Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Nghiên cứu tính đa dạng sinh học vườn quốc gia xuân thủy làm cơ sở khoa học định hướng cho bảo tồn và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.44 MB, 113 trang )




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Khái quát chung về Đất ngập nƣớc 3
1.1.1. Khái niệm Đất ngập nƣớc 3
1.1.2. Phân loại Đất ngập nƣớc 3
1.2. Tổng quan các nghiên cứu về đa dạng sinh học hệ sinh thái đất ngập nƣớc trên Thế
giới và Việt Nam 6
1.2.1. Tổng quan các nghiên cứu về đa dạng sinh học đất ngập nƣớc trên Thế giới 6
1.2.2. Tổng quan các nghiên cứu về đa dạng sinh học đất ngập nƣớc ở Việt Nam 9
1.3. Các hƣớng nghiên cứu về đa dạng sinh học, bảo tồn và phát triển Vƣờn quốc gia
Xuân Thủy 14
1.3.1. Trƣớc khi thành lập Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 14
1.3.2. Sau khi thành lập Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 15
1.4. Khái quát điều kiện - tự nhiên, kinh tế - xã hội Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 21
1.4.1. Lịch sử hình thành Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 21
1.4.2. Điều kiện tự nhiên Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 21
1.4.3. Điều kiện kinh tế - xã hội Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 25
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 27
2.1. Đối tƣợng nghiên cứu 27
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 27
2.1.1. Phƣơng pháp kế thừa, thống kê, phân tích, tổng hợp và đánh giá 27
2.1.2. Phƣơng pháp điều tra và khảo sát thực địa 28
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 32
3.1. Đánh giá hiện trạng Đa dạng sinh học Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 32
3.1.1. Đa dạng các kiểu hệ sinh thái Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 32
3.1.2. Đa dạng các quần xã thực vật chủ yếu tại Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 33
3.1.3. Đa dạng thành phần loài động vật, thực vật Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 37


3.2. Đánh giá các lợi ích Đa dạng sinh học Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 47
3.2.1. Lợi ích về cung cấp 47
3.2.2. Lợi ích bảo vệ môi trƣờng và hệ sinh thái 49
3.2.3. Lợi ích bảo tồn Đa dạng sinh học 51
3.2.4. Lợi ích về giáo dục môi trƣờng và nhân văn 51
3.2.5. Lợi ích về du lịch sinh thái, giải trí 52
3.3. Đánh giá các tác động tới Đa dạng sinh học Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 53
3.3.1. Gia tăng dân số vùng đệm 53
3.3.2. Khai thác trái phép và quá mức tài nguyên sinh vật 54



3.3.3. Bất cập về quản lý và thể chế, chính sách 55
3.3.4. Sử dụng đất nuôi trồng thủy sản và nƣớc mặt chƣa hợp lý 56
3.3.5. Xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng lõi 57
3.3.6. Ô nhiễm môi trƣờng 58
3.3.7. Sự du nhập các loài ngoại lai xâm hại 60
3.3.8. Thiên tai và biến đổi khí hậu 61
3.4. Định hƣớng và đề xuất các giải pháp cho bảo tồn và phát triển 62
3.4.1. Định hƣớng cho công tác bảo tồn Đa dạng sinh học 62
3.4.2. Giải pháp cho công tác bảo tồn và phát triển 66
3.4.3. Mô hình sinh kế phát triển kinh tế - xã hội bền vững 69
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 75
Kết luận 75
Khuyến nghị 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
PHỤ LỤC



























DANH MỤC HÌNH


Hình 1. Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ - Huyện Giao Thuỷ - Tỉnh Nam Định 22
Hình 2. Sơ đồ các tuyến, điểm khảo sát thực địa VQG Xuân Thủy tháng 6/2014 29
Hình 3. Các hệ sinh thái ở vùng ĐNN ở Vƣờn quốc gia Xuân Thuỷ 30
Hình 4. Các loài cá quý, hiếm đƣợc ƣu tiên bảo tồn 43

