Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÊN ĐỀ TÀI: Khảo nghiệm một số giống lúa triển vọng ngắn ngày vụ Đông Xuân năm 2011 – 2012 tại Viện khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung Bộ, tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.37 MB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
Khoa Nông học
KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Khảo nghiệm một số giống lúa triển vọng ngắn ngày vụ Đông
Xuân năm 2011 – 2012 tại Viện khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
Bắc Trung Bộ, tỉnh Nghệ An
Sinh viên thực hiện: Huỳnh Thị Tuyết Nhung
Lớp: Khoa học cây trồng 42A
Thời gian thực hiện: 1/2012 – 5/2012
Địa điểm thực hiện: Viện KHKTNN Bắc Trung Bộ
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. Trần Thị Lệ
Bộ môn: Di truyền
NĂM 2012
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn với đề tài: “khảo nghiệm một số giống lúa
triển vọng ngắn ngày vụ Đông Xuân năm 2011 – 2012 tại Viện Khoa
học Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung Bộ, tỉnh Nghệ An”, ngoài nỗ lực
cố gắng hết mình của bản thân tôi còn nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo
tận tình của giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS. Trần Thị Lệ, tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, sự cảm phục đến PGS.TS. Trần Thị Lệ.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Nông
lâm – Đại học Huế, Khoa Nông học đã giảng dạy, giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
Bắc Trung Bộ, Bộ môn Cây lương thực, phòng thí nghiệm, cảm ơn các
anh chị, các bạn đồng nghiệp nơi tôi thực hiện đề tài đã chỉ bảo, giúp
đỡ và tạo điều kiện thuận lợi nhất trong suốt thời gian học tập và hoàn
thành luân văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn luôn


động viên, hỗ trợ tôi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù đã cố gắng hết mình nhưng do năng lực và thời gian còn
hạn chế nên luận văn khó tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận
được sự góp ý, chỉ bảo của các độc giả.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 25 tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Huỳnh Thị Tuyết Nhung
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới qua các năm…
12
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất lúa của 10 nước đứng đầu thế giới năm 2010
15
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất lúa của 10 nước đứng đầu thế giới năm 2011
16
Bảng 2.4. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam…………………………
21
Bảng 2.5. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa tỉnh Nghệ An qua một số
năm 2011-2012………………………………………………………………
25
Bảng 3.1. Danh sách và nguồn gốc các giống lúa tham gia thí nghiệm……
27
Bảng 3.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm……………………………………………
28
Bảng 3.3. Phân bón và cách bón phân cho ruộng các giống lúa thí nghiệm
vụ Đông Xuân năm 2011 – 2012…………………………………………….
30
Bảng 4.1. Diễn biến thời tiết trong vụ Đông Xuân 2011 – 2012…………….
37
Bảng 4.2. Một số chỉ tiêu về cây mạ trước khi nhổ cấy của thí nghiệm……

40
Bảng 4.3. Thời gian trải qua các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các
giống lúa thí nghiệm vụ Đông Xuân 2011-2012…………………………….
43
Bảng 4.4. Một số đặc điểm hình thái của giống lúa thí nghiệm vụ Đông
Xuân 2011-2012…………………………………………………….……….
47
Bảng 4.5. Đặc điểm hình thái của các giống lúa thí nghiệm vụ Đông Xuân
2011-2012……………………………………………………………………
48
Bảng 4.6. Động thái tăng trưởng chiều cao của các giống lúa thí nghiệm vụ
Đông Xuân 2011-2012………………………………………………………
51
Bảng 4.7. Tốc độ tăng trưởng chiều cao của các giống lúa thí nghiệm……
52
Bảng 4.8. Động thái ra lá của các giống lúa thí nghiệm vụ Đông Xuân
2011-2012……………………………………………………………………
54
Bảng 4.9. Động thái tăng trưởng nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ ĐX
20112012……………………………………………………………………
57
Bảng 4.10 Khả năng đẻ nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ Đông Xuân
2011 – 2012…………………………………………………………………
58
Bảng 4.11. yếu tố cấu thành năng suất của các giống thí nghiệm vụ Đông
Xuân 201- 2012………………………………………………………………
61
Bảng 4.12. Khả năng chống đổ và các loại sâu bệnh hại chính (điểm) của
các giống lúa thí nghiệm vụ Đông Xuân 2011-2012………………………
62

Bảng 4.13. Khả năng chống đổ và các loại sâu bệnh hại chính của các giống
lúa thí nghiệm vụ Đông Xuân 2011-2012…………………………………
63
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Động thái tăng trưởng chiều cao của các giống lúa thí nghiệm
……….………….……….……………………………………………………51
Biểu đồ 4.2. Tốc độ tăng trưởng chiều cao của các giống lúa thí nghiệm vụ Đông
Xuân 2011-2012………. ………………………………………………… 52
Biểu đồ 4.3. Động thái ra lá của các giống lúa thí nghiệm vụ Đông Xuân 2011-
2012 ……………………… …………………………… 55
Biểu đồ 4.4. Động thái tăng trưởng nhánh của các giống lúa thí nghiệm vụ Đông
Xuân năm 2011-2012………. … …………………………………………… 57
Biểu đồ 4.5. Số nhánh tối đa và số nhánh hữu hiệu của các giống lúa thí nghiệm
vụ Đông Xuân năm 2011 – 2012 59
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

BĐĐN : Bắt đầu đẻ nhánh
BĐT : Bắt đầu trổ
CHT : Chín hoàn toàn
CMS : Bất dục đực tế bào chất
CV : Hệ số biến động
đ/c : Đối chứng
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
ĐVT : Đơn vị tính
FAOSTAT
: Food and Agriculture Organization of The United nations (Tổ
chức Nông lương Thế giới)
GDP : Thu nhập tính theo bình quân đầu người trên 1 năm
IRRI:
: International Rice Reasearch Institute( viện Nghiên cứu Lúa

gạo Quốc tế)
KTĐ : Kết thúc đẻ
KT-XH : Khoa học – Xã hội
LSD : Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa
N.Thẳng : Nửa thẳng
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
TBKHKT : Tiến bộ Khoa học Kỹ thuật
TG : Thời gian
TGMS : Bất dục đực chức năng di truyền nhân phản ứng với nhiệt độ
TGST : Thời gian sinh trưởng
TGST : Thời gian sinh trưởng
THT : Trổ hoàn toàn
MỤC LỤC
PHẦN 1. MỞ ĐẦU……………………………………………………………. 1
1.1. Đặt vấn đề ……………………………… ……………………………… 1
1.2. Mục tiêu của đề tài ………………………………… ……………………. 2
1.3. Yêu cầu của đề tài…………………………………………… …………… 3
PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU…………………… 3
2.1. Cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn……….……………………… ……… 3
2.1.1. Cơ sở khoa học……………………….……………………… ………… 3
2.1.2. Cơ sở thực tiễn……………………….…………………………………. 5
2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa trên thế giới…….…………………. 7
2.2.1. Tình hình nghiên cứu…………………………….……………………… 7
2.2.2. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới………………………………….… 10
2.3. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa gạo ở Việt Nam……………… …. 16
2.3.1. Tình hình nghiên cứu lúa gạo ở Việt Nam…………………….……… 16
2.3.2. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam……………………………… 18
2.4. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa gạo tại Nghệ An………….………. 22
2.4.1. Tình hình nghiên cứu lúa gạo tại Nghệ An…………………….………. 22

