Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn tại làng nghề thái yên, huyện đức thọ, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.17 MB, 89 trang )



1


MỤC LỤC
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN 7
1.1. Tổng quan về làng nghề ở Việt Nam 7
1.2. Tổng quan về chất thải rắn nói chung và chất thải rắn làng nghề nói riêng. 12
1.3. Tình hình quản lý chất thải rắn tại các làng nghề ở Việt Nam 15
1.4. Một số kinh nghiệm quản lý, xử lý chất thải rắn tại các làng nghề 19
1.5. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Thái Yên 23
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 31
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 31
2.2. Phương pháp nghiên cứu 31
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 33
3.1. Hiện trạng môi trường làng nghề Thái Yên. 33
3.2. Đánh giá hiện trạng phát sinh chất thải rắn tại làng nghề Thái Yên. 37
3.3. Đánh giá hiện trạng quản lý chất thải rắn ở xã Thái Yên. 48
3.4. Đánh giá hiệu quả quản lý, xử lý chất thải rắn tại làng nghề Thái Yên 52
3.5. Dự báo xu thế phát sinh CTR ở địa phương đến năm 2020. 54
3.6. Đề xuất biện pháp giảm thiểu chất thải rắn. 56
3.6.1. Đối với chất thải rắn thải rắn sinh hoạt 56
3.6.2. Đối với chất thải rắn thải trong hoạt động sản xuất 60
3.6.3. Đối chất thải rắn thải nông nghiệp 67
3.6.4. Đối với chất thải rắn thải y tế. 70
KẾT LUÂN VÀ KIẾN NGHỊ 71










2


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề 18
Bảng 1.2. Cơ cấu sử dụng đất năm 2013, xã Thái Yên, huyện Đức Thọ 24
Bảng 1.3. Cơ cấu kinh tế của xã Thái Yên giai đoạn 2009 – 2013 28
Bảng 1.4. Quy mô đàn gia súc gia cầm của xã trong năm 2013 28
Bảng 1.5. Chất lượng nước mặt tại khu vực xã Thái Yên. 33
Bảng 3.1. Hiện trạng môi trường nước thải tại làng nghề Thái Yên. 35
Bảng 3.2. Hiện trạng môi trường không khí tại làng nghề Thái Yên 36
Bảng 3.3. Số lượng phát sinh chất thải rắn sinh hoạt 38
Bảng 3.4. Ước lượng chất thải rắn thải sinh hoạt phát sinh hàng năm ở xã Thái Yên.
39
Bảng 3.5. Phân loại chất thải rắn thải sinh hoạt ở xã Thái Yên. 39
Bảng 3.6. Tổng hợp số hộ tham gia sản xuất kinh doanh mộc. 42
Bảng 3.7. Cơ cấu hộ sản xuất kinh doanh mộc và ước lượng mức tiêu thụ gỗ nguyên
liệu tại xã Thái Yên 43
Bảng 3.8. Định mức tiêu thụ nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất. 44
Bảng 3.9. Tổng phát sinh chất thải rắn phát sinh trong hoạt động sản xuất 44
Bảng 3.10. Ước lượng tổng phát sinh rơm rạ sau thu hoạch. 45
Bảng 3.11. Lượng hóa chất thuốc BVTV sử dụng trong NN ở xã Thái Yên. 46
Bảng 3.12. Lượng HCBVTV sử dụng trong nông nghiệp của xã (2013) 47
Bảng 3.13. Bình quân phát sinh chất thải rắn trong hoạt động chăn nuôi 47
Bảng 3.14. Dự báo tổng lượng chất thải rắn phát sinh và tổng lượng chất thải rắn

thu gom, xử lý ở làng nghề Thái Yên, giai đoạn 2014 – 2020. 55
Bảng 3.15: Giá trị so sánh giữa than cám và than củi ép 61
Bảng 3.16. Bảng tổng hợp cơ hội sản xuất sạch hơn đối với làng nghề mộc 63
Bảng 3.17. Bảng phân tích nguyên nhân của dòng thải tại làng nghề 65





3



DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 1: Sơ đồ vị trí giao thông xã Thái Yên, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. 23
Hình 2: Diễn biến một số yếu tố khí tượng xã Thái Yên, Đức Thọ 25
Hình 3: Quy trình sản xuất sản phẩm mộc Thái Yên. 40
Hình 4: Sơ đồ hệ thống tổ chức quản lý HTX môi trường Thái Yên 48
Hình 5: Củi ép từ nguyên liệu mùn cưa và dăm bào. 60
Hình 6: Sơ đồ công nghệ xử lý rơm rạ làm phân bón vi sinh. 68

































4



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
BOD :


Nhu cầu oxy sinh hóa
BVMT :

Bảo vệ môi trường
COD :

Nhu cầu oxy hóa học
CTR :

Chất thải rắn
CTRSH :

Chất thải rắn sinh hoạt
CTRSX :

Chất thải rắn sản xuất
CTTB :

Cải tiến thay đổi thiết bị
HTX MT :

Hợp tác xã môi trường
QCVN :

Quy chuẩn Việt Nam
QLNV :

Quản lý nội vi
SXSH :


Sản xuất sạch hơn
TTCN :

Tiểu thủ công nghiệp
THSD :

Thu hồi tái sử dụng
UBND :

Ủy ban nhân dân





5


MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và định
hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà
nước đã tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển các làng nghề. Nhiều làng nghề
truyền thống được khôi phục trở lại và nhiều làng nghề mới ra đời, góp phần quan
trọng làm thay đổi bộ mặt của nông thôn Việt Nam. Hoạt động của các làng nghề
mang lại nhiều lợi ích về kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống, giải quyết nguồn lao
động dôi dư, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần xóa đói giảm nghèo cho
người dân.
Do tính chất linh hoạt trong sản xuất, quy mô sản xuất nhỏ, nguồn vốn không
cần lớn, sản phẩm đa dạng và luôn thay đổi theo nhu cầu thị trường nên các làng
nghề đang là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế và luôn được chú trọng

trong các định hướng phát triển.
Bên cạnh những mặt tích cực hiện nay, các làng nghề của Việt Nam đang đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức như trình độ sản xuất, chất lượng sản phẩm, các
mâu thuẫn về mặt xã hội nhưng quan trọng nhất là các tác động tiêu cực đến chất
lượng môi trường sống và sức khỏe do hoạt động sản xuất làng nghề gây ra. Đa
phần các làng nghề Việt Nam được hình thành một cách tự phát với công nghệ sản
xuất lạc hậu, thiết bị đơn giản, thủ công, hiệu quả sử dụng nguyên liệu thấp, mặt
bằng sản xuất hạn chế, việc đầu tư xây dựng các hệ thống bảo vệ môi trường rất ít
được quan tâm, ý thức tự bảo vệ môi trường sinh thái và sức khỏe chính gia đình
mình của người lao động còn hạn chế. Vì vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề
đã và đang là vấn đề bức xúc cần được quan tâm giải quyết.
Hiện nay trên địa bàn tĩnh Hà Tĩnh có 30 làng nghề hoạt động sản xuất kinh
doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau như thủ công mỹ nghệ (đồ mộc), kim khí, chế
biến thủy sản, chăn ga gối nệm, mây tre đan,… đã góp phần nâng cao thu nhập cho
người lao động và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các vùng nông thôn.
Tuy nhiên hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, các biện
pháp bảo vệ môi trường còn hạn chế vì vậy nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trong