Hình 5. Cấu trúc thành phần loài giữa các bộ chim ở VQG Xuân Thủy 45
Hình 6. Các loài chim di cƣ quý, hiếm đƣợc ƣu tiên bảo tồn 46
Hình 7. Nồng độ dầu mỡ khoáng trong nƣớc mặt khu vực VQG Xuân Thuỷ năm 2010 59






























DANH MỤC BẢNG


Bảng 1. Diện tích, dân số và mật độ dân số 5 xã vùng đệm Vƣờn quốc gia Xuân
Thủy 25
Bảng 2. Cơ cấu kinh tế của các xã vùng đệm VQG Xuân Thủy 26
Bảng 3. Phân bố thành phần các taxon thực vật tại VQG Xuân Thủy 37
Bảng 4. Các loài thực vật xâm nhập tại VQG Xuân Thủy 39
Bảng 5. Số lƣợng loài thực vật nổi tại VQG Xuân Thủy 39
Bảng 6. Sản lƣợng, giá trị của hoạt động nuôi trồng và khai thác thủy sản trong vùng
lõi Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 47
Bảng 7. Các loài thực vật có giá trị trong RNM Giao Thủy 48
Bảng 8. Khả năng hấp thụ cacbon của một số cây ngập mặn tại Xuân Thủy 49
Bảng 9. Doanh thu, số lƣợng khách du lịch tham quan Vƣờn quốc gia Xuân Thủy 53
Bảng 10. Tình trạng khai thác tài nguyên trong vùng lõi Vƣờn quốc gia Xuân Thủy
năm 2013 55























DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐDSH
Đa dạng sinh học
DLST
Du lịch sinh thái
ĐNN
Đất ngập nƣớc
GIS
Hệ thống thông tin địa lý
HST
Hệ sinh thái
NTTS
Nuôi trồng thủy sản
PTBV
Phát triển bền vững
RMN
Rừng ngập mặn
UBND
Ủy ban nhân dân

VQG
Vƣờn quốc gia





1

MỞ ĐẦU
VQG Xuân Thủy là vùng đất và bãi bồi nơi sông Hồng đổ ra biển thuộc huyện
Giao Thủy, tỉnh Nam Định, có tổng diện tích tự nhiên là 15.100 ha bao gồm: 7.100
ha vùng lõi VQG Xuân Thủy (đất nổi 3.100 ha; đất ngập nƣớc 4.000 ha gồm: Phần
Bãi trong của Cồn Ngạn, toàn bộ Cồn Lu và Cồn Xanh) và 8.000 ha vùng đệm (bao
gồm phần diện tích còn lại của Cồn Ngạn, bãi Trong và 5 xã vùng đệm: Giao Thiện,
Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân và Giao Hải [32]. Đây là bãi vùng triều cửa sông ven
biển có diện tích rừng ngập mặn lớn, điển hình nhất cho hệ sinh thái ven biển không
những đối với tỉnh Nam Định mà còn đối với cả miền Bắc Việt Nam. Khu vực này
nằm ở vị trí cửa sông - nơi tốc độ bồi lắng, tốc độ phù sa trung bình hàng năm của
bãi vùng triều khoảng vài chục mét. Bãi bồi cửa sông ven biển cũng là nơi có tiềm
năng về kinh tế và giá trị đa dạng sinh học. Với Quốc tế VQG Xuân Thủy còn là Ga
chim quan trọng đối với dòng chim di trú Quốc tế, trong số đó có loài cò mỏ thìa mặt
đen, là loài chim đã đƣợc ghi vào sách đỏ của IUCN về các loài đang có nguy cơ bị
tuyệt chủng.
Hiện nay, việc quản lý bảo vệ tài nguyên môi trƣờng ở VQG Xuân Thủy vẫn
còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp. Do dân số quá đông, thiếu công ăn việc làm nên
sức ép về khai thác nguồn lợi tự nhiên của ngƣời dân từ vùng đệm lên vùng lõi
VQG Xuân Thủy ngày càng lớn. Mặt khác, hoạt động sản xuất của vùng đệm nuôi
trồng thủy sản và sản xuất nông nghiệp cũng là nguyên nhân gây ra tác động xấu về
môi trƣờng, tác động tiêu cực đến cân bằng sinh thái tự nhiên đe dọa sự phát triển

