung bình chuyển đi (Bit)
T : Thời gian cần thiết để truyền đạt (s)
Nhìn
Căn cứ trên tỉ lệ kiến thức nhớ được sau khi học đạt được như sau :
20 % qua những nghe được
30% qua những gì nhìn được
50% qua những gì nghe và nhìn được Nghe + Nhìn
80% qua những gì nói được
90% qua những gì nói và làm được
Nói
(Tô Xuân Giáp, SĐD, 22 )

 13 


Nói + Làm


Như vậy kết quả trên đã cho thấy rõ ràng nên chọn con đường nào để
truyền tải thông tin nhanh nhất, cũng như đã chứng minh được trong một thời
gian nhất định cơ quan nào thực hiện quá trình nhận thức có hiệu quả nhất.
Từ những cơ sở khoa học trên không ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt
quan trọng của thị giác trong dạy học. Nói rộng hơn đó là tầm quan trọng của
phương tiện trực quan trong dạy học nói chung và dạy học Địa Lí nói riêng. Sử
dụng tư liệu trực quan là kích thích các giác quan cùng hoạt động, cùng phản ứng
và thu nhận tín hiệu, thông tin, tri thức. Điều này giúp cho quá trình tư duy thêm
nhanh nhạy, hiệu quả và trung thực, rất có lợi cho việc học tập. Thêm vào đó lại
khơi gợi được ở các em lòng say mê, hứng thú học tập và do dó kết quả đạt được
lại càng cao hơn.
1.2. Xu hướng chung của công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay :
Giáo dục là một hoạt động xã hội. Đó là quá trình thế hệ đi trước truyền lại
cho thế hệ đi sau những kinh nghiệm mà loài người đã tích luỹ được trong quá
trình phát triển, các thế hệ sau lónh hội, kế thừa có chọn lọc những kinh nghiệm
đó để tham gia vào những lónh vực hoạt động khác nhau, tham gia lao động sản
xuất nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và cả chính bản thân mình. Mục tiêu của giáo
dục là giúp cho thế hệ trẻ thích nghi, hoà nhập với cuộc sống, vừa trang bị cho họ
khả năng giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặït ra. Nói khác đi, giáo dục đào
tạo con người theo yêu cầu xã hội.
Là một hiện tượng xã hội, giáo dục chịu ảnh hưởng sâu sắc và bị chi phối,
qui định bởi môi trường kinh tế xã hội, kinh tế xã hội biến đổi thì giáo dục cũng
biến đổi theo.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kó thuật đang phát triển như vũ bão.
Các nhà khoa học đã dự tính, cứ khoảng 7-10 năm, thậm chí 5-7 năm, lượng tri
thức sẽ tăng gấp đôi, sự bùng nổ thông tin trên khắp toàn cầu đã làm xuất hiện

nhanh nhiều tri thức, kó năng và các lónh vực nghiên cứu mới. Theo nhà tương lai
học Alvin Tofflor, nhân loại đã trải qua hai làn sóng và đang bước vào nền văn
 14 


minh của làn sóng thứ ba - nền văn minh siêu công nghiệp với những thành tựu
vô cùng lớn lao và những biến đổi kì diệu trong mọi lónh vực của đời sống. Nền
văn minh đó đòi hỏi con người cần phải có tri thức, sự nhạy bén và năng lực sáng
tạo để có thể nắm bắt, giải quyết các vấn đề mới nảy sinh.
Trước yêu cầu của xã hội, các quan niệm về giáo dục đã có sự thay đổi căn
bản, nó được xem là chiếc đòn bẩy, là “công cụ chủ yếu tạo ra sự phát triển ”,
thúc đẩy khoa học kó thuật và sản xuất tiến lên, góp phần cải thiện đời sống.
Giáo dục chính là “chiếc chìa khoá cuối cùng mở vào xã hội tương lai” - một xã
hội được xây dựng trên nền tảng tri thức.
Quan niệm về giáo dục thay đổi dẫn đến nội dung, phương pháp dạy học
cũng thay đổi theo, UNESCO đã nêu ra 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, đó là
“Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình”, đồng
thời yêu cầu “giáo viên cần triệt để sử dụng các thiết bị và phương pháp giảng
dạy mới nhất” “nhằm làm cho mỗi người trở thành người dạy và kiến tạo nên
sự tiến bộ văn hoá của bản thân mình”. Theo đó, nhiệm vụ của nhà trường là
phải đào tạo những con người có năng lực tự học, tự bồi dưỡng tri thức, người
giáo viên “dạy chữ đồng thời dạy cả kó năng, tri thức, thái độ để con người có
thể thích nghi, sáng tạo cuộc sống”.
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục ở Việt Nam hiện nay chưa bắt kịp được yêu
cầu của thời đại mới. Tại Hội nghị Giám đốc các Sở Giáo dục và Đào tạo toàn
quốc tại Hà Nội tháng 8-1992, Bộ Trưởng Trần Hồng Quân đã kết luận : “Chất
lượng giáo dục còn nhiều điều đáng lo ngại”. Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ
hai của Ban Chấp Hành Trung ương khoá VII, vấn đề này cũng được khẳng định:
“Giáo dục - đào tạo nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập cả về quy mô, cơ cấu,
nhất là về chất lượng và hiệu quả, không đáp ứng kịp thời những đòi hỏi lớn và

ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế xã hội, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghóa”.
Để cải thiện tình trạng trên, Đảng, Nhà nước và Bộ Giáo Dục đã có những
chủ trương “phải xác định lại mục tiêu, thiết kế lại chương trình, kế hoạch, nội
dung phương pháp giáo dục và đào tạo” , “cần khắc phục lối truyền thụ một
chiều”, “sử dụng các phương tiện, phương pháp hiện đại ” “phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học”.
Như vậy, tình hình thế giới và Việt Nam hiện nay đặt ra yêu cầu là phải đổi
mới giáo dục một cách toàn diện (về cả mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng
dạy …) theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh thông qua vieäc

 15 


sử dụng các phương tiện, phương pháp hiện đại, phù hợp với từng bộ môn, trong
đó có môn Địa Lí.
Tuy nhiên, chất lượng dạy và học môn Địa Lí ở nước ta hiện nay vẫn chưa
làm cho xã hội yên tâm. Việc đổi mới một cách toàn diện cả về nội dung,
phương pháp dạy học Địa Lí là một điều hết sức cần thiết.
Trong xu hướng đổi mới giáo dục chung, việc đổi mới dạy và học Địa Lí đã
và đang được bàn tới. Các nhà giáo dục đưa ra nhiều xu hướng tích cực như dạy
học nêu vấn đề, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học theo hướng cho học
sinh tiếp cận với tư liệu v.v… Theo tôi, việc cho học sinh tiếp cận trực tiếp với tư
liệu là một trong những cách dạy tốt, có thể góp phần nâng cao chất lượng bộ
môn.
Đặc trưng của bộ môn Địa Lí là gần gũi với đời sống thực tế nhưng nhiều
khi học sinh lại không thể tiếp xúc, quan sát trực tiếp mà phải tư duy, tưởng
tượng một cách gián tiếp. Để nắm được các sự vật, hiện tượng cụ thể làm nền

tảng cho hoạt động tư duy, học sinh cần phải được tiếp cận với các loại tư liệu
khác nhau. Có thể nói, trong dạy học Địa Lí, việc đưa tư liệu trực quan vào bài
giảng là điều cần thiết và tất yếu. Vấn đề này dù đã được chú ý đến trong sách
giáo khoa chương trình thí điểm lớp 10 (năm học 2003 - 2004) nhưng vẫn còn
nhiều hạn chế chưa được quan tâm đúng mức.
Chương trình mới chú trọng tới việc “đảm bảo tính cụ thể, tính hình ảnh,
khả năng gây xúc cảm của các thông tin” ... bằng cách cho học sinh tiếp cận với
nhiều nguồn tư liệu khác nhau, sử dụng nhiều phương tiện trực quan khác nhau
phù hợp với điều kiện dạy học cụ thể. Đồng thời yêu cầu phương pháp dạy học
của giáo viên phải “phát huy tính tích cực của học sinh, chú trọng rèn luyện kó
năng, bồi dưỡng năng lực tư duy sáng tạo của người học, khả năng vận dụng
những điều đã biết vào các tình huống mới”. Như vậy, chương trình mới đã cố
gắng khắc phục lối truyền thụ một chiều, áp dụng cách dạy “lấy học sinh làm
trung tâm”. Chương trình cũng tính đến đặc trưng bộ môn khi chủ trương cho học
sinh tiếp cận với tư liệu.
Là giáo viên dạy Địa Lí trong tương lai, tôi rất quan tâm đến việc áp dụng
các tư liệu và phương pháp mới vào giảng dạy để góp phần đảm bảo chất lượng
bộ môn. Trên cơ sở nắm được đặc điểm riêng của môn học, thực hiện theo tinh
thần giáo dục mới mà Bộ đề ra, tôi cho rằng : dạy học Địa Lí theo hướng cho học
sinh tiếp cận với tư liệu là một trong những cách dạy tốt, cần được nghiên cứu kó
và đưa vào ứng dụng trong thực tiễn.
1.3. Vai trò của phương tiện trực quan trong dạy học Địa Lí :

 16 


Về sự cần thiết phải đưa vào các tư liệu trực quan vào trong bài giảng cũng
như về ý nghóa, cách sử dụng các loại tư liệu (trong đó có tranh ảnh, băng hình,
âm thanh, bản đồ …) đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan
tâm.