6


quá trình sản xuất là rất cao. Để có cơ sở nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường đối với làng nghề cần phải có điều tra khảo sát một cách cụ thể,
chi tiết về hiện trạng môi trường của các làng nghề.
Thái Yên là một xã không chỉ phát triển nghề thủ công mỹ nghệ thuộc huyện
Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh với sản xuất làng nghề mộc có truyền thống gần 400 năm
mà các nghành nghề khác cũng khá phát triển. Tốc độ phát triển kinh tế luôn ở vị trí
cao so với toàn tỉnh. Song bên cạnh sự phát triển đó vấn đề ô nhiễm chất thải rắn
thải bởi hoạt động sản xuất, dịch vụ, sinh hoạt cũng ngày càng gia tăng đang làm

suy giảm chất lượng môi trường ở đây. Nhận thấy thực trạng ô nhiễm đó Chính
quyền địa phương đã có những chính sách quan tâm đầu tư cho việc quản lý, thu
gom chất thải rắn ở địa phương mình. Tuy nhiên do đặc thù riêng về điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội của nông thôn nói chung và của xã Thái Yên nói riêng, địa
phương đã và đang gặp không ít khó khăn trong công tác quản lý và thu gom nên
kết quả hiện nay đạt được vẫn chưa cao.
Để góp phần vào sự phát triển một cách toàn diện, bền vững, đáp ứng yêu cầu về
phát triển và bảo vệ môi trường, việc điều tra, đánh giá hiện trạng thu gom, xử lý chất
thải rắn thải rắn và xây dựng các mô hình tái sử dụng, thu gom, xử lý chất thải rắn thải
góp phần cải thiện môi trường tại làng nghề mộc Thái Yên. Xuất phát từ thực tế đó,
việc thực hiện đề án: “Đánh giá hiện trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý chất thải rắn tại làng nghề Thái Yên, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà
Tĩnh” là rất cần thiết và cấp bách.




7


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về làng nghề ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm và tiêu chí làng nghề
Theo quy định tại Điều 3, Thông tư 46/2011/TT-BTNMT ngày 26/12/2011
của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về bảo vệ môi trường làng nghề thì làng
nghề được định nghĩa là một (01) hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng,
buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, phường, thị
trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất tiểu thủ công nghiệp sản xuất
ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Xét về mặt định tính: làng nghề ở nông thôn nước ta được hình thành và phát

triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển và chịu sự chi phối của nông nghiệp và nông thôn. Làng nghề
gắn liền với những đặc trưng của nền văn hóa lúa nước và nền kinh tế hiện vật, sản
xuất nhỏ tự cung tự cấp.
Xét về mặt định lượng: làng nghề là những làng mà ở đó có số người chuyên
làm nghề thủ công và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ nghề đó chiếm một tỷ
lệ lớn trong tổng dân số của làng.
Tiêu chí để xem xét một cách cụ thể đối với một làng nghề điển hình là: Có
tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh
ngành nghề. Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận. Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước và các quy định của địa phương trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của làng nghề [3].
1.1.2. Đặc điểm chung của làng nghề
Tại mỗi làng nghề tuy bao giờ cũng có sự khác nhau về quy mô sản xuất, quy
trình công nghệ, tính chất sản phẩm nhưng đều có chung một số đặc điểm sau [1].
- Lực lượng lao động trong làng nghề đa số là người dân sống trong làng. Các
ngành nghề phi nông nghiệp trong làng sẽ tạo ra sản phẩm giúp cho người dân tăng
thu nhập trong lúc nông nhàn.


8


- Hộ gia đình là đơn vị cơ bản của sản xuất với nguồn nhân lực từ thành viên
trong gia đình và cơ sở hạ tầng tự có. Nhờ vào nhân lực gia đình đã tạo cho các hộ
gia đình khả năng thu nhập không phân biệt lứa tuổi và giới tính vì nó đáp ứng nhu
cầu chung của các thành viên trong gia đình. Do đó, nó có thể huy động mọi người
trong gia đình tham gia tích cực vào việc tăng sản phẩm sản xuất của gia đình.
- Cơ sở sản xuất dịch vụ tại làng xã là nơi có nhiểu hộ gia đình cùng tham

gia. Điều này tạo nên tính chất riêng biệt của làng nghề, dẫn đến xu thế độc quyền
những nghề nghiệp, sản phẩm.
- Tính chuyên môn hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau trong các làng nghề rất rõ
rệt. Một số trường hợp, sự phân chia lao động trong làng nghề phụ thuộc vào từng
khâu trong quy trình sản xuất. Nghề càng phức tạp, càng có nhiều công đoạn sản
xuất thì tính chuyên môn hóa càng cao. Sự phân chia này không chỉ trong một làng
mà còn có thể mở rộng trong nhiều làng.
- Phần lớn kỹ thuật - công nghệ của làng nghề còn lạc hậu, chủ yếu vẫn sử
dụng các thiết bị thủ công, bán cơ khí hoặc đã đã được cải tiến một phần, đa số mua
lại từ các cơ sở công nghiệp quốc doanh, các thiết bị này đã cũ, không đồng bộ,
không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật và điều kiện làm việc cho người lao động. Công
nghệ sản xuất đơn giản (đôi khi còn lạc hậu), cần nhiều sức lao động (với kỹ thuật
cũ mang lại lợi nhuận thấp so với sức lao động đã bỏ ra).
- Biết tận dụng nguyên vật liệu và nhân lực thông qua kỹ năng lao động và sự
khéo léo để tạo thu nhập trong điều kiện thiếu vốn.
1.1.3. Một số làng nghề chính ở Việt Nam [8].
- Làng nghề chế biến lương thực phẩm: đi kèm với chăn nuôi có số lượng
làng nghề lớn (chiếm 20% số lượng làng nghề) phân bố đều trên cả nước, phần
nhiều sử dụng lao động nông nghiệp, không yêu cầu trình độ cao, hình thức sản
xuất thủ công, ít có thay đổi về quy trình sản xuất. Nước ta có nhiều làng nghề thủ
công truyền thống như nấu rượu, làm bánh đa nem, đậu phụ , với các nguyên liệu
chính là gạo, ngô, khoai, sắn, đậu , các nghề này thường gắn với hoạt động chăn
nuôi ở quy mô gia đình.