2.4.2. Tình hình sản xuất lúa gạo tại Nghệ An……………………….………. 24
PHẦN 3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU,PHƯƠNG PHÁP VÀ
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU……………………………………………….…
27
3.1. Đối tượng nghiên cứu……………………… …………….……………… 27
3.3. Phương pháp nghiên cứu……………………………….……………… 28
3.3.1. Bố trí thí nghiệm………………………………………… ……………. 28
3.3.2. Quy trình kỹ thuật……………………………………….…… ……… 28
3.3.2.1. Làm đất……………………………………… ……………………… 28
3.3.2.2. Thời vụ, mật độ và kỹ thuật cấy………………………….………… 29
3.3.2.3. Phân bón và cách bón…………………………… ………… 29
3.3.2.4. Chế độ nước…………………………… ……………….…………… 30
3.3.2.5. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh ……… ……………….………… 30
3.3.2.6. Thu hoạch……… ………………………………….……………… 30
3.4. Nội dung nghiên cứu…………………………………… ………………. 30
3.5. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi……………… …….……………. 30
3.5.1. Theo dõi các chỉ tiêu về sinh trưởng và phát triển……… ……… … 30
3.5.1.1. Về thời gian sinh trưởng, phát triển và các chỉ tiêu theo dõi ………… 30
3.5.1.2. Một số chỉ tiêu về sinh trưởng và phát triển………………………… 31
3.5.2. Một số chỉ tiêu về hình thái và một số đặc trưng của giống……………. 32
3.5.3. Một số chỉ tiêu về khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại
cảnh bất lợi………………………………………………………….…………
34
3.5.4. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất…………………………… 36
3.5.5. Một số đặc tính nông học……………………………………… ……….36
3.5.5.1. Độ dài giai đoạn trổ………………………………………… ……… 36
3.5.5.2. Độ thoát cổ bông…………………… ……………………………… 36
3.5.5.3. Độ rụng hạt…………………………… ………………….……… 36
3.5.6. Phương pháp xử lý số liệu…………………………………….………… 36
PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN…………….……. 37

4.1. Diễn biến thời tiết ở Nghệ An vụ Đông Xuân 2011 – 2012………… … 37
4.2. Kết quả khảo nghiệm vụ Đông Xuân 2011 – 2012……………… ……… 39
4.2.1. Khả năng sinh trưởng của cây mạ…………………………… …… … 39
4.2.2. Thời gian sinh trưởng và phát triển của các giống lúa thí nghiệm……….41
4.2.3. Một số đặc điểm hình thái và tính trạng đặc trưng của các giống
lúa thí nghiệm vụ Đông Xuân 2011 – 2012…………………….…………
47
4.2.4. Một số đặc điểm về sinh trưởng phát triển………………………….…. 50
4.2.4.1. Động thái tăng trưởng chiều cao……………………………….……… 50
4.2.4.2. Động thái ra lá……………………….….….……… ……………… 54
4.2.4.3. Khả năng đẻ nhánh……………………………………………… 56
4.2.5. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống lúa thí nghiệm vụ
Đông Xuân 2011 – 2012…………………………… …………………………
60
4.2.6. Khả năng chịu lạnh, chống đổ và sâu, bệnh hại của các giống lúa
thí nghiệm………………………………………… ………………………
63
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ……………………………… 66
5.1. Kết luận 66
5.2. Khuyến nghị…………… ……………………………………………… 66
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một loại ngũ cốc làm lương thực quan trọng
cho khoảng ½ dân số của thế giới, đặc biệt là ở Châu Á, Châu Phi và Nam
Mỹ. Lúa là loài cây lương thực có sản lượng đứng hàng thứ ba trên thế sau ngô
và lúa mì. Tuy nhiên, gạo là lương thực chính cho khoảng một nửa dân số thế
giới trong tất cả các thời kỳ lịch sử. Hiện nay nhu cầu lương thực thế giới vẫn
đang tiếp tục tăng cao với hàng triệu người đang thiếu đói hằng ngày, trong khi
do các tác động của gia tăng dân số, biến đổi khí hậu toàn cầu làm diện tích canh
tác và sản lượng lúa hàng năm giảm. Những nước sử dụng lúa gạo làm lương

thực thì công tác nghiên cứu cải tiến giống lúa được coi là một chiến lược quan
trọng trong nền sản xuất nông nghiệp.
Với những thành tựu trong chọn tạo và đưa lúa lai vào sản xuất lần đầu tiên
tại Trung Quốc đã mở ra một hướng mới cho sản xuất lúa gạo thế giới và công
nghệ này đã được nhanh chóng giới thiệu ra các nước Thái Lan, Việt Nam, Ấn
Độ Tại Việt Nam, công tác nghiên cứu lúa lai đã đạt được những thành tựu
đáng kể với các tổ hợp lúa lai năng suất, chất lượng mang thương hiệu
Việt như VIỆT LAI 20, VIỆT LAI 24, TH3-3, TH3-5, HYT100, HYT103…[37]
được người nông dân ứng dụng vào sản xuất. Song thực tế ngoài sản xuất diên
tích lúa lai chưa được mở rộng do giá giống còn cao, chất lượng giống chưa
được đảm bảo đặc biệt là các giống lúa lai có nguồn gốc từ Trung Quốc, các
giống này thường nhiễm sâu bệnh và không thích nghi với điều kiện khí hậu tại
Việt Nam. Do vậy, các giống lúa thuần vẫn được nông dân ưu tiên lựa chọn đưa
vào sản xuất.
Mặt khác, Cũng như các tỉnh miền Trung khác, hàng năm, Nghệ An chịu
ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, bão lụt. Hậu quả là hàng nghìn ha lúa, khoai,
rau màu bị nước lũ cuốn trôi ngay cận kề ngày thu hoạch. Giống lúa có thời gian
sinh trưởng ngắn, phù hợp với chất đất của đồng ruộng Nghệ An nhằm rút ngắn
thời gian sản xuất trên đồng ruộng, bảo toàn sản lượng và năng suất cho bà con
nông dân.
Sản xuất nông nghiệp cả nước nói chung và Nghệ An nói riêng đang rất cần
có nhiều giống lúa thuần mới ngắn ngày, có năng suất cao, chất lượng tốt, thời
gian sinh trưởng ngắn để đưa vào cơ cấu giống sản xuất trong vụ Xuân muộn, vụ
Hè Thu và vụ mùa sớm nhằm thay thế dần các giống lúa thuần đã gieo cấy quá
lâu, năng suất thấp, chất lượng cơm gạo kém như: KD18; Q5; 13/2… [52].
1
Dù năng suất, chất lượng không cao nhưng KD18 có một ưu điểm rất lớn
mà ít giống nào thay thế nổi là phổ thích nghi cực rộng, đã cấy là gần như chỉ
“rung đùi” chờ gặt hái nên nghiễm nhiên nó được đưa vào cơ cấu giống của rất
nhiều địa phương. Theo thời gian, càng ngày, giống Khang dân 18 ở Việt Nam

càng thoái hóa, những mặt hạn chế càng bộc lộ và việc thay thế nó trở thành một
vấn đề hết sức cấp thiết.
Xuất phát từ thực tiễn đó để giúp nông dân chuyển đổi cơ cấu giống lúa
theo hướng sản xuất hàng hóa. Để đánh giá khả năng ứng dụng của các giống
lúa triển vọng mới ngắn ngày vào sản xuất tại Nghệ An, được sự nhất trí của
khoa Nông học, trường Đại học Nông Lâm Huế, với sự hướng dẫn tận tình của
PGS.TS. Trần Thị Lệ, cùng các cán bộ nghiên cứu tại viện Khoa học Nông
nghiệp Bắc Trung Bộ, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Khảo nghiệm
một số giống lúa triển vọng ngắn ngày vụ Đông Xuân năm 2011-2012 tại
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung Bộ, tỉnh Nghệ An”
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển, của một số giống lúa mới triển
vọng gieo cấy ở vụ Đông Xuân tại Nghệ An.
- Đánh giá khả năng chống chịu sâu, bệnh hại của các giống lúa thí nghiệm.
- Chọn ra được những 1 – 2 giống có khả năng thích ứng, cho năng suất
cao, ổn định gieo trồng tại Nghệ An.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Theo dõi đầy đủ, cẩn thận các chỉ tiêu nghiên cứu như: tốc độ tăng trưởng
lá, chiều cao cây, khả năng đẻ nhánh…
- Số liệu phải chính xác và trung thực
- Xác định được một số đặc điểm sinh trưởng phát triển và khả năng thích
ứng của giống lúa thí nghiệm, đánh giá khả năng chống chịu sâu, bệnh hại của
các giống lúa thí nghiệm, bước đầu đánh giá được tiềm năng về năng suất của
các giống thí nghiệm.
2
PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn
2.1.1. Cơ sở khoa học
Giống cây trồng là khâu quan trọng nhất trong sản xuất trồng trọt. "Tốt
giống, tốt má, tốt mạ, tốt lúa" đó là câu nói mà cha ông ta đã đúc rút để khẳng