Các nhà giáo dục lớn trên thế giới rất chú ý đến việc phát huy năng lực
nhận thức cho học sinh trên cơ sở tổ chức hoạt động nhận thức cảm tính cho các
em. Các tác giả nổi tiếng như G.Pestalossi, K.D.Usinxky, Comenxky,
Tolinghevona, X.L.Rubinstein … đã nhiều lần bàn về vấn đề này.
Nhìn chung, những tác giả này đều nhấn mạnh ý nghóa của việc nhận thức
cảm tính - tức là việc nhận thức cái cụ thể - đối với quá trình tư duy của học
sinh. J.A. Comenxky khẳng định : “Không có gì trong trí não nếu trước đó
không có gì trong cảm giác”, G.Pestalossi xác nhận : “Tri giác, cảm tính gắn
liền với tư duy”, K.D. Usinxky kết luận “Cảm giác cung cấp tài liệu cho hoạt
động trí tuệ của con người”. Trong việc cụ thể hoá kiến thức, các tác giả thừa
nhận vai trò quan trọng của tư liệu trực quan, đồng thời nhấn mạnh cách sử dụng
tư liệu trực quan, cho đây là yếu tố quyết định hiệu quả giảng dạy.
 I.F. Kharlamop trong tác phẩm “Phát huy tính tích cực trong học tập của
học sinh như thế nào?” đã đánh giá cao tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động
trí tuệ của học sinh, công nhận tác dụng của tư liệu trực quan đối với quá trình
nhận thức của trẻ. Tác giả cũng lưu ý người giáo viên nên tổ chức cho học sinh tự
lónh hội tri thức thông qua các tài liệu học tập.
 A.U.Xôrôkina trong “Giáo dục trí tuệ trong quá trình dạy học ” đã nêu
lên tầm quan trọng của tư liệu, nhất là tư liệu trực quan trong việc phát triển khả
năng tư duy cho trẻ. Tác giả đã trình bày khái quát cách sử dụng tư liệu trực quan
theo hướng : phân tích đồ dùng trực quan, nêu vấn đề cho trẻ tự khám phá.
 M.A.Danilop - M.N.Xcatkin trong tác phẩm “Lý luận dạy học của trường
phổ thông” đã nêu lên những vấn đề cơ bản của lí luận dạy học như : các khâu
của quá trình dạy học, những nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học và vấn đề sử dụng phương tiện kó thuật. Các tác giả nhấn mạnh đến con
đường biện chứng của nhận thức, chủ trương hướng dẫn học sinh, tiếp cận với các
tư liệu mới, giúp các em rút ra kiến thức cần thiết.
Các công trình nghiên cứu trên đã trình bày nhiều vấn đề có tính lý luận và
thực tiễn liên quan đến cách dạy học theo hướng cho học sinh tiếp cận với tư
liệu, đặc biệt là tư liệu trực quan.