9


- Làng nghề thêu, dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: Là loại hình làng nghề đã có
từ lâu đời, nhiều sản phẩm đã gắn liền với truyền thống lịch sử, văn hoá đậm nét địa

phương. Những sản phẩm như lụa, tơ tằm, thổ cẩm, thêu ren, dệt may , không chỉ
là những sản phẩm hàng hoá có giá trị mà còn là những tác phẩm nghệ thuật được
đánh giá cao. Tại các làng nghề nhóm này, lao động nghề thường là lao động chính
(chiếm tỷ lệ cao hơn lao động nông nghiệp).
- Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá có từ lâu đời: tập
trung ở các vùng có sẵn nguyên liệu xây dựng. Lao động loại làng nghề này chủ yếu
là thủ công, quy trình công nghệ thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp. Khi nhu cầu về xây
dựng nhà cửa, công trình tăng, hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng phát triển mạnh
đặc biệt là các vùng núi đá vôi.
- Làng nghề tái chế phế liệu: chủ yếu mới hình thành, nên số lượng ít nhưng
lại được phát triển nhanh về loại hình tái chế (chất thải kim loại, giấy nhựa, vải đã
qua sử dụng). Ngoài ra, các làng nghề cơ khí, chế tạo và đúc kim loại phế liệu sắt
vụn, cũng là loại hình làng nghề.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ: bao gồm các làng nghề gốm, sành sứ, thuỷ
tinh mỹ nghệ, chạm khắc đá, chạm mạ vàng bạc, sản xuất mây tre đan, đồ gỗ mỹ
nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Đây là nhóm làng nghề chiếm tỷ lệ lớn
về số lượng (khoảng 40% tổng số làng nghề) có truyền thống lâu đời, sản phẩm có
giá trị cao, đậm nét văn hoá dân tộc, có tính địa phương cao. Quy trình sản xuất của
các làng nghề này gần như không thay đổi, lao động thủ công nhưng đòi hỏi tay
nghề cao, đòi hỏi chuyên môn hoá và có tính chuẩn trong sáng tạo.
- Các nhóm ngành khác: bao gồm các làng nghề chế tạo công cụ thô sơ như
cầy bừa, quốc xẻng, liềm hái, đóng thuyền, làm quạt giấy, đan vó đan lưới, làm lưỡi
câu , những làng nghề nhóm này có từ lâu đời, sản phẩm phục vụ trực tiếp cho
nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của địa phương. Lao động chủ yếu thủ công, thu hút
nhiều lao động, sản phẩm ít có cải tiến thay đổi.


10




Biểu đồ 1.1. Phân loại làng nghề Việt Nam theo nghành nghề sản xuất[1].

1.1.4. Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội
* Làng nghề với sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn.
Điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một yếu tố cực kỳ quan trọng hỗ trợ phát
triển các làng nghề. Khả năng tiếp cận thông tin, điện, nước sạch, giao thông và các yếu
tố khác về cơ sở vật chất là rất cần thiết cho sự phát triển của các làng nghề. Phát triển
cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt sẽ góp phần mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo ở nước ta thông qua việc phát triển các
ngành nghề tại các làng nghề. Ngược lại, sự phát triển kinh tế của các làng nghề cũng
góp phần đổi mới bộ mặt nông thôn, cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Hạ tầng cơ sở ở những nơi tập trung nhiều làng nghề như khu vực đồng bằng
sông Hồng, Bắc Trung bộ và Đông Nam Bộ nhìn chung phát triển khá tốt do các
làng nghề phần lớn được hình thành, phát triển ở những nơi tiếp cận thuận lợi mạng
lưới đường quốc lộ, tỉnh lộ, cùng sự hỗ trợ của các chính sách từ chính quyền địa
phương nhằm thúc đẩy mạnh mẽ phát triển làng nghề. Khu vực miền núi, cũng có
một số làng nghề phát triển, tuy nhiên điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật vẫn không
được chú trọng đầu tư do phần lớn làng nghề ở đây không nhằm mục tiêu phục vụ


11


thị trường mà chủ yếu sản phẩm chỉ phục vụ đời sống nhân dân khu vực lân cận.
* Làng nghề và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn
Tại các làng nghề, đại bộ phận dân cư làm nghề thủ công nhưng vẫn tham gia
sản xuất nông nghiệp ở một mức độ nhất định. Tại nhiều làng nghề, trong cơ cấu
kinh tế địa phương, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt 60 - 80% và ngành
nông nghiệp chỉ đạt 20 - 40%. Trong những năm gần đây, số hộ và cơ sở ngành

nghề ở nông thôn đang ngày một tăng lên với tốc độ bình quân từ 8,8 - 9,8%/năm,
kim ngạch xuất khẩu từ các sản phẩm làng nghề không ngừng gia tăng. Chính vì
vậy, có thể thấy, làng nghề đóng vai trò rất quan trọng, trực tiếp giải quyết việc làm
cho người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu nhập, nâng cao chất
lượng cuộc sống cho người lao động ở khu vực nông thôn. Bên cạnh việc tạo việc
làm, tăng thu nhập cho lao động ở khu vực nông thôn còn tạo thêm việc làm cho lao
động phụ như người già, trẻ em, người khuyết tật, [5].
Mức thu nhập của người lao động ngành nghề cao gấp 3 đến 4 lần so với thu
nhập của người lao động thuần nông. Điều này cũng khiến số hộ gia đình chuyển từ
sản xuất thuần nông sang sản xuất thủ công nghiệp và chuyên làm nghề ngày càng tăng
nhanh.
* Làng nghề truyền thống và hoạt động phát triển du lịch
Lợi ích của việc phát triển làng nghề không chỉ là ở kinh tế, giải quyết việc
làm cho lao động địa phương mà còn góp phần bảo tồn được giá trị văn hoá lâu dài.
Với những lợi thế như cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn hoá đặc sắc, các
làng nghề còn có sức hút đặc biệt bởi mỗi làng lại gắn với một vùng văn hoá hay
một hệ thống di tích lịch sử. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các điểm
hoặc tuyến du lịch lữ hành về các làng nghề, nông thôn. Bên cạnh đó, khách tham
quan còn được tận mắt theo dõi quá trình sản xuất ra các sản phẩm thậm chí là tham
gia thực hành vào một khâu sản xuất nào đó, chính điều này tạo nên sức hấp dẫn
của du lịch làng nghề.
Nhận thức được tiềm năng phát triển du lịch tại làng nghề sẽ góp phần gia tăng
tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp hoặc dịch vụ ở địa phương, đồng thời tăng thêm