định vai trò quan trọng của giống cây trồng. Trong ngành trồng trọt thì giống
cây trồng chính là yếu tố quan trọng trong việc năng cao hiệu quả năng suất,
kinh tế, giảm chi phí sản xuất, góp phần tăng sản lượng và chất lượng cây trồng.
Theo GS.TS. Nguyễn Văn Luật, “giống tốt được coi như một trong những trợ
thủ đắc lực nhất giúp nông dân tăng nhanh hơn hàm lượng chất xám trong nông
sản” [53].
Giống là tiền đề của năng suất và phẩm chất. Nền nông nghiệp hiện đại có
những yêu cầu ngày càng cao đối với giống cây trồng nói chung và giống lúa
nói riêng. Điều kiện tự nhiên rất đa dạng của các vùng sinh thái khác nhau lại có
những yêu cầu cụ thể khác nhau đối với giống. Tuy nhiên, nhìn chung giống lúa
được trồng phải đáp ứng những yêu cầu chính sau:
- Giống lúa phải có khả năng cho năng suất cao và ổn định. Đây là yêu cầu
quan trọng nhất, vì năng suất bao giờ cũng là kết quả tổng hợp của tất cả các quá
trình sinh trưởng và phát triển cũng như mức độ kháng sâu bệnh của cây lúa.
- Giống lúa phải có khả năng chống chịu được các điều kiện ngoại cảnh bất
lợi. Tùy theo điều kiện cụ thể của từng vùng sinh thái mà giống phải có các đặc
tính như chịu hạn, chịu ngập, chịu nóng, chịu lạnh, chịu phèn, chịu mặn, không
đổ ngã v.v… Khả năng chống chịu điều kiện bất lợi của ngoại cảnh giúp cho lúa
có năng suất ổn định. Để đảm bảo được năng suất ổn định ở những vùng và
những mùa vụ thường bị hạn cần tạo ra những giống chịu hạn. Những vùng đất
phèn, mặn, việc cải tạo các loại đất này rất tốn kém và đòi hỏi thời gian dài, vì
vậy sản xuất đòi hỏi các giống chịu phèn, chịu mặn và có năng suất cao hơn
những giống hiện trồng trên vùng đất này. Hiện tượng đổ ngã thường gây ra
những thiệt hại lớn về năng suất, phẩm chất của sản phẩm bị giảm sút, vì vậy
việc tạo giống kháng đổ ngã là một yêu cầu rất quan trọng, nhất là với những
vùng và mùa vụ có mưa to, gió lớn…
- Giống lúa phải có khả năng kháng một số sâu, bệnh chính trong vùng. Sâu
bệnh thường gây ra những thiệt hại lớn đến năng suất, có khi bị mất trắng như
3
trường hợp lúa bị bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Các biện pháp phòng trừ sâu,

bệnh bằng hóa chất thường tốn kém và làm ô nhiễm môi trường, nhưng không
phải bao giờ cũng đạt được những kết quả mong muốn. Việc xử lý bằng thuốc
trừ sâu thường kèm theo những hậu quả tiêu cực đối với những loài côn trùng có
ích, kẻ thù của những côn trùng có hại. Ngoài ra, dùng thuốc hóa học phòng trừ
sâu bệnh không hợp lý sẽ làm mất cân bằng sinh thái, những côn trùng có lợi bị
tiêu diệt và những côn trùng có hại thường tạo ra những khả năng sinh sản ào ạt
trở lại để gây hại cho lúa. Vì những lý do trên, việc đưa vào sản xuất các giống
lúa có khả năng kháng sâu bệnh sẽ khắc phục được những nhược điểm cơ bản
của biện pháp phòng trừ sâu, bệnh bằng hóa chất và mang lại hiệu quả kinh tế to
lớn trong sản xuất nông nghiệp.
- Giống lúa phải thích hợp với điều kiện canh tác trong vùng. Ở những nơi
có mức độ cơ giới hóa cao trong sản xuất nông nghiệp thì các giống lúa phải có
những đặc tính thích hợp với việc canh tác bằng cơ giới hóa, có độ đồng đều
cao, cứng cây, không đổ ngã, ít rụng hạt. Trong điều kiện có đủ phân bón hay có
thể tưới tiêu tự động thì cần những giống có phản ứng tốt với liều lượng phân
bón cao hay với nước tưới, nhưng trong điều kiện thiếu phân, thiếu nước người
ta lại cần những giống ít đòi hỏi phân và chịu hạn…
- Giống lúa phải có phẩm chất tốt, đáp ứng được yêu cầu của thị trường [13].
Giống cây trồng nói chung và giống lúa nói riêng trong sản xuất chưa bao
giờ đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất, hầu hết các nước trên thế giới đều nghiên
cứu giống. Viện nghiên cứu lúa quốc tế International Rice Research Institute
(IRRI) đã có chương trình nghiên cứu lâu dài về lúa, các vấn đề về chọn giống,
tạo giống nhằm đưa ra những giống có đặc trưng chính như: thời gian sinh
trưởng, tính chống bệnh, sâu hại, chất lượng gạo, tính mẫn cảm với quang chu kỳ
thích hợp nhất với những vùng trồng lúa khác nhau.
Mỗi vùng có điều kiện tiểu khí hậu đặc trưng, do đó cần có bộ giống tốt phù
hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của địa phương. Các giống lúa khác
nhau có khả năng thích ứng với điều kiện sinh thái, thổ nhưỡng ở mỗi vùng khác
nhau. Để xác định được giống tốt cho một vùng sản xuất nào đó cần phải tiến
hành khảo nghiệm và khu vực hoá, gieo cấy thử nghiệm qua một vài vụ sản xuất

để đánh giá khả năng thích ứng của giống đó. Do đó việc xác định tính thích nghi
của giống nào đó trước khi đưa ra sản xuất trên diện rộng phải tiến hành bố trí
gieo trồng tại nhiều vùng có đặc điểm sinh thái khác nhau nhằm đánh giá được
khả năng thích ứng, độ đồng đều, tính ổn định, khả năng chống chịu sâu, bệnh,
4
mức độ chịu đất chua mặn, khả năng cho năng suất, hiệu quả kinh tế của giống đó
so với các giống đang gieo trồng đại trà hiện có tại địa phương.
Giống cây trồng nói chung và giống lúa nói riêng trong sản xuất chưa bao
giờ đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất, hầu hết các nước trên thế giới đều nghiên
cứu giống. Viện nghiên cứu lúa quốc tế International Rice Research Institute
(IRRI) đã có chương trình nghiên cứu lâu dài về lúa, các vấn đề về chọn giống,
tạo giống nhằm đưa ra những giống có đặc trưng chính như: thời gian sinh
trưởng, tính chống bệnh, sâu hại, chất lượng gạo, tính mẫn cảm với quang chu kỳ
thích hợp nhất với những vùng trồng lúa khác nhau.
Mặt khác, do nhiều nguyên nhân, trên thực tế có nhiều giống sau một thời
gian canh tác đã bị thoái hóa làm giảm năng suất, phẩm chất. Chọn giống là
ngành khoa học về chọn lọc các giống mới nhằm cải tiến các giống đang tồn tại.
Giống lúa vừa là mục tiêu vừa là một biện pháp kỹ thuật để nâng cao năng suất và
phẩm chất hạt gạo trong sản xuất lương thực cho tiêu dùng nội địa và cho xuất
khẩu hiện nay nói chung và ở Nghệ An nói riêng. Sử dụng giống lúa ngắn ngày,
năng suất cao là một trong những biện pháp kinh tế, kỹ thuật nhằm tận dụng các
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội là bố trí cơ cấu cây trồng cho phù hợp với một
vùng hay một đơn vị sản xuất nông nghiệp.
Ở Nước ta Nông nghiệp là 1 trong 2 ngành sản xuất vật chất quan trọng của
nền kinh tế quốc dân. Ngày nay với sự phát triển của KH&CN, vấn đề giống cây
trồng của nước ta ngày càng được mở rộng và phát triển. Công tác khảo nghiệm
giống cũng đóng vai trò quan trọng, nhằm xác định:
- Tiềm năng, năng suất của các giống mới so với các giống đối chứng là
giống tốt nhất đang hiện hành.
- Khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh bất thuận.