 17 


Trong nước, một số nhà nghiên cứu và nhiều tác giả qua các chuyên đề
phương pháp dạy học Địa Lí cũng đã bàn đến cách dạy học này. Nhìn chung, các
tác giả đều đề cao vai trò của nhận thức cảm tính đối với hoạt động tư duy của
học sinh. Trong việc tổ chức giai đoạn nhận thức cảm tính cho trẻ, các tác giả
nhấn mạnh ý nghóa của các loại tư liệu trong đó có tư liệu trực quan. Một số tác
giả đã bàn đến và vạch ra cách thức hướng dẫn học sinh tiếp cận các loại tư liệu
khác nhau. Ta thấy, phần nhiều tác giả dừng lại ở việc hướng dẫn giáo viên sử
dụng tài liệu trực quan. Có thể nói, chúng ta chưa có một công trình nào nghiên
cứu hoàn chỉnh (cả lý thuyết lẫn thực hành) về kiểu dạy học theo hướng cho học
sinh tiếp cận trực tiếp với tư liệu để từ đó đề ra một phương pháp mới, có hiệu
quả, góp phần đảm bảo chất lượng bộ môn. Đó chính là điểm đáng tiếc!
1.4. Đôi nét về quá trình sử dụng máy tính trong dạy học :
Lịch sử phát triển của nhân loại đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghệ
nhằm mục đích phát huy sức mạnh cơ bắp và trí tuệ của con người, phục vụ cho
việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân (cách mạng công nghệ
cơ khí, cách mạng công nghệ điện tử - điều khiển và cách mạng công nghệ tin
học). Trong đó, cuộc cách mạng công nghệ tin học khởi đầu bằng việc phát minh
ra máy tính năm 1946 đã mở ra một kỉ nguyên rực rỡ cho nền văn minh số của xã
hội loài người, khai nguồn cho những trào lưu đặc trưng của thời đại. Hiện nay
chúng ta đang ở trong trào lưu thứ 3 của nền văn minh đó. Máy tính đã trở nên
phổ biến rộng rãi đến đa số các thành phần dân chúng hoạt động trong các lónh
vực khác nhau, và hầu như mọi người đều biết sử dụng máy tính như một công
cụ, phương tiện để thực hiện các công việc của mình đem lại hiệu quả và năng
suất cao hơn nhiều so với trước.
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin nói riêng và khoa học công nghệ nói
chung đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời
sống xã hội. Trong bối cảnh đó, nếu muốn nền giáo dục đào tạo đáp ứng được

đòi hỏi cần thiết của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nếu
muốn việc dạy học tiến kịp bước đi của thời đại, chúng ta nhất thiết phải cải cách
phương pháp dạy học theo hướng vận dụng công nghệ thông tin và các thiết bị
dạy học hiện đại, nhằm phát huy mạnh mẽ kó năng thực hành, tư duy sáng tạo và
hứng thú học tập của học sinh, nâng cao chất lượng đào tạo.
Không nằm ngoài xu thế chung của thời đại, hiện nay giáo dục ngày càng
được hiện đại hoá, áp dụng rộng rãi các thành tựu khoa học kó thuật - công nghệ
thông tin vào giảng dạy, học tập và quản lý.
 18 


Một trong những yếu tố quan trọng của giáo dục đào tạo là rèn luyện khả
năng tư duy sáng tạo cho người học. Công nghệ thông tin với các phương tiện
phong phú đa dạng đã cho phép mở ra các lónh vực, phương pháp nghiên cứu
phân tích mới, hỗ trợ cho quá trình tư duy sáng tạo như khả năng xử lý văn bản,
hình ảnh, âm thanh, truy cập thông tin… Dựa trên các phương tiện truyền thông
đa dạng, đa chức năng, đa phương tiện, cách thể hiện trực quan, các khả năng mô
phỏng, phác họa … ta có thể thiết lập các mô hình dạy học một cách nhanh chóng
và không quá khó khăn, vất vả. Nhờ các phương tiện này, nhà giáo dục có thể
tập trung nhiều hơn vào quá trình tổ chức rèn luyện tư duy cho học sinh, hướng
dẫn hoạt động tích cực qua các phương pháp thu thập, xử lý, phân tích thông tin
trong một môi trường đầy đủ các chất liệu thông tin và nhiều phương pháp hỗ trợ
cho rèn luyện tư duy sáng tạo. Như vậy, công nghệ phần mềm - tư liệu dạy học
sẽ góp phần quan trọng trong việc đổi mới cách dạy, học và tăng cường khả năng
phát triển trí tuệ cho học sinh.
Những thành tựu mới của khoa học công nghệ nửa cuối thế kỉ XX, đầu thế
kỉ XXI đang làm thay đổi hình thức và nội dung các hoạt động kinh tế, văn hoá
và xã hội. Một số quốc gia phát triển đã bắt đầu chuyển dần từ văn minh công
nghiệp sang văn minh thông tin. Song song đó, các quốc gia đang phát triển
(trong đó có Việt Nam chúng ta) cũng đã và đang tích cực áp dụng những tiến bộ

mới của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, để phát triển và
hội nhập.
Nhìn từ phía bản thân và bạn bè xung quanh, ta thấy hiện nay ở nhiều nước
Đông Nam Á việc đưa máy vi tính và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy đã trở thành điều bắt buộc. Không những thế tin học còn được đưa vào ứng
dụng trong các công đoạn khác của quá trình giáo dục. Thực vậy, để nâng cao
chất lượng dạy và học, chính phủ Philippin đã đưa chương trình vi tính hóa vào
trong trường phổ thông. Tại Malaysia, thủ tướng Mahathir cũng đề ra chủ trương
tương tự nhằm tạo điều kiện cho học sinh tiếp cận với công nghệ thông tin, nâng
cao chất lượng giáo dục.