12


cơ hội cho các cơ sở sản xuất thông qua các hoạt động giới thiệu và bán sản phẩm
truyền thống, nâng cao đời sống của người dân thông qua các dịch vụ phụ trợ , điển

hình như các tỉnh Hà Tây (trước đây), Hoà Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế, Đà
Nẵng , đã và đang phát triển mạnh mẽ loại hình du lịch làng nghề. đây là điểm đến
của nhiều tuyến du lịch lữ hành của khách tham quan trong nước đồng thời thu hút
nhiều khách du lịch [4].
1.2. Tổng quan về chất thải rắn nói chung và chất thải rắn làng nghề nói
riêng.
Chất thải rắn còn được gọi là chất thải rắn, là các chất thải rắn bị loại ra trong
quá trình sống, sinh hoạt, hoạt động sản xuất của con người và động vật. Bao gồm
các loại chất thải phát sinh từ các hộ gia đình, khu công nghiệp, làng nghề, khu
thương mại, chợ, các công trình xây dựng, hoạt động nông nghiệp, chăn nuôi hay
chính từ khu xử lý chất thải Tùy theo dạng vật chất, nguồn phát sinh, mức độ nguy
hại, thành phần, tính chất của chất thải mà có nhiều cách phân loại khác nhau, bao
gồm chất thải hữu cơ, chất thải vô cơ, chất thải nguy hại hay không nguy hại, chất
thải công nghiệp, chất thải bệnh viện, chất thải sinh hoạt
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với nhiều chính sách phát triển
kinh tế đã làm cho tốc độ phát triển kinh tế của nước ta phát triển nhanh chóng
trong các năm qua. Quá trình tăng trưởng cao về kinh tế đã tạo thêm nhiều việc làm
cho người dân, tăng thu nhập, nâng cao mức sống kéo theo các nhu cầu nhằm đáp
ứng cho cuộc sống người dân như nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, sử dụng các dịch vụ,
giao thông vận tải, không ngừng tăng cao. Cùng với tốc độ gia tăng dân số nhanh
như hiện nay, thì lượng chất thải rắn hằng ngày phát sinh cũng tăng theo tốc độ phát
triển đó đã làm nảy sinh các nguy cơ tiềm ẩn cũng như gây sức ép lớn đến môi
trường.
Đối với các làng nghề ở Việt Nam chiếm một phần đáng kể trong nguồn phát
sinh chất chất thải rắn nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ các làng nghề mang lại lợi
ích to lớn về kinh tế - xã hội cho các địa phương. Tuy nhiên, sự phát triển đó cũng
tạo ra sức ép lớn đối với môi trường khi tạo ra lượng chất thải rắn lớn.


13



Hiện nay, cả nước có 1.324 làng nghề được công nhận và 3.221 làng có nghề.
Hoạt động sản xuất nghề nông thôn đã tạo ra việc làm cho hơn 11 triệu lao động,
thu hút khoảng 30% lực lượng lao động nông thôn. Làng nghề phân bố không đồng
đều giữa các vùng, miền. Miền Bắc có khoảng 60%, miền Trung 30% và miền Nam
10%. Trong đó các làng nghề có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ và
công nghệ lạc hậu chiếm phần lớn vì vậy đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề môi
trường tại các làng nghề [1].
Chất thải rắn làng nghề gồm nhiều chủng loại khác nhau, mang tính đặc thù
của từng loại hình sản xuất. Có thể thấy chất thải làng nghề bao gồm các thành phần
chính như phế phụ phẩm nông nghiệp, lương thực, chai lọ thủy tinh, nhựa, nilon, vỏ
bao bì, gỗ, gốm sứ, kim loại
* Làng nghề chế biến lương thực, thực phầm: Chủ yếu việc chế biến nông
sản sau khi thu hoạch bị loại bỏ sau quá trình chế biến, phế phụ phẩm bị ôi thiu, vỏ
sắn, xơ sắn, bã dong, đao, bã đậu, xĩ than, phân gia súc trong chăn nuôi Chất thải
trong nghề chế biến lương thực thực phẩm rất đa dạng. Nhìn chung chất thải trong
nghề chế biến lương thực thực phẩm là những chất hữu cơ dễ bị phân hủy. Trong
khu vực các làng nghề này thường có thêm ngành nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm,
nuôi thuỷ sản để tận thu các nguồn nguyên liệu còn thừa ra. Chất thải của ngành
nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm chất thải chủ yếu là chất hữu cơ, định mức chất thải
rắn đối với gia súc, gia cầm (lợn thải ra 1,5 kg/con/ngày, gà, vịt, ngan thải ra 0,1
kg/con/ngày, trâu, bò thải ra 3 kg /con/ngày). Chất thải ngành chăn nuôi là những
chất hữu cơ dễ bị phân hủy, gây ô nhiễm môi trường, tạo mùi khó chịu, nếu không
được xử lý tốt sẽ gây ô nhiễm cả 3 môi trường: đất, nước và không khí.
.* Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng: Tại các làng sản xuất vật liệu xây
dựng ở nước ta hiện nay, công nghệ sản xuất còn thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, lao
động giản đơn là chủ yếu, sản xuất vật liệu tiêu thụ một lượng rất lớn nhiên liệu là
than và củi. Trong quá trình khai thác nguyên liệu cho sản xuất gạch ngói thiếu quy
hoạch, tỷ lệ sử dụng nguyên liệu thấp đã để lại lượng chất thải rắn thải xây dựng

tương đối lớn, thường tạo ra các chất thải rắn (xỉ than, gạch vỡ, gạch phồng, đất đá
thải do khai thác khoáng sản