- Khả năng thích nghi với điều kiện sinh thái Nông nghiệp.
- Chất lượng của giống và phản ứng của giống với từng điều kiện.
Vì vậy công tác khảo nghiệm và bình tuyển giống là công việc thường xuyên
phải làm của các cơ sở. Để giúp chúng ta xác định được tiềm năng cho năng suất
của các giống và mức độ phản ứng của giống trong phạm vi rộng hay hẹp.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Để tồn tại và phát triển, con người cần phải có lương thực, thực phẩm để
tiêu dùng, trong đó nhu cầu tiêu thụ lương thực là cơ bản nhất. Dân số thế giới
trung bình tăng thêm 1 tỷ người sau 14 năm trong khi đất canh tác ngày càng
5
giảm và sự gia tăng năng suất cây trồng thấp. Diện tích cây trồng trên đầu
người: 0,45ha/năm (1966); 0,25 ha/ năm 1998, và dự đoán còn 0,15 ha vào năm
2050. Mức độ gia tăng năng suất thấp: tăng 2,1%/ năm trong thập niên 1980, và
1,0% trong thập niên 1990. Thách thức đặt ra cho nhân loại là diện tích nông
nghiệp giảm (1,5 tỷ ha) vào năm 2050, nước tưới cho nông nghiệp giảm, nhưng
phải tăng sản lượng lương thực gấp đôi [51]. Đây là một thách thức lớn đối với
vấn đề an ninh lương thực toàn cầu.
Ở Việt Nam, dân số nước ta hiện nay là 86,4 triệu người, với tốc độ tăng gần
đây 1 triệu người/năm, so với năm 2001, diện tích gieo trồng lúa giảm trung bình
58.700 ha/năm, diện tích canh tác lúa giảm 325.000 ha [cục trồng trọt 2008]. Sự
thay đổi khí hậu sẽ còn diễn biến vô cùng phức tạp cho sản xuất lúa gạo trong
tương lai gần. Công nghệ sinh học trong nông nghiệp sẽ phải đáp ứng được mục
tiêu giảm nghèo và an toàn lương thực. Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khoảng
130 triệu người vào năm 2035 phải cần tới 36 triệu tấn thóc. Để đạt được sản lượng
này cần phải duy trì tối thiểu 3 triệu ha đất chuyên lúa 2 vụ để có 6 triệu ha gieo
trồng. Tổng cục Thống kê cũng dự báo, đến năm 2024, dân số nước ta sẽ vượt
ngưỡng 100 triệu người, trong khi đó Ngân hàng Thế giới lại dự báo, đến năm
2030, tổng sản lượng lương thực của Việt Nam sẽ giảm khoảng 5 triệu tấn. Nguyên
nhân giảm năng suất lúa chủ yếu là do sâu bệnh phá hoại mùa màng, kỹ thuật chăm
sóc cây trồng chưa được tốt [53].

Với 70% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, 57% lực lượng lao động xã
hội làm việc trong ngành nông nghiệp [55], đất trồng lúa đang là một vấn đề hết
sức cấp thiết, nhất là trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cần phải cố gắng giữ
được 3,2 triệu hécta diện tích lúa nước. Ngoài ra tăng cường khoa học kỹ thuật vào
sản xuất để tăng năng suất, đáp ứng đủ nhu cầu lương thực trong nước và một phần
cho xuất khẩu. Bên cạnh đó sự biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ còn diễn biến vô cùng
phức tạp, gây bất lợi cho sản xuất lúa trong tương lai gần thì càng cần đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống, từng bước cải thiện chất lượng bữa
ăn, chuyển nhu cầu từ “ăn no” sang “ăn ngon”. Do vậy vấn đề đặt ra cho các nhà
quản lý và khoa học nông nghiệp là làm thế nào để đáp ứng được mục tiêu giảm
nghèo và an toàn lương thực.
Tỉnh Nghệ An nằm trong vùng Bắc Trung Bộ của Tổ quốc, dân cư chủ yếu
sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, khí hậu thời tiết gió mùa và vị trí địa lý thuận
lợi cho phép Nghệ An có thể sản xuất lượng gạo hàng hoá lớn đáp ứng không
những cho nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh. Hiện nay, Nghệ An có khoảng 104.000
ha đất trồng lúa, diện tích gieo cấy hàng năm cả 3 vụ khoảng 185.000 ha, trong
6
đó có 170.000 ha lúa nước và 15.500 ha lúa rẫy, diện tích được tưới nước chủ
động hàng năm khoảng 165.000 ha. Một số năm gần đây (2006-2011), năng suất
lúa của tỉnh luôn đạt ổn định từ 59,55-62,82 tạ/ha (vụ xuân), 36,38-42,30 tạ/ha
(vụ mùa); tổng sản lượng bình quân đạt 900.000 tấn thóc/năm [51]. Theo đó,
nếu cân đối lương thực (gạo) trên địa bàn nội tỉnh thì không những tự túc đủ mà
còn có lương thực làm hàng hóa.
Tuy nhiên, cũng như các vùng sản xuất lúa trên cả nước, do quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì diện tích lúa ngày càng thu hẹp, việc sản xuất, cung ứng
giống còn bất cập, cơ cấu bố trí tùy tiện [52]. Ngành giống phải tiếp tục đẩy nhanh
công tác khảo nghiệm để luôn có giống ưu thế hơn, việc đổi mới giống là con
đường tất yếu. Nhiệm vụ của công tác giống cây trồng là phải làm thế nào
trong thời gian ngắn nhất tạo ra được những giống cây trồng mới có
năng suất cao, phẩm chất tốt ổn định, khả năng chống chịu tốt với điều kiện

bất thuận, đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp và của nền kinh tế
quốc dân, vì thế việc tiến hành thí nghiệm các giống lúa mới, ngắn ngày đưa ra
sản xuất để bổ sung vào cơ cấu giống của tỉnh là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu trong sản xuất nông nghiệp.
2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa trên thế giới
2.2.1. Tình hình nghiên cứu
Lúa gạo là cây lương thực quan trọng đứng hàng thứ hai của thế giới sau
lúa mì, nhưng lại là lương thực chủ yếu của các nước châu Á [45]. Để phát triển
sản xuất lúa trong khi diện tích sản xuất có hạn phải tập trung thâm canh trên cơ
sở ứng dụng những biện pháp khoa học công nghệ mới để tăng năng suất trên
đơn vị diện tích.
Cùng với sự phát triển của loài người, nghề trồng lúa được hình thành và
phát triển. Trình độ thâm canh cây lúa cũng ngày một nâng cao. Các giống lúa địa
phương không ưa thâm canh, khả năng chống chịu sâu bệnh kém, năng suất thấp
dần được thay thế bằng các giống lúa mới chịu thâm canh, chống chịu sâu bệnh
tốt và thích hợp với điều kiện sinh thái tại địa phương.
Vào đầu những năm 1960, Viện nghiên cứu lúa gạo Quốc tế International
Rice Research Institute (IRRI) đã được thành lập ở Philippin. Viện này đã tập
trung vào lĩnh vực nghiên cứu lai tạo và đưa ra sản xuất nhiều giống lúa các loại,
tiêu biểu như các dòng IR, Jasmin. Đặc biệt vào thập niên 80 giống IR8 được
trồng phổ biến ở Việt Nam đã đưa năng suất lúa tăng cao đáng kể. Cuộc “cách
mạng xanh” từ giữa thập niên 60 đã có ảnh hưởng tích cực đến sản lượng lúa của
châu Á. Nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được tạo ra để nâng cao năng suất và sản lượng
lúa gạo. Các nhà nghiên cứu của viện lúa Quốc tế (IRRI) đã nhận thức rằng các
7
giống lúa mới thấp cây, lá đứng, tiềm năng năng suất cao cũng chỉ có thể giải
quyết vấn đề lương thực trong phạm vi hạn chế. Hiện nay Viện IRRI đang tập
trung vào nghiên cứu chọn tạo ra các giống lúa cao sản (siêu lúa) có thể đạt 13
tấn/ha/vụ, đồng thời phát huy kết quả chọn tạo 2 giống là IR64 và Jasmin là giống
có phẩm chất gạo tốt, được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới. Trên cơ sở