bền vững Vƣờn quốc gia.
Từ những vấn đề cấp thiết ở trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Nghiên cứu
tính đa dạng sinh học Vườn quốc gia Xuân Thủy làm cơ sở khoa học định
hướng cho bảo tồn và phát triển”.
Đề tài hƣớng tới mục tiêu đánh giá đƣợc hiện trạng đa dạng sinh học, các áp
lực tác động và các giá trị lợi ích của VQG Xuân Thuỷ, định hƣớng cho công tác
bảo tồn và phát triển cho Vƣờn trong thời gian tới.
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, chúng tôi đã thực hiện các nội dung nghiên
cứu nhƣ sau:
- Đánh giá hiện trạng đa dạng sinh học Vƣờn quốc gia Xuân Thủy.

2

- Đánh giá lợi ích đa dạng sinh học Vƣờn quốc gia Xuân Thủy.
- Đánh giá các tác động lên đa dạng sinh học Vƣờn quốc gia Xuân Thủy.
- Định hƣớng và đề xuất các giải pháp cho bảo tồn và phát triển.
Chúng tôi hy vọng những nội dung nghiên cứu này là những tƣ liệu hữu ích
góp phần giúp các nhà hoạch định chính sách có các hoạt động ƣu tiên cải thiện công
tác quy hoạch phát triển, quản lý và sử dụng hợp lý các dạng tài nguyên thiên nhiên
cũng nhƣ bảo vệ nguồn lợi sinh vật, bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời đáp ứng nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội về nhiều mặt của cộng đồng.
























3

Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái quát chung về Đất ngập nƣớc
1.1.1. Khái niệm Đất ngập nước
ĐNN rất đa dạng, có mặt khắp mọi nơi và là cấu thành quan trọng của các
cảnh quan trên mọi miền của thế giới. Tuỳ thuộc vào sự khác nhau về loại hình đất
ngập nƣớc, sự phân bố cùng với những mục đích sử dụng hay mục đính quản lý mà
các tổ chức, quốc gia khác nhau đƣa ra các định nghĩa khác nhau về ĐNN.
Theo Công ƣớc Ramsar, vùng đất ngập nƣớc đƣợc bảo vệ bởi Công ƣớc này
đƣợc hiểu một cách rất rộng. Theo văn kiện của Công ƣớc này (Điều 1.1), đất ngập
nƣớc đƣợc xác định là: “Những vùng đầm lầy, miền đầm lầy, vùng đất than bùn,
vùng đất tù nhiên hoặc nhân tạo, có thể tồn tại lâu dài hay tạm thời, có nƣớc tĩnh
hoặc nƣớc chảy, là nƣớc ngọt, nƣớc lợ hay nƣớc mặn, bao gồm cả những vùng nƣớc
biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều kiệt”.

Theo luật ĐDSH (2008) quy định: “ĐNN tự nhiên là vu
̀
ng đầm lầy, than bùn
hoă
̣
c vu
̀
ng nƣơ
́
c thƣơ
̀
ng xuyên hoặc ta
̣
m thơ
̀
i, kê
̉
ca
̉
vu
̀
ng biê
̉
n co
́
đô
̣
sâu không qua
́
6

mét khi ngấn nƣớc thủy triều thấp nhất” (Khoản 1, Điều 35). Đây là định nghĩa về
ĐNN chính thống của Việt Nam đƣợc quy định bằng pháp luật nhằm mục đích bảo
tồn các HST ĐNN tự nhiên và ĐDSH. Mọi hoạt động liên quan đến ĐNN ở nƣớc ta
đều phải sử dụng định nghĩa này.