14


* Làng nghề tái chế phế thải: Làng nghề tái chế phế thải gồm: tái chế giấy, tái
chế kim loại, tái chế nhựa , là một ngành mới được hình thành tuy nhiên trong
những năm qua đã phát triển khá nhanh. Tại các làng nghề tái chế phế thải, lượng
chất thải rắn tương đối lớn do đặc điểm sử dụng nguyên liệu tái chế cùng từng cơ
sở. Các chất thải phát sinh trong quá trình tái chế như sau:
- Từ ngành tái chế giấy: tro xỉ, bột giấy, đinh ghim, nilon, giấy phế liệu.
- Từ các nghề tái chế nhựa: Nhựa phế liệu (nhựa không đủ phẩm chất tái chế)
các tạp chất lẫn trong nhựa, tro, xỉ than
- Từ các làng nghề tái chế kim loại: các tạp chất phi kim loại (nilon, nhựa,
cao su ) bị loại bỏ, kim loại không đủ tiêu chuẩn tái chế, tro xỉ than từ quá trình
nấu kim loại
* Làng nghề dệt nhuộm: Trong cơ cấu làng nghề dệt nhuộm nói chung, nghề
nhuộm chiếm một vị trí quan trọng. Hoạt động của các làng nhuộm không chỉ tạo ra
những giá trị về mặt kinh tế xã hội, mà còn tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần
sâu sắc. Tuy nhiên vấn đề nổi cộm là nước thải, chất thải rắn chưa trở nên bức xúc.
Chất thải rắn gồm xỉ than từ các lò hơi, vỏ chai lọ, thùng đựng hóa chất, hóa chất
nhuộm, các loại xơ vải, vải vụn
* Làng nghề ươm tơ: theo tính toán để sản xuất 1kg kén tơ cần sử dụng 1,5
kg than, 0, 08 kg củi, 01 tạ kén sử dụng 1m
3
nước, chất thải phát sinh từ sản xuất tơ
tằm, nước thải có chứa các chất hữu cơ, nitơ, tơ sợi vì thế nước thải dễ phân huỷ và
gây mùi khó chịu tại khu vực làng nghề này. Ô nhiễm không khí từ các lò hơi, các

lò than sinh ra bụi và các khí độc.
* Làng nghề thủ công mỹ nghệ: Các làng nghề này hiện tượng ô nhiễm môi
trường nước diễn ra ít nghiêm trọng như các làng nghề chế biến nuôi trồng thủy sản
và các làng nghề tái chế. Tuy nhiên, sản xuất tại các làng nghề này lại thường xuyên
gây ra bụi và tiếng ồn lớn, hoặc gây ra khí độc khi tẩm sấy các đồ mây, tre đan. Các
loại chất thải rắn phát sinh như gỗ vụn, gỗ mảnh, mùn cưa, dăm bào, vỏ trai, giấy
giáp thải, hôp đựng các dung môi (hộp sơn, hộp vecni). Tuy nhiên lượng thải
thường không lớn, khoảng 20-30kg/cơ sở/ tháng và thường có khả năng tái chế.


15


1.3. Tình hình quản lý chất thải rắn tại các làng nghề ở Việt Nam
1.3.1. Ban hành và thực thi văn bản pháp lý
Ô nhiễm môi trường làng nghề ở nước ta hiện nay vẫn đang là vấn đề nổi
cộm. Trong những năm qua do sự phát triển mang tính tự phát lại thiếu quy hoạch,
không có các giải pháp kỹ thuật về môi trường nên tình trạng ô nhiễm môi trường ở
các làng nghề rất phổ biến.
Về mặt quản lý, Nhà nước đã ban hành các văn bản để bảo vệ môi trường các
làng nghề như:
- Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 15/1/2004 của Bộ chính trị về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
- Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 22/2/2005 của Thủ tướng Chính Phủ
ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ chính
trị;
- Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 được Quốc hội Nước CHXHCN
Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005;
- Nghị định số 80/2006//NĐ- CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về quy định
chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Bảo vệ môi trường;

- Nghị định số 21/2008/NĐ-CP ngày 28/02/2008 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 8 năm 2006
của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Bảo vệ môi trường;
- Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18/04/2011 quy định về đánh giá môi
trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ về xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
- Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007 của Chính phủ về quản lý
chất thải rắn;
- Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về phí bảo
vệ môi trường đối với chất thải rắn thải;


16


- Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/01/2009 của Chính phủ về ưu đãi, hỗ
trợ hoạt động bảo vệ môi trường;
- Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 18/03/2013 của Chính phủ Về một số vấn đề
cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
- Chỉ thị 29-CT/TW ngày 21/1/2009 của Ban Bí thư về việc tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Nghị Quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị;
- Thông tư số 13/2007/TT-BXD ngày 31/12/2007 Hướng dẫn một số điều của
Nghị định 59/2007/NĐ-CP ngày 9/4/2007 của Chính phủ về quản lý chất thải rắn;
- Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/4/2011 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường về quản lý chất thải nguy hại;
- Thông tư số 46/2011/TT-BTNTM ngày 26/12/2011 quy định về bảo vệ môi
trường làng nghề;
Chính phủ có quy hoạch và định hướng phát triển các cơ sở ngành nghề nông

thôn đảm phát triển bền vững, giữ gìn tốt vệ sinh môi trường nông thôn, khuyến
khích việc tiêu thụ và sử dụng các sản phẩm từ nguồn nguyên liệu tự nhiên trong
nước nhằm hạn chế một phần tác hại đến môi trường của các sản phẩm chất thải hoá
chất nhựa công nghiệp. UBND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có tchất thải
rắnh nhiệm quy hoạch chi tiết phát triển làng nghề chỉ đạo huyện xây dựng các cụm
tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ để tạo mặt bằng cho các cơ sở ngành nghề nông
thôn phát triển đảm bảo vệ sinh môi trường.
1.3.2. Hiện trạng quản lý chất thải rắn làng nghề
Hiện nay tình hình thực thi pháp luật bảo vệ môi trường tại các làng nghề
ở Việt Nam còn rất nhiều bất cập, yếu kém - Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến việc khó kiểm soát ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn cho thấy hầu hết các làng nghề sản xuất, kinh
doanh chỉ quan tâm nhiều đến lợi nhuận kinh tế mà lờ đi yếu tố bảo vệ môi trường,
giữ gìn môi trường trong lành cho cộng đồng. Điều này đang trở thành tình trạng
phổ biến hiện nay. Tình hình ô nhiễm làng nghề tại các tỉnh thành đang rất
nghiêm trọng, nhất là khu vực các tỉnh phía Bắc, Bắc Trung Bộ như: Hà Nội, Bắc