một số giống lúa chất lượng cao Viện IRRI đang tập trung vào nghiên cứu, chọn
tạo các giống lúa có hàm lượng vitamin và protein cao, có mùi thơm, cơm dẻo )
vừa để giải quyết vấn đề an ninh lương thực, vừa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi
ngày càng cao của người tiêu dùng. Nhiều nước ở châu Á có diện tích trồng lúa
lớn, có kỹ thuật thâm canh tiên tiến và có kinh nghiệm dân gian phong phú. Có
đến hơn 90,3% tức 651 triệu tấn (hay 435 triệu tấn gạo) trong tổng sản lượng lúa
gạo toàn cầu năm 2011, sản lượng lúa gạo trên thế giới phụ thuộc vào các nước
châu Á, chủ yếu tập trung ở 8 nước, là: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia,
Bangladesh, Thái Lan, Việt Nam Myanmar và Nhật Bản (bảng 2.2, bảng 2.3.).
Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới (trên 1,3 tỷ người) là một
nước thiếu đói lương thực trầm trọng trong thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, vì
vậy công tác nghiên cứu, lai tạo, chọn lọc và ứng dụng các TBKHKT, nhất là
giống lúa mới vào sản xuất được đặc biệt chú trọng. Trong lịch sử phát triển lúa
lai trên thế giới, Trung Quốc là nước đầu tiên sử dụng thành công ưu thế lai của
lúa vào sản xuất. Năm 1960 khi theo dõi thí nghiệm của mình, cha đẻ của lúa lai
Yuan Longping phát hiện một cây lúa lạ khoẻ, bông to, hạt nhiều. Nhưng ông đã
thất vọng vì chưa tìm ra phương pháp sử dụng ưu thế lai. Sau đó ông bắt đầu tìm
dòng bất dục đực. Con đường tạo giống ưu thế lai theo phương pháp “3 dòng”
được hé mở từ đây. Năm 1964, Viên Long Bình phát hiện cây có tính bất dục đực
nhưng không giữ được tính bất dục đó bởi không có dòng duy trì mẹ. Tháng
11/1970 Lý Tất Hồ cộng tác với Yuan Longping thu được cây bất dục đực trong
loài lúa dại ở đảo Hải Nam. Đây là thành công có tính quyết định đến việc tạo ra
các tổ hợp lai 3 dòng và 2 dòng sau này. Vào năm 1974, Các nhà khoa học Trung
Quốc đã cho ra đời những tổ hợp lai có ưu thế lai cao, đồng thời quy trình kỹ
thuật sản xuất hạt lai hệ “3 dòng” được hoàn thiện và đưa vào sản xuất năm 1975,
đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở Trung Quốc
nói riêng và trên toàn thế giới nói chung [1]. Giai đoạn 2007-2015, Trung Quốc
tiếp tục chương trình siêu lúa lai với mục tiêu đạt năng suất 13,5 tấn/ha trên diện
rộng, trên diện hẹp tạo ra giống lai dự kiến có năng suất 15-20 tấn/ha/vụ [46].Về
chiến lược phát triển lúa lai của Trung Quốc trong thế kỷ 21 là phát triển lúa lai

hai dòng và đẩy mạnh nghiên cứu lúa lai một dòng, lúa lai siêu cao sản nhằm
nâng cao năng suất, sản lượng lúa gạo của đất nước. Lúa lai ra đời đã giúp nền
sản xuất lúa Trung Quốc phá được hiện tượng “đội trần” của năng suất lúa lúc
8
bấy giờ và lúa lai được coi là thành tựu sinh học của loài người, được xem là
“Chàng hiệp sĩ khổng lồ đứng lên tiêu diệt giặc đói đang đe dọa hành tinh chúng
ta” [14]. Có thể nói rằng Trung Quốc là nước đi tiên phong trong lĩnh vực nghiên
cứu ứng dụng lúa lai đưa lúa lai vào sản xuất đại trà. Nhờ đó đã làm tăng năng
suất và sản lượng lúa gạo của Trung Quốc, góp phần đảm bảo an ninh lương thực
cho một nước đông dân nhất thế giới (1,3 tỷ dân). Các giống lúa lai của Trung
Quốc được tạo ra trong thời gian gần đây đều có tính ưu việt hơn hẳn về năng
suất, chất lượng và khả năng chống chịu sâu, bệnh. Các giống lúa lai như: Bồi
Tạp Sơn Thanh, Nhị ưu 838, San Ưu Quế, Bắc Thơm, CV1, D.Ưu 527 [46].
Ngày nay, Trung Quốc là nước phát triển lúa lai nhất thế giới. Đến năm 2010,
diện tích lúa lai Trung Quốc lên 20 triệu ha, chiếm 70% diện tích canh tác lúa,
đến năm 2005 đã đưa ra 210 giống lúa lai, đã góp phần đưa năng suất lúa của
Trung Quốc từ 4,32 tấn/ha của năm 1979 lên 6,58 tấn/ha năm 2009, trong khi
năng suất lúa trung bình của thế giới chỉ có 3,74 tấn/ha [46], đã hình thành hệ
thống nghiên cứu lúa lai đến tận các tỉnh, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu và
kỹ thuật viên đồng thời xây dựng hệ thống sản xuất, kiểm tra, kiểm nghiệm, khảo
nghiệm và chỉ đạo thâm canh lúa lai thương phẩm.
Ấn Độ là một nước có diện tích trồng lúa đứng đầu thế giới đồng thời Ấn Độ
cũng là nước đi đầu trong cuộc “cách mạng xanh” về đưa các TBKHKT nhất là
giống mới vào sản xuất, làm nâng cao năng suất và sản lượng lúa gạo của Ấn Độ.
Viện nghiên cứu giống lúa trung ương của Ấn Độ được thành lập vào năm 1946
tại Cuttuck bang Orisa là nơi tập trung nghiên cứu, lai tạo các giống lúa mới phục
vụ sản xuất. Bên cạnh đó Ấn Độ cũng là nước có giống lúa chất lượng cao nổi
tiếng trên thế giới như giống lúa: Basmati, Brimphun có giá trị rất cao trên thị
trường tiêu thụ. Ấn Độ cũng là nước nghiên cứu lúa lai khá sớm và đã đạt được
một số thành công nhất định, một số tổ hợp lai được sử dụng rộng rãi như:

IR58025A/IR9716, IR62829A/IR46, PMS8A/IR46, ORI 161, ORI 136, 2RI 158,
3RI 160, 3RI086, PA- 103 [46].
Nhật Bản và Hàn Quốc là nơi có diện tích trồng lúa ít nhưng năng suất bình
quân cao. Nhật Bản có 2 triệu ha, Hàn Quốc có 1,2 triệu ha, năng suất bình quân
đạt 60 tạ/ha [76]. Tuy có diện tích không lớn song sản lượng năm 2005 đạt trên
11,4 triệu tấn. Có được kết quả đó là do người Nhật chỉ trồng lúa 1 vụ/năm, cây
lúa được gieo trồng trong điều kiện thời tiết thuận lợi nhất, công tác giống lúa của
Nhật cũng được đặc biệt chú trọng về giống chất lượng cao vì người Nhật giàu có,
nên nhu cầu đòi hỏi lúa gạo chất lượng cao. Để đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng,
Nhật Bản đã tập trung vào công tác nghiên cứu giống lúa ở các Viện. Các nhà
khoa học Nhật Bản đã lai tạo và đưa vào sản xuất các giống lúa vừa có năng suất
cao, chất lượng tốt như Koshihikari, Sasanisiki, Koenshu [43] đặc biệt ở Nhật
9
đã lai tạo được 2 giống lúa có mùi thơm đặc biệt, chất lượng gạo ngon và năng
suất cao như giống: Miyazaki1 và Miyazaki2. Cho đến giờ các giống này vẫn giữ
được vị trí hàng đầu về 2 chỉ tiêu quan trọng đó là hàm lượng protein cao tới 13%,
hàm lượng lysin cũng rất cao.
Thái Lan là nước xuất khẩu lúa gạo đứng đầu thế giới. Với những ưu đãi của
thiên nhiên Thái Lan có vùng châu thổ trồng lúa phì nhiêu, mặc dù năng suất và
sản lượng lúa gạo của Thái Lan không cao song họ chú trọng đến việc chọn tạo
giống có chất lượng gạo cao. Các trung tâm nghiên cứu lúa của Thái Lan được
thành lập ở nhiều tỉnh và các khu vực. Các trung tâm này có nhiệm vụ tiến hành
chọn lọc, phục tráng, lai tạo, nhân giống phục vụ cho nhu cầu sản xuất của người
dân với mục tiêu phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Các đặc điểm nổi bật
của các giống lúa mà các nhà khoa học tập trung nghiên cứu và lai tạo đó là hạt
gạo dài và trong, ít dập gãy khi xay sát, có hương thơm, coi trọng chất lượng hơn
là năng suất, điều này cho chúng ta thấy rằng giá lúa gạo xuất khẩu của Thái Lan
bao giờ cũng cao hơn của Việt Nam. Một số giống lúa chất lượng cao nổi tiếng
thế giới của Thái Lan là: Khaodomali, Jasmin (Hương nhài) [43]. Sản xuất nông
nghiệp của Thái Lan trong mấy thập kỷ qua phát triển tương đối ổn định và Thái