1.1.2. Phân loại Đất ngập nước
Tuỳ thuộc vào sự khác nhau về loại hình, phân bố khác nhau của vùng ĐNN
mà các tác giả, các tổ chức đƣa ra hệ thống phân loại khác nhau về ĐNN.
* Phân loại ĐNN của công ƣớc Ramsar
Vào những năm đầu của thập kỷ 70, Công ƣớc Ramsar (1971) đã phân ĐNN
thành 22 kiểu mà không chia thành các hệ và lớp.
Trong quá trình thực hiện Công ƣớc và thực tiễn áp dụng vào các vùng và
các quốc gia khác nhau, sự phân hạng này đã thay đổi. Vào năm 1994, phụ lục 2B
của Công ƣớc Ramsar đã chia ĐNN thành 3 nhóm chính đó là:
1. ĐNN ven biển và biển (11 loại hình); 2. ĐNN nội địa (16 loại hình); 3.
ĐNN nhân tạo (8 loại hình) (Davis, 1994 - Ramsar Convention Bureau) với tổng

4

cộng 35 loại hình. Cũng theo Ramsar Convention Bureau (1997a,b - 2nd edition),
thì các loại hình ĐNN đã đƣợc xem xét lại và chia thành 40 kiểu khác nhau [4].
* Công ƣớc Ramsar và phân loại đất ngập nƣớc của Việt Nam/ Cục Bảo
vệ Môi trƣờng
Theo dự thảo Chiến lƣợc Đất ngập nƣớc Việt Nam của Cục Môi trƣờng
(thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng), các kiểu đất ngập nƣớc đƣợc liệt
kê và mô tả bao gồm [45]:
1. Các vịnh nông và các eo biển có độ sâu 6m khi triều thấp.
2. Các vùng cửa sông, châu thổ; bãi triều
3. Những vùng bờ biển có đá, vách đá,bãi cát hay bãi sỏi.
4. Vùng đầm lầy ngập mặn, rừng ngập mặn.

5. Những đầm phá ven biển dù là nƣớc mặn hay nƣớc lợ.
6. Ruộng muối (nhân tạo).
7. Ao nuôi trồng thủy sản.
8. Sông suối và hệ thống thoát nƣớc nội địa.
9. Đầm lầy ven sông; đầm lầy nƣớc ngọt.
10. Hồ chứa nƣớc tự nhiên; hồ chứa nƣớc nhân tạo.
11. Rừng ngập nƣớc theo mùa (nhƣ rừng Tràm).
12. Đất cầy cấy ngập nƣớc, đất đƣợc tƣới tiêu.
13. Bãi than
* Phân loại/ Kiểm kê đất ngập nƣớc của Lê Diên Dực (1989)
Hệ thống phân loại đất ngập nƣớc này dựa trên hệ thống phân loại của công
ƣớc Ramsar (1971). Theo hệ thống phân loại này Việt Nam có 20 loại đất ngập nƣớc
nhƣ sau:
1. Các vịnh nông từ 6m trở lại khi triều thấp;
2. Các vùng cửa sông, châu thổ;
3. Những đảo nhỏ xa bờ;
4. Những vùng bờ biển có đá, vách đá ven biển;
5. Những bãi biển dù là cát hay là sỏi;
6. Những bãi triểu dù là bùn hay là cát;
7. Vùng đầm lầy có rừng ngập mặn;
8. Những đầm phá ven biển dù là nƣớc lợ hay nƣớc mặn;

5

9. Những ruộng muối;
10. Ao tôm, cá;
11. Sông suối chảy chậm dƣới mức trung bình;
12. Sông suối chảy nhanh trên mức trung bình;
13. Đầm lầy ven sông;
14. Hồ nƣớc ngọt;