17


Ninh, Quảng Nam, Đồng Nam…[10].
Theo thống kê, tỷ lệ thu gom chất thải rắn ở nông thôn và làng nghề thì có
khoảng 60% số thôn hoặc xã tổ chức thu dọn định kỳ, trên 40% thôn, xã đã hình
thành các tổ thu gom chất thải rắn thải tự quản. Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt tại
khu vực nông thôn mới đạt khoảng 40 - 55% [2].
1.3.3. Những tồn tại khó khăn trong công tác quản lý môi trường làng
nghề
Bên cạnh mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại làng nghề, những
tác động xấu đến môi trường nhiều năm qua đã làm cho chất lượng môi trường

nhiều làng nghề ngày càng suy giảm, ảnh hưởng không chỉ tới sự phát triển bền
vững ở làng nghề, mà còn ảnh hưởng đến cả tính bền vững của nhiều ngành kinh tế
khác. Tuy đã có nhiều văn bản quy định về quản lý môi trường làng nghề, song đến
nay còn bộc lộ nhiều khó khăn như sau:
- Quy mô sản xuất tại nhiều làng nghề là quy mô nhỏ, mặt bằng sản xuất chật
hẹp và thường xen kẽ với khu vực sinh hoạt. Sản xuất càng phát triển thì nguy cơ
lấn chiếm khu vực sinh hoạt, phát thải ô nhiễm tới khu dân cư càng lớn, dẫn đến
chất lượng môi trường càng xấu đi.
- Nếp sống tiểu nông của người chủ sản xuất nhỏ xuất thân từ nông dân đã
ảnh hưởng mạnh tới sản xuất làng nghề, làm tăng mức độ ô nhiễm môi trường.
- Người sản xuất không nhận thức được tác hại lâu dài của ô nhiễm, chỉ quan
tâm đến lợi nhuận trước mắt, các cơ sở sản xuất tại làng nghề thường lựa chọn quy
trình sản xuất thô sơ tận dụng nhiều sức lao động trình độ thấp. Hơn thế nhằm hạ
giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh, nhiều cơ sở sản xuất còn sử dụng các
nhiên liệu rẻ tiền, hóa chất độc hại (kể cả đã cấm sử dụng) không đầu tư phương
tiện, dụng cụ bảo hộ lao động không đảm bảo điều kiện lao động nên đã làm tăng
mức độ ô nhiễm môi trường.
- Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã.
Nhiều làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống, sử dụng lao động có tính
gia đình, sản xuất theo kiểu "bí truyền", giữ bí mật cho dòng họ, tuân theo


18


"hương ước" không cải tiến áp dụng những khoa học kỹ thuật, nên đã cản trở
việc áp dụng giải pháp khoa học kỹ thuật mới, không khuyến khích sáng kiến
mang hiệu quả BVMT của người lao động.
- Công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc hậu chắp vá, kiến
thức tay nghề không toàn diện dẫn tới quá trình sản xuất tiêu tốn nhiều nhiên,

nguyên liệu làm tăng phát thải nhiều chất ô nhiễm môi trường nước, đất, khí ảnh
hưởng tới gia thành sản phẩm và chất lượng môi trường. Kỹ thuật lao động sản
xuất ở các làng nghề chủ yếu là thủ công, bán cơ khí, chưa có làng nghề nào áp
dụng tự động hóa. được thể hiện qua bảng 1.1:
Bảng 1.1. Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề
Đơn vị tính: %
Trình độ kỹ thuật
Chế biến
nông, lâm,
thủy sản
Thủ công mỹ
nghệ và VL xây
dựng
Các ngành
dịch vụ
Các
ngành
khác
Thủ công, bán cơ khí

61,51 70,69 43,90 59,44
Cơ khí 38,49 29,31 56,10 40,56
Tự động hóa
0
0
0
0
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia năm 2008)
Vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề còn thấp, khó có điều kiện
phát triển hoặc đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường.

Sản xuất mang tính tự phát, không có kế hoạch lâu dài, nên khó huy động tài
chính và vốn đầu tư lớn từ các nguồn khác (quỹ tín dụng, ngân hàng). Do đó, khó
chủ động trong đổi mới kỹ thuật và công nghệ, lại càng không thể đầu tư cho xử lý
môi trường.
Trình độ người lao động, chủ yếu là lao động thủ công, đang học nghề, văn
hóa thấp, nên hạn chế nhận thức đối với công tác BVMT. Chất lượng lao động và
trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các làng nghề nhìn chung còn thấp chủ yếu là lao
động phổ thông. Mặt khác đa số người lao động xuất thân từ nông dân nên chưa có
ý thức về môi trường lao động, chỉ cần việc làm có thu nhập cao hơn thu nhập từ
nông nghiệp hoặc bổ sung thu nhập trong lúc nông nhàn, nên ngại học hỏi, không
quan tâm tới BVMT


19


Nhiều làng nghề chưa quan tâm tới xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho
BVMT. Cạnh tranh trong 1 số loại hình sản xuất đã thúc đẩy một số làng nghề đầu tư
đổi mới công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Tuy nhiên đây không phải là đầu tư cho kỹ thuật
bảo vệ môi trường. Vì vậy hầu hết các cơ sở sản xuất trong làng nghề đều không có các
hệ thống xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường.
Hầu hết các làng nghề không có đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật để thu gom và xử
lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường, như không có hệ thống thu gom và xử lý
nước thải, không có bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh, không chú ý đầu tư
phương tiện thu gom quản lý chất thải nguy hại. Đây là một thách thức lớn vì để
khắc phục điều này đòi hỏi nhiều kinh phí và thời gian.
Việc quản lý vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hiệu quả thu gom còn gặp nhiều
hạn chế, tỷ lệ thu gom chất thải rắn vẫn còn thấp, các hộ gia đình không tham gia
dịch vụ thu gom họ thường đem đổ ra sông ngòi, ao hồ, ven đường hay đốt trong
vườn. Biện pháp xử lý hiện nay chủ yếu là chôn lấp, nhưng phần lớn các bãi chôn

lấp chưa đạt tiêu chuẩn kỹ thuật về bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Các bãi chất thải rắn
thường được sử dụng là các bãi chất thải rắn lộ thiên, chưa được bố trí thích hợp và
chưa được xử lý một cách triệt để.
1.4. Một số kinh nghiệm quản lý, xử lý chất thải rắn tại các làng nghề
Ô nhiễm môi trường làng nghề ở Việt Nam hiện nay là một trong những vấn đề
cần quan tâm, tuy các làng nghề quy mô nhỏ nhưng số lượng làng nghề lại nhiều, nên
tác động của làng nghề đến môi trường là vô cùng lớn.
Một số biện pháp kỹ thuật xử lý chất thải rắn thường được áp tại các làng nghề ở
nước ta như sau:
- Phương pháp chôn lấp chất thải hợp vệ sinh: Phương pháp này chi phí rẻ
nhất và thường được sử dụng nhất hiện nay ở nước ta.
- Phương pháp chế biến chất thải rắn có nguồn gốc hữu cơ thành phân ủ hữu
cơ (compost): Thành phẩm thu được dùng để phục vụ cho nông nghiệp, vừa có tác
dụng cải tạo đất vừa thu được sản phẩm không bị nhiễm hoá chất dư tồn trong quá
trình sinh trưởng.