Lan cũng như nhiều nước Đông Nam Á khác trong buổi đầu phát triển kinh tế Tư
Bản chủ nghĩa, đều xuất phát từ thế mạnh nông nghiệp.
Indonesia là nước có diện tích trồng lúa khá lớn trong tốp 10 nước đứng đầu
thế giới (bảng 2.2, bảng 2.3). Đây cũng là nước có nhiều giống lúa chất lượng cao
cơm dẻo, có mùi thơm, hầu hết các giống ở Indonesia có nguồn gốc bản địa hoặc
được lai tạo ở các cơ sở nghiên cứu. Trong thời gian gần đây Indonesia nhận định
có khả năng đối mặt với khủng hoảng lương thực trong mười năm tới nên đã khởi
động chương trình “ hồi sinh ngành nông nghiệp”.
Ngoài châu Á, thì ở Mỹ, trong thời gian gần đây các nhà khoa học không chỉ
quan tâm đến việc chọn lọc, lai tạo và đưa ra những giống lúa có năng suất cao,
ưa thâm canh và ổn định, mà còn nghiên cứu tỷ lệ protein trong gạo, phù hợp với
thị trường hiện nay [46].
Ngoài ra, trên thế giới còn rất nhiều nhà khoa học đã và đang nghiên cứu các
giống lúa nhằm mục đích đưa ra những giống lúa có năng suất cao, phẩm chất tốt,
có khả năng chống chịu với điều kiện ngoại cảnh, thâm canh.
2.2.2. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới
Lúa gạo là cây lương thực quan trọng hơn cả do nó thích ứng với nhiều điều
kiện khí hậu và sinh thái rất khác nhau: nhiệt đới, ôn đới, vùng cao, khô, vùng
thấp có nước. Diện tích trồng lúa trên thế giới khoảng 140 triệu ha, tập trung chủ
yếu ở châu Á (90% diện tích), năng suất trung bình 25 tạ/ha một vụ với sản lượng
tổng cộng khoảng 344 triệu tấn [43]. Vì vậy lúa gạo là cây lương thực quan trọng
10
nhất đối với hàng tỷ người châu Á. Trong điều kiện nhiệt đới có tưới, lúa có thể
trồng 2- 3 vụ một năm với năng suất tương đối cao và khá ổn định để đáp ứng nhu
cầu lương thực ngày càng tăng của nhân loại. Các nhà khoa học dự báo rằng, ở
một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Philippin, Bangladesh, Srilanka
nhu cầu tiêu dùng gạo sẽ tăng nhanh hơn khả năng sản xuất lúa gạo ở các nước
này [46]. Vì vậy, sản xuất lúa gạo trong vùng phải tăng lên gấp bội để đáp ứng
nhu cầu lương thực. Điều quan trọng là để đảm bảo an ninh lương thực và nhu
cầu tiêu dùng của người dân thì phải tăng cường sản xuất lúa gạo, nâng cao năng

suất và chất lượng. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về lương thực, sản xuất lúa
gạo trong vài thập kỷ gần đây đã có mức tăng trưởng đáng kể, nhưng phân bố
không đều do các trở ngại về tiếp cận lương thực, thu nhập quốc gia và thu nhập
của hộ gia đình không đủ để mua lương thực, sự bất ổn giữa cung cầu, thiệt hại do
thiên tai mang lại là những nhân tố khiến cho vấn đề lương thực trở nên cấp thiết
hơn lúc nào hết. Tuy tổng sản lượng lúa không ngừng được gia tăng, năm sau cao
hơn năm trước nhưng dân số tăng nhanh hơn, nhất là ở các nước đang phát triển,
nên lương thực vẫn là vấn đề cấp bách phải quan tâm trong những năm trước mắt
cũng như lâu dài.
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất và sản lượng lúa trên thế giới qua các năm
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
1965 124,98 2,03 254,08
1980 144,67 2,74 396,87
1999 156,8 3,89 610,95
1995 149,59 3,66 547,43
2000 153,94 3,89 598,40
2005 152,90 4,12 629,30
2006 155,30 4,12 641,08
2007 155,05 4,23 656,50
2008 157,73 4,36 689,14
2009 158,30 4,32 685,24
2010 155,1 4,42 561,74
11
2011 164,6 4,38 721

(Nguồn: FAOSTAT |© FAO Statistics Division 2012|18 April 2012)[42]
Nhận xét:
Về diện tích: Diện tích trồng lúa trên thế giới đã gia tăng rõ rệt từ năm 1965
đến 1980. Trong vòng 25 năm này, diện tích trồng lúa trên thế giới tăng bình quân
1,36 triệu ha/năm. Từ năm 1980, diện tích lúa tăng chậm và đạt cao nhất vào năm
1999 (156,8 triệu ha) với tốc độ tăng trưởng bình quân 630.000 ha/năm.
Từ năm 2000 trở đi diện tích trồng lúa thế giới có nhiều biến động và có xu
hướng giảm dần, đến năm 2005 còn ở mức 152,9 triệu ha. Diện tích canh tác lúa
trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây có xu hướng tăng. Song tăng mạnh nhất vào
thập niên 70, 90 của thế kỷ 20 và có xu hướng ổn định từ những năm đầu của thế
kỷ 21. Các nước có diện tích lúa lớn nhất theo thứ tự phải kể là Ấn Độ, Trung
Quốc, Indonesia, Bangladesh, Thái Lan và Việt Nam đứng hàng thứ 6 sau Thái
Lan. Diện tích trồng lúa tập trung ở Châu Á chiếm khoảng 90% (bảng 2.2, bảng
2.3.).
Về sản lượng: Sản lượng lúa thế giới đều tăng dần qua các năm, tuy nhiên
năm 2010 sản lượng có giảm nhẹ ở mức 561,74 triệu tấn là do năm khí hậu có
nhiều biến đổi thất thường nên sản xuất lúa gạo chịu rất nhiều ảnh hưởng như: mưa
bão, lụt lội, hạn hán tại một số nước trong khu vực châu Á.
Về năng suất: Năng suất lúa bình quân trên thế giới tăng nhanh khoảng 1,3
tấn/ha trong vòng 30 năm từ 1965 đến 1985, đặt biệt là từ sau cuộc cách mạng xanh
của thế giới vào những năm 1965 – 1970. Đến thập niên 90 và những năm đầu của
thế kỷ 21 năng suất lúa tăng chậm lại song nhìn chung năng suất tăng gần gấp đôi
từ 23,38 tạ/ha năm 1970 lên 41,2 tạ/ha năm 2005. Điều này cho thấy “cuộc cách
mạng xanh” từ giữa thập niên 60 đã ảnh hưởng tích cực đến sản lượng lúa của thế
giới nói chung và của châu Á nói riêng, những tiến bộ kỹ thuật mới nhất là giống
mới, kỹ thuật thâm canh tiên tiến được áp dụng rộng rãi trong sản xuất đã góp phần
làm cho sản lượng lúa tăng lên đáng kể.
Hiện nay trên thế giới có trên một trăm nước trồng lúa ở hầu hết các châu lục
với tổng diện tích thu hoạch là 153,8 triệu ha thì sản xuất lúa gạo tập trung chủ yếu
ở các nước châu Á nơi chiếm tới 90% diện tích gieo trồng và sản lượng. Trong đó