 19 


CHƯƠNG 2

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2 .1. Thực trạng dạy và học Địa Lí hiện nay ở trường THPT:
Qua tìm hiểu những tài liệu nghiên cứu của các nhà giáo dục về việc dạy
học Địa Lí ở trường phổ thông, qua các đợt thực tập sư phạm, tôi đã rút ra được
một số điều liên quan đến việc giảng dạy bộ môn của giáo viên.
Thực tế cho thấy rằng, có nhiều thầy cô bộ môn rất yêu nghề, có tâm huyết,
trình độ chuyên môn vững, luôn tìm cách cải thiện phương pháp, biên soạn thêm
các tài liệu trợ giảng nhằm giúp cho việc dạy và học đạt hiệu quả cao hơn.
Những thầy cô này đã, đang và sẽ tiếp tục góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo
dục nói chung, công tác dạy và học Địa Lí nói riêng ở trường phổ thông.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đa số các thầy cô dạy Địa Lí hiện nay thường
chỉ dừng lại ở kiểu truyền đạt kiến thức có sẵn, học sinh nghe, ghi chép lại bảng
tóm tắt nội dung bài trên bảng và những lời thầy đọc chậm. Ở một số tiết giảng,
câu hỏi phát vấn của giáo viên chưa chú trọng đến khả năng phát triển năng lực

nhận thức cho học sinh - đó là những câu hỏi mà đáp án nằm sẵn ngay trong sách
 20 


giáo khoa, học sinh chỉ cần tìm nhanh và đọc lên. Bên cạnh đó, có thể là do chưa
đánh giá đúng mức vai trò của các kiến thức cụ thể đối với hoạt động nhận thức
của học sinh hoặc là do thời gian quá hạn hẹp nên giáo viên còn xem nhẹ yêu
cầu nắm kiến thức cụ thể, bài giảng trên lớp nhiều khi chỉ là sự tóm tắt sách giáo
khoa. Giáo viên chưa tạo cơ hội cho học sinh được tiếp cận tư liệu để các em có
thể chủ động, sáng tạo trong việc lónh hội kiến thức, chưa sử dụng thêm các tư
liệu trực quan ngoài sách giáo khoa, kể cả tranh ảnh, bản đồ - loại tư liệu rất cần
thiết trong dạy học Địa Lí - cũng ít được dùng.
Chính vì chưa quan tâm đầy đủ đến việc cho học sinh tiếp cận với các sự
kiện cụ thể mà vội vàng đi vào các nhận định, đánh giá trừu tượng khiến cho
môn Địa Lí đôi khi trở nên tẻ nhạt, khó tiếp thu, khó hiểu và sự nhận thức của
học sinh trở nên “khô cứng, chủ quan”.
Cũng có trường hợp, giáo viên sa vào việc cung cấp cho học sinh quá nhiều
sự kiện cụ thể, chi tiết nhưng lại không nâng sự hiểu biết của học sinh lên trình
độ khái quát, lí luận. Cách dạy này có thể làm cho học sinh thích thú ( vì các em
được nghe nhiều, biết thêm nhiều điều mới mẻ và hay ho) nhưng nó lại không
giúp cho học sinh hiểu sâu, hiểu cặn kẽ bài học. Bởi lẽ, “trong dạy học nếu chỉ
cung cấp cho học sinh những sự kiện thì các em chỉ có những nhận thức các hiện
tượng bên ngoài một cách phiến diện, hời hợt.”
Tóm lại, đa số giáo viên phổ thông hiện nay thường dạy theo kiểu truyền
đạt kiến thức có sẵn, một chiều, có khi là sự tóm tắt sách giáo khoa một cách cô
đọng. Phương pháp của giáo viên mắc phải hai hạn chế lớn : hoặc là chỉ cung
cấp các sự kiện cụ thể mà không giúp học sinh nâng lên thành kiến thức khái
quát, lí luận, hoặc là chỉ nêu những nhận định trừu tượng mà thiếu sự kiện cụ thể
để chứng minh. Những hạn chế nói trên làm cho việc nhận thức Địa Lí của học
sinh không được đầy đủ và sâu sắc.