15. Ao nƣớc ngọt (< 8 ha), đầm lầy nƣớc ngọt;
16. Ao nƣớc mặn, những hệ thống thoát nƣớc nội địa;
17. Đập chứa nƣớc;
18. Rừng ngập nƣớc, đất đƣợc tƣới tiêu;
19. Đất cày cấy ngập nƣớc, đất đƣợc tƣới tiêu;
20. Bãi than bùn.
Đây là công trình phân loại đất ngập nƣớc đầu tiên của Việt Nam do
PGS.TS. Lê Diên Dực chủ trì đã đƣợc hoàn thành năm 1989. Tác giả và các cộng
sự đã tiến hành điều tra, kiểm kê, mô tả các vùng đất ngập nƣớc tiêu biểu của Việt
Nam dựa trên khái niệm về đất ngập nƣớc của Công ƣớc Ramsar [12].
* Phân loại đất ngập nƣớc của Phan Nguyên Hồng và cộng sự (1996)
Năm 1996, theo yêu cầu của Cục Môi trƣờng (nay là Cục Bảo vệ Môi
trƣờng, thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng), GS.TSKH. Phan Nguyên Hồng và
các cộng sự thuộc Trung tâm Tài nguyên và Môi trƣờng (Đại học Quốc gia Hà Nội)
đã xây dựng bản dự thảo Chiến lƣợc quản lý đất ngập nƣớc Việt Nam, trong đó có
nội dung phân loại đất ngập nƣớc Việt Nam. Để giới thiệu một cách tổng quát các
loại đất ngập nƣớc chủ yếu, tùy theo tính chất ngập nƣớc mặn hay nƣớc ngọt,
thƣờng xuyên hay định kỳ, tác giả đã xác định những vùng đất ngập nƣớc sau đây
là đối tƣợng nghiên cứu của “Chiến lƣợc bảo vệ và quản lý đất ngập nƣớc Việt
Nam giai đoạn 1996 - 2020”:
Kiểu phân loại này cũng tƣơng tự nhƣ cách phân loại của IUCN, tác giả đã phân
chia đất ngập nƣớc theo các sinh cảnh, nhƣng sắp xếp các sinh cảnh này theo tính
chất ngập nƣớc mặn (đới biển ven bờ) hay ngập nƣớc ngọt (đất ngập nƣớc nội địa).
Cách thức phân loại này đúng nhƣ mục đích của tác giả là phục vụ cho việc nghiên
cứu xây dựng chiến lƣợc quản lý đất ngập nƣớc ở cấp quốc gia, còn đối với các cấp
chi tiết hơn sẽ không thể đáp ứng đƣợc [45]. Theo đó, đất ngập nƣớc nội địa bao gồm:


6


1. Các hệ thống dòng chảy (sông, suối);
2. Các hồ tự nhiên;
3. Các hồ chứa nhân tạo;
4. Vùng đồng bằng châu thổ sông;
5. Các vùng ngập nƣớc không thƣờng xuyên.
Đất ngập nƣớc ven biển bao gồm:
1. Các loại hình cửa sông;
2. Rừng ngập mặn;
3. Các bãi triều cát;
4. Các giải bờ đá;
5. Vùng dƣới triều trên độ sâu 6m nƣớc;
6. Các bãi cỏ biển và bãi tảo;
7. Các rạn san hô.