Ấn Độ là nước có diện tích lúa lớn nhất (42,5 triệu ha), tiếp đến là Trung Quốc
(trên 29,4 triệu ha). Châu Á gồm 8 nước có sản lượng cao nhất đó là Trung Quốc,
Ấn Độ, Indonesia, Bangladesh, Thái Lan, Việt Nam, Mianma và Nhật Bản. Hiện
12
nay châu Á có diện tích lúa cao nhất với 133,2 triệu ha, sản lượng 477,3 triệu tấn
[43].
Nước có diện tích lúa lớn nhất là Ấn Độ với diện tích 44,79 triệu ha, sản
lượng lúa của Ấn Độ là 124,4 triệu tấn, chiếm 21% tổng sản lượng của thế giới
[52]. Ấn Độ cũng là nước khá thành công trong lĩnh vực chọn lọc các giống lúa lai,
trong đó một số giống có chất lượng gạo thương phẩm cao, hạt gạo dài, trong, có
mùi thơm.
Trung Quốc là một nước có dân số đông nhất thế giới (trên 1,3 tỷ người),
trong vài thập niên gần đây Trung Quốc có nhiều thành tựu trong cải tiến giống lúa
trong đó đặc biệt quan tâm đến sử dụng ưu thế lai ở lúa do đó năng suất bình quân
đạt 63,47 tạ/ha, sản lượng đạt 186,73 triệu tấn (cao nhất thế giới) [46]. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây diện tích canh tác lúa của Trung Quốc giảm do quá trình
công nghiệp hoá, đô thị hoá tăng nhanh bên cạnh đó nguồn nước ngọt không đủ và
phân bố không đều còn là trở ngại lớn trong việc nâng cao năng suất và sản lượng
lúa của Trung Quốc. Để bình ổn thị trường lương thực trong năm 2007 vừa qua
Trung Quốc cho biết, sản lượng ngũ cốc nước này năm nay sẽ vượt mức 500 triệu
tấn và là năm thứ tư liên tiếp sản lượng ngũ cốc tăng [46].
Thái Lan là nước có đất đai màu mỡ, diện tích canh tác lớn (chiếm khoảng
40% diện tích tự nhiên), điều kiện thời tiết thuận lợi, mưa thuận gió hoà thích
hợp cho phát triển cây lúa nước. Vì vậy cây lúa là cây trồng chính trong sản xuất
nông nghiệp của Thái Lan với diện tích 9,8 triệu ha, năng suất bình quân 27,8
tạ/ha, sản lượng 28 triệu tấn (năm 2000) [46] và là nước xuất khẩu gạo đứng
đầu thế giới, chiếm hơn 30% thị phần của thị trường thế giới.
Ở Mỹ, các nhà khoa học không chỉ quan tâm đến việc chọn lọc, lai tạo và đưa
ra những giống lúa có năng suất cao, ưa thâm canh và ổn định, mà còn nghiên cứu
tăng tỷ lệ protein trong gạo, phù hợp với nhu cầu thị trường hiện nay [43].

Gạo quan trọng đối với dinh dưỡng của nhiều dân tộc ở châu Á, cũng
như ở Châu Mỹ Latinh, vùng Caribê và Châu Phi [46]. Gạo là trung tâm an
ninh lương thực của hơn một nửa dân số thế giới. Các nước đang phát triển
chiếm 95% tổng sản lượng, với Trung Quốc và Ấn Độ đã sản xuất gần một
nửa sản lượng gạo thế giới.
Sản lượng lúa thế giới đã tăng lên đều đặn từ khoảng 200 triệu tấn lúa
vào năm 1960 lên trên 696 triệu tấn trong năm 2010, đạt mức kỷ lục mới
trong lịch sử thế giới sản xuất [46].
13
Trong năm 2010 lúa được trồng ở hơn 100 quốc gia, với tổng diện tích
thu hoạch khoảng 158 triệu ha, sản lượng xấp xỉ 700 triệu tấn lúa, tức
khoảng 470 triệu tấn gạo [46].
Khoảng 90% lượng gạo trên thế giới được trồng ở Châu Á (Gần 640
triệu tấn). Tiểu vùng Sahara Châu Phi khoảng 19 triệu tấn và Châu Mỹ La
Tinh khoảng 25 triệu tấn. Ở châu Á và tiểu sa mạc Sahara Châu Phi , Hầu
như lúa hầu hết được trồng trên những trang trại nhỏ 0,5-3 ha [46].
Thương mại gạo thế giới trong năm 2010 là 30,5 triệu tấn. Sự gia tăng
này được hỗ trợ bởi một nhu cầu nhập khẩu mạnh mẽ từ các nước châu Á,
đặc biệt là Philippines.
Năng suất lúa trung bình trên thế giới là 4,3 tấn một hecta, trong năm 2010.
Năng suất lúa ở Úc cao nhất thế giới, trong năm 2010, đạt trung bình toàn quốc
khoảng 10,8 tấn/ha [46].
Yuan Longping, chuyên gia lúa lai ở Trung Quốc đã nghiên cứu phát
triển giống Siêu năng suất lúa lai đã đạt 19 tấn/ha/vụ ở ruộng trình diễn trong
năm 2010 [47].
Trong năm 2010, ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất, thứ tự giảm dần
là Thái Lan , Việt Nam và Ấn Độ . Cả ba nước chiếm gần 70% lượng xuất
khẩu gạo thế giới.
Bảng 2.2. Tình hình sản xuất lúa của 10 nước đứng đầu thế giới năm 2010
Tên nước

Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Trung Quốc 30,117 65,485 197,221
Ấn Độ 36,95 32,644 120,62
Indonesia 13,244 50,144 66,411
Bangladesh 11,8 41,826 49,355
Việt Nam 7,514 53,221 39,989
Thái Lan 10,99 28,751 31,6
Myanmar 8,05 41,239 33,2
Philippin 4,354 36,222 15,772
Brazil 2,71 41,736 11,31
Nhật Bản 1,63 65,111 10,6
14
(Nguồn: FAOSTAT | © FAO Statistics Division 2012 | 18 April 2012) [42]
Nhận xét:
Qua bảng trên cho thấy Nhật Bản là nước có diện tích gieo trồng thấp nhất
nhưng năng suất lại đạt cao nhất, Ấn Độ có diện tích cấy lúa nhiều nhất song
năng suất lại thấp nhất.
Thái Lan luôn là nước xuất khẩu gạo dẫn đầu thế giới, hơn hẳn Việt Nam
(thứ 2) cả về số lượng và giá trị, do có thị trường truyền thống rộng hơn và chất
lượng gạo cao hơn. Mỹ, Ấn Độ, Pakistan cũng là những nước xuất khẩu gạo
quan trọng, sau Việt Nam. Năm 2011, Top các nước sản xuất lúa gạo hàng đầu trên
thế giới thể hiện như bảng 2.3:
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất lúa của 10 nước đứng đầu thế giới năm 2011
Tên nước
Diện tích

(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Trung Quốc 29 63,0 182
Ấn Độ 40,5 33,9 137
Indonesia 12,1 44,9 54,4
Bangladesh 4,8 38,9 18,7
Việt Nam 7,7 55,0 40
Thái Lan 7 41,8 29,3
Myanmar 8,26 34,9 28,84
Philippin 4,15 36,8 15,3
Brazil 2,55 41,0 10,5
Nhật Bản 1,6 64,0 10,7
(Nguồn: FAOSTAT | © FAO Statistics Division 2012 | 18 April 2012)[42]
Nhận xét:
Trung Quốc: Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa là nhà sản xuất hàng
đầu về gạo trên thế giới, sản lượng 182 triệu tấn. Chiếm khoảng 30% tổng sản
lượng gạo thế giới.
Ấn Độ: Người khổng lồ Châu Á đứng thứ hai sau Trung Quốc với sản
lượng 137 triệu tấn; chiếm 22% của tổng sản lượng toàn cầu.
Indonesia: Các quốc gia Đông Nam Á đứng vị trí thứ ba với sản lượng
lúa 54,4 triệu tấn gạo, chiếm 8,6% tổng sản lượng của thế giới.
15
Bangladesh: Sản xuất 43,7 triệu tấn lúa, đạt khoảng 7% sản lượng thế giới.
Việt Nam: Đạt sản lượng lịch sử khoảng 40 triệu tấn lúa, chiếm tỷ lệ
khoảng 5,7% tổng sản lượng của thế giới.
Thái Lan: Nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, trong năm 2011 đã sản
xuất 29,3 triệu tấn lúa.