20


- Phương pháp thiêu đốt: Phương pháp này chi phí cao, thông thường từ 20-
30 USD/tấn nhưng chu trình xử lý ngắn, chỉ từ 2-3 ngày, diện tích sử dụng chỉ bằng
1/6 diện tích làm phân hữu cơ có cùng công suất.
- Các kỹ thuật khác: Ép ở áp lực cao các thành phần vô cơ, chất dẻo để tạo
ra các sản phẩm như tấm tường, trần nhà, tủ, bàn ghế, chất đốt,
* Mô hình xử lý chất thải bằng phương pháp ủ kín làm phân compost tại
làng nghề giết mổ trâu bò thôn Bái Đô, xã Tri Thủy, huyện Phú Xuyên [12].
Thôn Bái Đô hiện có khoảng 40 hộ trục tiếp giết mổ trâu bò, với trung bình
từ 5 - 15 con/ngày/hộ, vào các ngày lễ, tết số lượng có thể tăng lên gấp đôi. Hoạt
động này đã mang lại thu nhập đáng kể cho nguôi dân, tuy nhiên, nước thải, CTR,

mùi hôi, tiếng ồn đã gây ô nhiễm môi trường xung quanh, tác động xấu đến điều
kiện sông của nhân dân. Trong các loại CTR phát sinh từ quá trình giết mổ, chất
thải từ dạ cỏ (trong dạ dày) của trâu, bò là một trong những loại chất thải khó phân
hủy, được lun giữ tại các bể chứa tạm thòi trong khuôn viên hộ giết mổ. Do đặc thù
của địa phương, mặt bằng chật hẹp và mật độ dân cư cao, phương pháp xử lý bằng
công nghệ ủ kín được lụa chọn nhằm hạn chế phát sinh mùi. Phương pháp ủ kín làm
phân compost dựa trên nguyên tắc sử dụng các hệ vi sinh vật có sẵn trong chất thải
hoặc bổ sung từ bên ngoài đã mang lại hiệu quả đáng kể cho môi trường tại đây.
* Mô hình xử lý mùn cưa tại làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ thôn Thiết Bình, xã
Vân Hà, huyện Đông Anh [12].
Theo số liệu thống kê, lượng mùn cưa thải bỏ tủa cả xã Vân Hà là 4.000
kg/ngày. Trước đây, các hộ, sản xuất thường thu gom, đổ ra đường làng hoặc ao, hồ
xung quanh làm giảm diện tích đất canh tác, gây ô nhiễm môi trường nước. Từ đầu
năm 2012, đã có đơn vị đến thu mua mùn cưa từ các hộ sản xuất với giá là 3.000
đồng/bao 20 kg nhưng không thường xuyên, nên vẫn còn hiện tượng đổ mùn cưa ra
khu vực công cộng.
Để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường, một số đơn vị đã tiến hành thử
nghiệm biện pháp dùng mùn cưa làm nhiên liệu cho bếp hồng ngoại (bếp gas sinh
học) theo nguyên lý yếm khí.


21


Mùn cưa hoặc phoi bào, rơm rạ băm nhỏ, củi khô chặt vụn được cho vào bình
chứa, chèn tương đối chặt, dưới đáy lò dùng quạt thổi nhẹ để đốt cháy yếm khí, khi
đó chúng sẽ phân giải ở nhiệt độ cao, gây phản ứng ôxy hóa sinh ra một loại hỗn
họp khí cháy bao gồm: CH4,CH2 (khí mê-tal) do thực vật sinh ra, các khí này dưới
tác dụng của hơi nước lại tiếp tục lên men quay trở lại gây phản ứng dây chuyền
thấm sâu vào từng tế bào xenlulo kích thích sự phân giải mãnh liệt hơn, tạo ra càng

nhiều khí gas theo đường ống đi ra bếp hồng ngoại. Trong quá trình đi ra bếp hồng
ngoại, hỗn họp khí xảy ra quá trình tự động phân ly. Phần khí gas sạch và nhẹ hơn
đi lên trên và đuợc pha trộn với một phần không khí. trích ra từ quạt gió đi ra bếp,
với một tỷ lệ thích họp gây ra sự cháy tôi un tạo tia hồng ngoại sinh nhiệt để đun
nâu. Mặt bếp được bọc một lóp lưới tụ nhiệt gây phản ứng cháy trở lại đối vói các
phân tử khí còn chưa cháy hết.
Theo tính toán, bếp hồng ngoại này có giá khoảng 2,5 triệu đồng, với ưu
điểm: An toàn, chiếm diện tích nhỏ khoảng 2-4 m
2
; dễ sử dụng, hiệu suất cháy cao
không tạo lại hơi, khói bụi; tận dụng được chất thải -mùn cưa hoặc rơm rạ khi ngày
mùa, đồng thời không phải phơi, sấy trước khi sử dụng như một số loại "bếp gas"
đang bán trên thị trường.
* Tổng kết chung, để xử lý chất thải rắn thải tại các làng nghề đã có nhiều
phương pháp, chính sách được đưa ra trên các cơ sở sau:
a. Biện pháp quản lý:
Là tổng hợp các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng địa
phương thông qua việc giáo dục, tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường. Lồng ghép
việc bảo vệ môi trường vào hương ước của địa phương đó.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường làng nghề, trong đó
quy định rõ tchất thải rắnh nhiệm của địa phương, các nghành, lĩnh vực hoạt động.
Tăng cường hoạt động giám sát khí thải, nước thải và chất thải rắn tại các làng
nghề.
Có các chính sách ưu đãi về vốn cho việc áp dụng công nghệ và thiết bị tiên
tiến ít chất thải.