1.2. Tổng quan các nghiên cứu về đa dạng sinh học hệ sinh thái đất ngập
nƣớc trên Thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tổng quan các nghiên cứu về đa dạng sinh học đất ngập nước trên Thế giới
ĐNN rất đa dạng, có mặt khắp mọi nơi và là cấu thành quan trọng của các
cảnh quan trên mọi miền của thế giới. Hàng thế kỷ nay, con ngƣời và các nền văn
hoá nhân loại đƣợc hình thành và phát triển dọc theo các triền sông hoặc ngay trên
các vùng ĐNN. ĐNN đã và đang bị suy thoái và mất đi ở mức báo động, mặc dù
ngày nay ngƣời ta đã nhận biết đƣợc các chức năng và giá trị to lớn của chúng [46,
48, 53].
ĐNN đƣợc cấu thành từ nhiều hợp phần, nhiều cảnh quan, đa dạng về kiểu
loại, phong phú về tài nguyên, ĐDSH, có nhiều chức năng và giá trị quan trọng. Vì
thế các công trình nghiên cứu về ĐNN cũng rất đa dạng, bao gồm các công trình
nghiên cứu mang tính tổng hợp hay đề cập đến một số khía cạnh, hợp phần của ĐNN
nhƣ: Đất, nƣớc, động - thực vật, địa hình - địa mạo hay các biến động thảm thực
vật, biến động về địa chất của các vùng ĐNN.
Hoạt động nghiên cứu về ĐNN đƣợc bắt đầu từ các nhà nghiên cứu về ĐNN ở

phƣơng Tây. Những nghiên cứu ban đầu này tập trung chủ yếu vào các vấn đề: Động

7

lực của đới ven bờ và cổ thực vật nhằm cung cấp dữ liệu về tiến trình phát triển và
thay đổi của cảnh quan, văn hoá các vùng ĐNN, các quần xã thực vật tại các đầm lầy
hay khuynh hƣớng nghiên cứu sinh thái tổng hợp kết hợp với các hoạt động bảo vệ
thiên nhiên và động vật hoang dã.
Ngày nay, các nhà nghiên cứu về ĐNN đã thống nhất chia lịch sử nghiên cứu
đất ngập nƣớc ra làm 3 giai đoạn chính: Trƣớc năm 1950; Năm 1950 - 1970 và giai
đoạn từ năm 1970 đến nay.
Các công trình nghiên cứu về ĐNN ở giai đoạn trƣớc năm 1950, các hoạt
động nghiên cứu tập trung chủ yếu về quần xã thực vật tại các đầm lầy, địa hình - địa
mạo, thuỷ - hải văn, nghiên cứu động lực của đới ven bờ. Tiếp đến là các nghiên cứu
về cổ thực vật nhằm giải thích sự thay đổi của chế độ khí hậu và mực nƣớc biển
trong quá khứ. Góp phần vào đó là các nhà nghiên cứu và sƣu tầm cổ vật. Các nghiên
cứu này cung cấp các dữ liệu về tiến trình phát triển và thay đổi của cảnh quan, văn
hoá các vùng đất ngập nƣớc. Các công trình ở giai đoạn này thƣờng chỉ nhấn mạnh
đến việc mô tả đơn ngành nhƣ các nghiên cứu về bãi triều của các nhà khoa học Đức,
Hà Lan từ giữa thế kỷ 19, các nghiên cứu quần xã thực vật và sinh thái tại các đầm
lầy, đầm lầy than bùn hay động lực của sông đƣợc tiến hành từ thế kỷ 19. Ngoài ra
còn hàng loạt các công trình nghiên cứu về cổ thực vật nhằm xác định sự thay đổi
của khí hậu, mực nƣớc biển, điều kiện cổ khí hậu. Khoảng đầu thế kỷ 20, các nhà
khoa học Bắc Mỹ đã bắt đầu nghiên cứu về đất ngập nƣớc nội địa thông qua việc
nghiên cứu tổng hợp giữa vị trí địa lý, thuỷ văn, diễn thế sinh thái thực vật, địa tầng.
Các hoạt động này đã đem lại những hiểu biết cao hơn về các vùng đất ngập nƣớc
cho cộng đồng, đặc biệt là các kiến thức về tự nhiên. Điều đó đã dẫn đến sự công
nhận những giá trị của đất ngập nƣớc đối với việc quản lý chất lƣợng nƣớc và đánh
giá cao các giá trị văn hoá, du lịch của đất ngập nƣớc, thúc đẩy việc bảo vệ các vùng
đất ngập nƣớc của chính phủ.