2.2. Nhận định chung về tình hình sử dụng tư liệu trực quan trong dạy
học Địa Lí ở trường phổ thông :
Đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ làm
thay đổi nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học. Công nghệ thông tin là
phương tiện để tiến tới một “xã hội học tập”.
Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo đã,
đang và sẽ đem lại một làn gió mới, góp phần đổi mới phương pháp tổ chức và
truyền đạt tri thức. Khả năng xử lý hypertext, phép tích hợp các văn bản, hình
ảnh động, phương tiện multimedia … góp phần đáng kể vào quá trình chuẩn bị
thực hiện và phân phối thông tin thay thế cho sách giáo khoa. Khả năng trình
 21 


diễn bằng giao tiếp tương tác đa chiều là một thế mạnh quan trọng hỗ trợ cho
quá trình truyền thụ tri thức. Triển vọng mở rộng của mạng máy tính cùng với
các ứng dụng phong phú của nó cho phép xây dựng một hệ thống truy cập thông
tin nhanh chóng - thông qua các phần mềm máy tính để đưa các tri thức, thành
tựu mới của khoa học kó thuật, công nghệ đến người dùng một cách nhanh chóng,
giúp học sinh có thể tiếp xúc đựơc với một khối lượng thông tin, tri thức khổng lồ
trải rộng trên phạm vi toàn cầu.
Ngày nay máy tính có thể thực hiện rất nhiều công đoạn thay thế cho nhà
giáo dục bao gồm từ việc lập kế hoạch, lên giáo án, tổ chức kiểm tra, đánh giá
quá trình dạy v.v… Việc dùng máy tính để lưu trữ, phân tích và giải thích các dữ
liệu là một chức năng quen thuộc và là một trong những ứng dụng đầu tiên của
máy tính trong quá trình dạy học. Máy tính quản lí giáo dục cũng có một công
dụng nổi bật là hỗ trợ hay quản lí hệ thống lớp học, thông qua các bài giảng dựa
trên giáo án điện tử hay bất cứ một hoạt động giáo dục nào dựa trên nền tảng là
áp dụng máy vi tính vào hoạt động trên lớp.
Máy tính được dùng để trợ giúp giáo viên trình bày tài liệu, tổ chức hoạt
động nhận thức và luyện tập của học sinh theo mục tiêu đã định, kiểm tra, mô tả,

giải thích tri thức, minh hoạ trực quan, hoặc cũng có thể được xem như là một
nguồn chính cung cấp kiến thức cho học sinh. Trong trường hợp sau giáo viên
thường chỉ đạo, hướng dẫn học sinh khai thác hiệu quả tài liệu cần thiết từ phần
mềm học tập, từ mạng thông tin hay từ các CD - Rom cơ sở dữ liệu, nêu các yêu
cầu và câu hỏi thảo luận, tổ chức học tập, thảo luận, thuyết trình hoặc nghiên
cứu chuyên đề theo nhóm.
Ở Việt Nam việc sử dụng máy vi tính trong các mặt đời sống nói chung và
giáo dục nói riêng đang ngày càng phổ biến . Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã
yêu cầu “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục và đào tạo ở
tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng công nghệ thông tin
như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học, học
tập ở tất cả các môn học” (trích Chỉ thị số 29/2001/CT- BGD & ĐT ngày
30/7/2001 của Bộ trưởng BGD - ĐT về việc tăng cường giảng dạy, đào tạo và
ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2001 - 2005).
Từ yêu cầu trên, ngành giáo dục đã xây dựng một kế hoạch tổng thể về
công nghệ thông tin giai đoạn 2001 - 2005 với mục tiêu phấn đấu tin học phải
được sử dụng để hỗ trợ cho việc dạy và học các môn học như Ngoại Ngữ, Toán,
Văn, Lý, Hoá, Sử, Địa …Theo đó, phải có từ 5 - 10% giờ giảng bài và học bài các
môn học khác được công cụ tin học hỗ trợ, đưa Internet vào trường phổ thông,

 22 


tập trung đào tạo về ứng dụng công nghệ thông tin cho giáo viên dạy các môn
học, sử dụng các phần mềm giáo dục vào quá trình dạy học, tự học và kiểm tra.
Vậy thực trạng sử dụng máy vi tính giảng dạy tư liệu trực quan ở trường phổ
thông hiện nay như thế nào ?
Trong bài “Bao giờ máy vi tính có vị trí xứng đáng trong giảng dạy?”, tác
giả Lê Đông Phương cho biết hầu hết các trường phổ thông trung học ở thành
phố Hồ Chí Minh đều có máy vi tính để giảng dạy, trung bình khoảng 3/4 số