22



Lập ra các hợp tác xã bảo vệ môi trường làng nghề nhằm thực hiện thu gom,
xử lý chất thải rắn phát sinh.
b. Giải pháp kỹ thuật:
- Áp dụng các biện pháp sản xuất sạch hơn.
Theo định nghĩa: Sản xuất sạch hơn là sự áo dụng liên tục một chiến lược
phòng ngừa môi trường tổng hợp đối với các quá trình sản xuất, các sản phẩm và
các dịch vụ nhằm làm giảm thiểu tác động xấu đến con người và môi trường [14].
+ Sản xuất sạch hơn đối với một quá trình sản xuất bao gồm việc sử dụng
hiệu quả nguyên liệu và năng lượng, không sử dụng các nguyên liệu độc hại trong
quy trình sản xuất, giảm lượng cũng như tính độc hại của tất cả các chất thải ngay
tại nguồn thải.
+ Ngoài ra cần làm thay đổi thái độ ứng xử tới môi trường, ý thức tchất thải
rắnh nhiệm của người lao động cũng như người quản lý trong việc hoàn thiện công
nghệ và sản phẩm sao cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
- Giải pháp công nghệ xử lý chất thải.
Chất thải rắn của các làng nghề hiện nay đối với Việt Nam chưa có biện pháp
hữu hiệu để xử lý. Đối với một số loại chất thải rắn có thể tái chế thì thu gom và tái
chế, còn lại vẫn sử dụng các phương pháp xử lý đơn giản như biện pháp đốt hoặc
thu gom để chôn lấp tập trung.













23


1.5. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Thái Yên
1.5.1. Vị trí địa lý
Xã Thái Yên nằm về phía Đông của huyện Đức Thọ - Tỉnh Hà Tĩnh, cách thị
trấn Đức Thọ khoảng 12 km và có toạ độ địa lý như sau:
Từ 105
0
38
'
58
''
- 105
0
40
'
26
''
kinh độ Đông và 18
0
30
'
24
''
- 18
0
31
''

53
''
vĩ độ Bắc.
Ranh giới hành chính của xã như sau:
- Phía Bắc giáp xã Đức Thịnh;
- Phía Nam giáp xã Đức Thanh;
- Phía Đông giáp xã Đức Thịnh và thị xã Hồng Lĩnh;
- Phía Tây giáp xã Đức Thuỷ.

Hình 1. Sơ đồ vị trí giao thông xã Thái Yên, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Khu vực nghiên cứu


24


1.5.2. Địa hình, địa mạo, đất đai [20].
Địa hình của xã Thái Yên tương đối bằng phẳng, có độ cao trung bình so với
mặt nước biển khoảng từ 1,5 - 2 m. Xã Thái Yên có diện tích đất tự nhiên là 418,16
ha. Trong đó 28,97 ha đất ở và 300,11 ha đất sản xuất nông nghiệp, còn lại là đất sử
dụng cho mục đích công cộng, đất chưa sử dụng và đất khác. Trên cơ sở khảo sát
thực địa và phân tích mẫu, đất của xã Thái Yên được chia thành 2 loại (Diện tích
điều tra thổ nhưỡng đất của xã không tính các loại đất: Đất chuyên dùng; Đất ở; Mặt
nước và sông , suối) như sau:
- Đất phù sa Glây (Pg): Có 244,88 ha, chiếm 59,37% diện tích tự nhiên của
xã. Đất có thành phần cơ giới thịt nặng, độ dày tầng đất mịn > 100 cm được phân bố
trên địa hình Vàn. Đất này thích hợp với thâm canh cây lúa và cho năng suất cao.
Toàn bộ diện tích đất này được gieo trồng 2 vụ lúa.
- Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf): Có 61,22 ha, chiếm 14,84% diện
tích tự nhiên. Đất này phân bố tập trung ở phía Đông Nam của xã. Độ dày tầng đất

mịn > 100 cm, thành phần cơ giới thịt trung bình, phân bố ở địa hình cao hơn so với
đất phù sa glây, phù hợp với gieo trồng 2 vụ lúa ổn định và có thể kết hợp thêm 1
vụ màu.
Bảng 1.2. Cơ cấu sử dụng đất năm 2013, xã Thái Yên, huyện Đức Thọ

Loại đất Mã Diện tích(ha)

Tỷ lệ (%)

Tổng diện tích 418,16

100

1.
Nhóm đất nông nghiệp
NNP
300,11
71.77
1.1.

Đất sản xuất nông nghiệp SXN 298,05

71.28

1.1.1.

Đất trồng lúa LUA 289,52

69.24


1.1.2.
Đất trồng cây lâu năm
CLN
8,53
2.04
1.2.
Đất nuôi trồng thủy sản
NTS
2,06
0.49
2.

Nhóm đất phi nông nghiệp PNN 117,10

28.00

2.1.

Đất ở ONT 28,97

6.93

2.2.
Đất chuyên dùng
CDG
68,73
16.44
2.3.
Đất bãi thải, xử lý chất thải
RAC

0,60
0.14
2.4.

Đất nghĩa trang, nghĩa địa NTD 7,42

1.77

2.5.

Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng

SMN

11,38

2.72

3.

Nhóm đất chưa sử dụng CSD 0,95

0.23

Nguồn: Tổng hợp báo cáo thống kê UBND xã - năm 2013 [21]


25



1.5.3. Khí hậu – Thủy văn
Huyện Đức Thọ nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa có khí hậu nóng ẩm,
mưa nhiều, mang tính chất chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và khí hậu miền
Nam. Với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và á nhiệt đới có
một mùa đông lạnh của miền Bắc, khí hậu huyện Đức Thọ có 2 mùa khá rõ rệt: mùa
hè từ tháng IV đến tháng X thường nóng và khô hạn kéo dài kèm theo nhiều đợt gió
tây (gió lào) khô nóng, nhiệt độ có thể lên đến trên 40
0
C, bốc thoát hơi nước tiềm
năng (Potential Evapo-Transpiration - PET) đạt từ 184,0 đến 228,8 mm/tháng. Từ
cuối tháng IX đến tháng XI thường có nhiều đợt bão kèm theo mưa lớn gây ngập
úng, lượng mưa lớn nhất đạt tới 500 mm/ngày đêm. Mùa đông từ tháng XI đến
tháng III năm sau, thường có gió mùa đông bắc lạnh kèm theo mưa phùn, nhiệt độ
có thể xuống dưới 7
o
C. Nhiệt độ trung bình năm 23,8
0
C, tổng lượng mưa năm là
2642,3 mm, số giờ nắng năm là 1.662,6 giờ.
0
50
100
150
200
250
0
100
200
300
400

500
600
700
I II III IV V VI VII VIII IX X XI XII
Nhiet va nang (C,h)
Mua va boc hoi (mm)
Thang
Mua (mm)
Boc hoi (mm)
PET (mm)
Nhiet (0C)
Nang (h)

Hình 2. Diễn biến một số yếu tố khí tượng xã Thái Yên, Đức Thọ
Nằm trong khu vực miền trung nên Đức Thọ thường chịu ảnh hưởng nhiều
của bão lụt, hàng năm có từ 1 - 1,6 cơn bão đi qua. Thời kỳ xuất hiện bão lụt thường
từ tháng IX đến tháng XI.

×