Giai đoạn thứ 2 (1950 - 1970) cùng với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và
tài liệu thực nghiệm đã giúp các nhà nghiên cứu theo dõi sự thay đổi của các vùng
ĐNN, từ đó có những hiểu biết cụ thể hơn về sự biến đổi các vùng ĐNN. Các lĩnh
vực nhƣ sinh thái học ĐNN, hoá học nƣớc đã đƣợc chú ý. Tuy nhiên, tính liên
ngành của các nghiên cứu này còn hạn chế.

8

Giai đoạn 3 (năm 1970 – hiện nay) hoạt động nghiên cứu các vùng ĐNN lúc
này không chỉ là công việc của các nhà khoa học mà còn trở thành mối quan tâm của
các quốc gia, khu vực, và quốc tế. Với những thay đổi và nhận thức về tầm quan
trọng của các vùng ĐNN cùng với tiến bộ vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật và công
nghệ, giúp cho các hoạt động nghiên cứu về ĐNN ngày càng phát triển hơn. Số
lƣợng những công trình nghiên cứu về hiện trạng, biến động và dự báo xu thế thay
đổi của ĐNN về diện tích, cấu trúc, đa dạng sinh học do khai thác và sử dụng, cũng
nhƣ phân tích ảnh hƣởng của nƣớc thải, xây dựng, giao thông đến xu thế chuyển hoá
của ĐNN thông qua đó có đƣợc nhiều hơn những chính sách hợp lý trong quy hoạch,
bảo vệ và phát triển các vùng ĐNN.
Trong vài thập kỷ gần đây chúng ta đã chứng kiến sự biến đổi sâu sắc trong
nhận thức về ĐNN, đặc biệt là sự thay đổi trong cách nhìn nhận về tầm quan trọng
của vùng ĐNN của các cá nhân và tổ chức có liên quan. Trƣớc những năm 60 của
thế kỷ 20 ngƣời ta còn coi các vùng ĐNN là những vùng đất không có giá trị, nơi
chứa chất thải, nơi lƣu giữ các mầm bệnh và các loài côn trùng có hại. Trong cuốn
“Các chức năng và giá trị của đất ngập nước: thực trạng hiểu biết của chúng ta”
của Oreeson và cộng sự xuất bản năm 1979 đã cho thấy 84% tổng số các trích dẫn là
của các công trình nghiên cứu trong thập kỷ 70, 14% của các công trình thập kỷ 60
và chỉ có 2% là trích dẫn từ các công trình trƣớc năm 1960. Nhƣ vậy, từ thực trạng
không chú ý hoặc lảng tránh các vấn đề có liên quan đến ĐNN trƣớc những năm 60
chuyển sang thời kỳ mới đặc trƣng bởi sự gia tăng mạnh mẽ các kiến thức về ĐNN
tạo ra một bƣớc đột phá trong hoạt động khoa học tại các trung tâm và viện nghiên

cứu có liên quan.
Khu vực Châu Á và Đông Nam Á là nơi có diện tích ĐNN lớn của thế giới.
Do mật độ dân cƣ cao (chiếm 60% số dân toàn thế giới) các cộng đồng dân cƣ nơi
đây phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên ĐNN. Vì thế, ĐNN của khu vực này đang
phải đối mặt với tình trạng suy thoái nghiêm trọng và một số vùng ĐNN có nguy cơ
bị xoá sổ. Hiện nay, các nghiên cứu về ĐNN tại khu vực châu Á và Đông Nam Á
chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: Xác định loại hình và sự phân bố của ĐNN;
Nghiên cứu các mối đe doạ, những ảnh hƣởng, tác động hiện nay và yêu cầu về bảo
vệ ĐNN, đa dạng sinh học của các vùng ĐNN.