trường đã có phòng máy vi tính. Nhưng trong thực tế theo số liệu thống kê năm
học 2001 - 2002 tỉ lệ học sinh được học tin học ở trường phổ thông là :
+ Trường PTTH hệ công lập : 17,9%
+ Trường PTTH hệ bán công: 16,6%
+ Tỉ lệ trung bình số học sinh được học tin học là 19,2%
Vận dụng công nghệ thông tin vào trường học đi đôi với việc đầu tư thiết bị
dạy học hiện đại để cải cách phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học ở
trường phổ thông. Điều này đã được thực tế trả lời ở một số trường tại TP.HCM
như trường PTDL Quốc Tế, trường Dân lập Ngôi Sao, trường THPT Nguyễn Thị
Minh Khai, Lê Quý Đôn, Mạc Đónh Chi, Bùi Thị Xuân … Kết quả đã chứng minh
chất lượng đào tạo được nâng cao rõ rệt. Thông qua đó, bài giảng trở nên sinh
động hơn, tạo cho học sinh sự hứng thú và yêu thích môn học, kiểm tra nhanh
chóng kiến thức của học sinh, hỗ trợ đắc lực cho các giờ thực hành.
Tuy nhiên, sau 10 năm đưa tin học vào dạy ở trường phổ thông, tin học đã
được dạy chính thức tại các trường THPT chuyên ban, còn tại các trường khác,
tin học vẫn còn bị coi là một môn nghề tự chọn. Đối với các trường THCS và tiểu
học thì tin học được coi như một môn ngoại khoá. Dù đã có cố gắng rất nhiều
nhưng việc đưa tin học vào nhà trường vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Việc dạy
hiện nay vẫn chủ yếu nặng về lý thuyết, coi nhẹ thực hành vì trang thiết bị, cơ sở
vật chất vẫn còn thiếu thốn.
Do mới chỉ là bước đầu thực hiện phương pháp giảng dạy bằng “giáo án
điện tử”, bằng các tài liệu trực quan - thành quả của cách mạng công nghệ thông
tin nên đôi khi còn có những hạn chế, khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên đây cũng
có thể coi như là một cách thể hiện “bản lónh” của người giáo viên trước khuynh
hướng đổi mới công nghệ dạy học cho phù hợp với xu thế ngày nay là tin học
hoá toàn cầu.
2.3. Nhận định ban đầu về chương trình thí điểm Địa Lí lớp 10 ban
KHTN :
 23 



Như chúng ta đều biết, ở trường phổ thông, sách giáo khoa là một công cụ
thiết yếu, cơ sở để tiến hành hoạt động dạy học của giáo viên, học sinh. Có thể
nói, hình thức trình bày, nội dung kiến thức của sách giáo khoa ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng dạy và học. Vì thế, khi tiếp cận với thực tế dạy học thí điểm
Địa Lí ở trường phổ thông, chúng ta rất cần tìm hiểu về nội dung sách giáo khoa
của chương trình.
Như ta biết, phần Địa Lí tự nhiên đại cương chiếm giữ một vai trò cực kì
quan trọng trong cả tổng thể khoa học Địa Lí lẫn môn Địa Lí được giảng dạy
trong nhà trường. Đây chính là nền tảng, cơ sở để học sinh học tập, tìm hiểu
thêm về Địa Lí tự nhiên khu vực ( cụ thể là các nước, các châu) và Địa Lí kinh tế
xã hội ( cả đại cương lẫn khu vực) ở các cấp lớp tiếp theo.
Những kiến thức về Địa Lí tự nhiên tương đối khó nắm bắt ( thậm chí có
người cho rằng nó rất khô khan và khó hiểu). Thực ra không phải vậy, có thể nếu
chỉ xem xét bề ngoài sẽ thấy phần tự nhiên tương đối khô và khó bởi đa phần nó
bao gồm các mối quan hệ, khái niệm, các quy luật … Nhưng nếu đi sâu và tìm
hiểu sẽ thấy Địa Lí tự nhiên vô cùng hấp dẫn và phong phú, gắn bó chặt chẽ với
đời sống con người.
Nội dung phần Địa Lí tự nhiên chủ yếu đề cập đến các khái niệm, các qui
luật, hiện tượng về tự nhiên. Qua đó, học sinh có thể nắm bắt rõ các hiện tượng
tự nhiên - là các kiến thức có tính quy luật - để từ đó có thể giải thích được các
hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng tự nhiên ấy.
Chính vì vậy, trong chương trình thí điểm này phần Địa Lí tự nhiên đại
cương đã được đưa vào giảng dạy cùng với Địa Lí kinh tế xã hội đại cương, thời
lượng hai phần ngang nhau, chứng tỏ mảng tự nhiên trong Địa Lí ngày càng được
chú trọng. Đây là một điều hoàn toàn mới mẻ vì chương trình Địa Lí lớp 10 cũ
chưa hề có phần này mà chỉ bao gồm toàn bộ là Địa Lí kinh tế xã hội đại cương.
Như vậy, những kiến thức về tự nhiên này sẽ vừa bổ sung cho các kiến thức về
tự nhiên ở các lớp trước (lớp 6,7), vừa làm cơ sở cho việc tiếâp thu các giáo trình
kinh tế xã hội ở các lớp sau (lớp 11, 12)