Myanmar: Một đất nước còn bấp bênh trong sản xuất lúa gạo nhưng
trong năm 2011 nước này đã đạt khoảng 4% tổng sản lượng toàn cầu.
Philippines: Đất nước nằm trong cửa hứng bão Tây Thái Bình Dương
trong năm 2011 đã sản xuất 15,3 triệu tấn lúa.
Brazil: Đất đai của Amazon, Brazil sản xuất 1,8% tổng sản gạo lượng toàn
cầu.
Nhật Bản: Đã đóng góp 10,7 triệu tấn lúa trong năm 2011.
2.3. Tình hình nghiên cứu và sản xuất lúa gạo ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu lúa gạo ở Việt Nam
Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, cây lúa luôn gắn liền với
đời sống hằng ngày của dân tộc ta. Vì vậy, có thể nói rằng Việt Nam là cái nôi
của nền văn minh lúa nước, sản xuất lúa gạo đóng vai trò quan trọng đối với đời
sống của người dân Việt Nam, nó không những đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
người dân trong nước mà nó còn góp phần quan trọng vào thị trường xuất khẩu
lúa gạo của thế giới.
Trước năm 1954, người dân Việt Nam với đức tính cần cù sáng tạo đã đúc
rút được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và đã sử dụng các giống lúa địa
phương, tuy năng suất không cao song chất lượng tốt, thích ứng với điều kiện
đất đai khí hậu của Việt Nam đồng thời có khả năng chống chịu tốt với sâu,
bệnh. Nhiều giống lúa được lưu truyền trong sản xuất từ đời này sang đời khác
như giống: Chiêm Tép, Chiêm Sài Đường, Chiêm cút các giống gieo cấy vụ
Mùa như: lúa Di, lúa Tám Soan, lúa Dự [29]
Từ sau ngày hoà bình lập lại (1954), miền Bắc nước ta bước vào công cuộc
xây dựng và tái thiết đất nước. Đảng và nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng tới
việc phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng, với mục
đích nhanh chóng đưa đất nước ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, bị tàn phá nặng
nề bởi chiến tranh trở thành một đất nước có nền công nghiệp phát triển. Tuy
nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau kinh tế của đất nước ta vẫn rơi vào tình
trạng khủng hoảng. Đất nước vẫn không thể chuyển mình và nông nghiệp vẫn
đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Trước thực trạng đó Đảng và nhà nước ta

đã có những nhìn nhận đúng đắn, thẳng thắn về đường lối chính sách và vai trò
của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Đảng và nhà nước ta quan
16
tâm đó là tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp. Các nhà nông học đã nhập
nội, thử nghiệm sản xuất nhiều giống lúa ngắn ngày của Trung Quốc, làm tiền
đề cho sự ra đời của vụ lúa Xuân gieo cấy bằng các giống Chân Trâu Lùn, Trà
Trung Tử [58].
Khi Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước ta được thống nhất,
cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975), chúng ta đã tập trung nhiều
vào nghiên cứu cây lúa, trong đó công tác chọn tạo và lai tạo các giống lúa
được đặc biệt chú trọng. Nhờ các thành tựu trong nghiên cứu và áp dụng các
TBKHKT, năng suất lúa của Việt Nam không ngừng tăng. Chúng ta cũng đã
nhập nội một số giống lúa từ Viện nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) và của một
số nước khác làm phong phú bộ giống lúa của Việt Nam. Nhận rõ tầm quan
trọng của sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng, cho
nên từ đại hội Đảng lần thứ VI và các kỳ đại hội tiếp theo, ngành nông nghiệp
đã được Đảng, nhà nước quan tâm thúc đẩy đúng mức. Trong một thời gian
không lâu đất nước đang từ một quốc gia nhập khẩu lương thực, người nông
dân làm ra sản phẩm lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp khác song quanh
năm vẫn chịu cảnh thiếu đói lương thực, nay đã trở thành một quốc gia xuất
khẩu lúa gạo đứng thứ 2 trên thế giới, song một vấn đề đặt ra đó là số lượng
xuất khẩu nhiều nhưng giá bán không cao do chất lượng gạo của việt nam còn
kém so với các nước khác như Thái Lan. Vì thế chiến lược sản xuất lúa gạo
của Việt Nam trong những năm tới và các thập niên tiếp theo là: phấn đấu đạt
và duy trì sản lượng lúa hằng năm ở mức 40 triệu tấn/năm như hiện nay [59],
đồng thời đưa vào gieo cấy khoảng 1 triệu ha lúa chất lượng cao để phục vụ
nhu cầu tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu gạo chất lượng cao nhằm
đem lại hiệu quả kinh tế. Với điều kiện thời tiết, khí hậu địa lý thuận lợi cho
việc trồng lúa, Việt Nam được coi như là cái nôi của nền văn minh lúa nước.
Phát huy những lợi thế đó trong những năm qua thực hiện chủ trương đổi mới

của Đảng, từ nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay nền nông
nghiệp nước ta được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu và đã được đầu tư đúng mức nên năng suất và sản lượng lúa
gạo Việt Nam không ngừng được nâng cao. (Chủ trương chính sách của Đảng
nhà nước về tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp - nông thôn) [60].
Để có được một ngành nông nghiệp như ngày nay, đã có nhiều thế hệ nhà
khoa học đóng góp công sức, trí tuệ để nghiên cứu ra các công trình khoa học
nông nghiệp có giá trị, phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước từ những năm
17
trước giải phóng cho tới nay, sau thành công về sản lượng lúa chúng ta cần có
một cách nhìn toàn diện hơn về sản xuất lúa gạo của Việt Nam trong đó vấn đề
chất lượng của lúa gạo cần đặc biệt quan tâm. Việt Nam có hàng nghìn giống
lúa được gieo trồng trong cả nước, có nhiều bộ giống tốt phù hợp với nhiều
vùng sinh thái khác nhau. Một số giống lúa chất lượng cao như giống Tám
thơm, lúa Dự, Nàng thơm, Nếp Cái Hoa Vàng, Nếp Cẩm, Nếp Tú lệ, các giống
Nếp Nương, Tẻ Nương [61] đã được đưa vào cơ cấu gieo cấy ở các tỉnh phía
Bắc Việt Nam. Chúng ta đã nhập và thuần hoá nhiều giống lúa tốt từ nước
ngoài mà nay đã trở thành các giống lúa đặc sản của Việt Nam có thương hiệu
như: IR64 Điện Biên, Bao Thai Định Hoá, Khaodômaly Tiền Giang [62].
2.3.2. Tình hình sản xuất lúa gạo ở Việt Nam
Nằm ở vùng Đông nam Châu Á, cây lúa là thế mạnh của nước ta, điều
kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa rất thích hợp cho phát triển cây lúa. Có nhiều
đồng bằng châu thổ rộng lớn được bồi đắp thường xuyên (ĐBSH và ĐBSCL)
cùng một loạt các châu thổ nhỏ hẹp ở ven các dòng sông, ven biển miền Trung
khác. Các đồng bằng châu thổ đều được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp
mà chủ yếu là trồng lúa. Sản xuất lúa gắn liền với sự phát triển nông nghiệp ở
nước ta. Từ sau 1954, miền Bắc nước ta giành được độc lập và bắt tay vào lao
động sản xuất, khôi phục lại nền kinh tế đã bị kiệt quệ do chiến tranh, đồng
thời cung cấp lương thực cho chiến trường Miền nam. Lúc này vấn đề công
nghiệp được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên năng xuất còn chưa cao. Từ sau 1980,

cơ chế khoán 10 đã thúc đẩy nông nghiệp phát triển, nâng cao năng xuất va sản
lượng. Từ đó đến nay nông nghiệp không ngừng phát triển, không chỉ góp
phần xoá đói giảm nghèo mà còn giúp nhiều nông dân đi lên làm giàu. Đảng ta
luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông
thôn. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm
qua cũng lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá nhằm ổn
định đời sống kinh tế - xã hội, đưa đất nước vượt qua những giai đoạn cực kỳ
khó khăn và tạo điều kiện để đẩy mạnh Công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất
nước. Chỉ thị 100 của Ban bí thư (khoá IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
(khoá IV) được triển khai đã đưa đến những thành tựu to lớn trong nông
nghiệp, nông thôn nước ta. Sản xuất lúa gắn liền với sự phát triển nông nghiệp
ở nước ta [41].
Từ sau 1954, miền bắc nước ta giành được độc lập và bắt tay vào lao động
xản xuất, khôi phục lại nền kinh tế đã bị kiệt quệ do chiến tranh, đồng thời
18

×