Tuy nhiên, các kiến thức về tự nhiên thường bao gồm các mối quan hệ cực
kì logic và chặt chẽ với nhau, đôi khi là rất phức tạp, do đó nếu không chú trọng
tăng cường tư liệu cụ thể, trực quan thì khả năng tiếp nhận tri thức, tư duy của
học sinh sẽ bị hạn cheá.

 24 


Chính vì vậy mà người ta đã bổ sung thêm rất nhiều hình ảnh, sơ đồ, lược
đồ … để lôi cuốn sự chú ý của học sinh, tăng thêm hứng thú cho các em khi khai
thác các kênh hình này như một nguồn tri thức riêng. Dù vậy, bên cạnh những ưu
điểm còn có nhiều hạn chế nhất định, làm cho nguồn tư liệu trực quan này vẫn
chưa thể đáp ứng nhu cầu của các em.
Nghiên cứu cụ thể ta thấy, sách giáo khoa thí điểm Địa Lí lớp 10 ban
KHTN gồm tất cả 42 bàøi, chia làm 2 phần. Trong đó Địa Lí tự nhiên đại cương
chiếm 21 bài và phần còn lại - Địa Lí kinh tế xã hội đại cương, cũng 21 bài.
Chương trình này được giảng dạy trong vòng 33 tuần với thời lượng tổng cộng
khoảng 50 tiết cho cả 2 học kì (cả kiểm tra, ôn tập). Phần Địa Lí tự nhiên gồm
có 4 chương, được phân phối như sau:
Chương 1 : Bản đồ (4 tiết)
Phần này thực ra là học về phương pháp sử dụng bản đồ, có thể coi là những
tiết rất quan trọng để củng cố phần kó năng của học sinh. Nội dung chủ yếu là
giới thiệu về các phương pháp chiếu đồ, phương pháp biểu hiện đối tượng Địa Lí
trên bản đồ, mục đích sử dụng bản đồ nói chung… Cuối chương có 1 bài thực
hành đọc một số phương pháp biểu hiện các đối tượng Địa Lí trên bản đồ.
Chương này nhằm mục đích cung cấp, bổ sung, củng cố một số kiến thức cần
thiết về bản đồ, từ đó tạo cơ sở cho học sinh sử dụng các bản đồ, các bài tập về
bản đồ cụ thể trong các bài sau.
Nội dung bài học được minh hoạ cụ thể bằng một số bản đồ nhưng chưa
phong phú và đa dạng về chủng loại, lại không có màu sắc nên chưa thật hấp

dẫn và thu hút đối với học sinh.
Chương 2 nêu khái quát về vũ trụ, hệ quả của vận động tự quay và vận
động quanh Mặt Trời của Trái Đất.
Bài soạn trong sách giáo khoa được minh họa bằng các sơ đồ thể hiện hiện
tượng ngày đêm dài ngắn khác nhau, bốn mùa, múi giờ, các hành tinh trong hệ
Mặt Trời, vũ trụ … Hình ảnh còn đơn điệu và vẫn chưa thật bắt mắt. Nếu bổ sung
thêm một số hình ảnh đa dạng về màu sắc hoặc các đoạn phim ngắn nói về vũ
trụ, vị trí của Trái Đất trong hệ Mặt Trời, vận động của Trái Đất v.v… thì chắc
chắn các bài học sẽ sinh động, thú vị và lôi cuốn hơn rất nhiều.
Chương 3 là chương dài nhất trong phần Địa Lí tự nhiên, chiếm đến 14 tiết
với 13 bài. Nội dung chính nói về cấu tạo Trái Đất, các tác động nội và ngoại lực
đến địa hình bề mặt trái đất, các quyển của Trái Đất (thạch quyển, khí quyển,
thủy quyển, sinh quyển, thổ nhưỡng quyển). Đây là chương cực kì quan trọng,
 25 


×