9

Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu và bảo tồn các vùng ĐNN có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với các quốc gia trong khu vực, số các nƣớc ký công
ƣớc Ramsar ngày càng tăng. Công tác nghiên cứu ĐNN trên thế giới trong những
năm qua đã nhận đƣợc sự ủng hộ của nhiều tổ chức quốc tế nhƣ Hiệp hội bảo tồn
thiên nhiên thế giới (The World Conservation Union - IUCN), Chƣơng trình môi
trƣờng của Liên hợp quốc (UNEP), Quỹ động vật hoang dã thế giới (WWF), các tổ
chức phi chính phủ (NGO). Trong đó quan trọng nhất là vai trò của IUCN vì đây là
tổ chức trực tiếp hỗ trợ về tài chính và là cơ quan phối hợp kết nối với các hoạt động
với các tổ chức khác trong việc bảo vệ và nghiên cứu ĐNN trên Thế giới [7].

1.2.2. Tổng quan các nghiên cứu về đa dạng sinh học đất ngập nước ở Việt Nam
ĐNN ở Việt Nam khá đa dạng và phong phú về các kiểu hình với diện phân
bố rộng khắp, trải dài từ Bắc vào Nam và có tầm quan trọng đặc biệt trong lịch sử
dựng nƣớc, giữ nƣớc của dân tộc. Do vậy, ĐNN ở Việt Nam đã và đang thu hút
đƣợc nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khác nhau nhƣ:
Khoa học tự nhiên, kinh tế - xã hội, pháp luật, Các công trình nghiên cứu ĐNN ở
Việt Nam tƣơng đối phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề bức xúc nhƣ: Kiểm kê,
phân loại, phân tích chức năng, giá trị của các hợp phần cấu thành của các vùng

ĐNN, hoặc nghiên cứu tổng hợp một vùng, một đối tƣợng cụ thể.
Có thể khái quát các công trình này theo hai khuynh hƣớng nhƣ sau [7]:
1. Nghiên cứu tổng hợp theo từng vùng cụ thể hoặc toàn quốc gia, ví dụ đồng
bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, các vùng cửa sông, vùng biển ven bờ
đông bắc Việt Nam.
2. Nghiên cứu theo từng hợp phần của ĐNN, ví dụ nghiên cứu hệ sinh thái
RNM, hệ sinh thái cửa sông, địa chất môi trƣờng biển ven bờ, địa mạo, chế độ thuỷ -
hải văn
Một trong số những dự án đầu tiên có liên quan đến ĐNN ở Việt Nam là “Dự
án sông Mê Kông và đồng bằng sông Cửu Long” của Uỷ ban sông Mê Kông (1957)
do chính phủ 4 nƣớc Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam thành lập. Dự án này
đã tiến hành điều tra về thuỷ văn sông Mê Kông, kinh tế - xã hội, địa chất, khoáng
sản và tiềm năng nông nghiệp vùng hạ lƣu sông Mê Kông. Cũng trong dự án này

10

công tác điều tra về động vật hoang dã của lƣu vực sông Mê Kông đƣợc tiến hành, từ
đó đƣa ra những kiến nghị về hệ thống khu bảo tồn.
Tiếp theo là một loạt các đề tài, dự án, chƣơng trình điều tra tổng hợp cũng
nhƣ nghiên cứu các hợp phần của ĐNN từ những năm 1980 cho đến nay. Trong
chƣơng trình điều tra cơ bản tài nguyên thiên nhiên toàn quốc, một chƣơng trình cấp
nhà nƣớc do Uỷ ban khoa học kỹ thuật Nhà nƣớc chủ trì 1984 - 1986 đã bƣớc đầu đề
xuất tới việc bảo vệ thiên nhiên những vùng đất ngập nƣớc và yêu cầu đƣợc nghiên
cứu nhƣng cũng rất sơ bộ và chung chung. Trong giai đoạn thực hiện chƣơng trình
này, chƣa có một nội dung toàn diện nào về nghiên cứu khoa học hệ sinh thái đất
ngập nƣớc ở Việt Nam.
Năm 1989, Việt Nam tham gia công ƣớc Ramsar, đây cũng là thời điểm chính
thức hình thành những nội dung cƣơng yếu về hoạt động khoa học và bảo tồn thiên
nhiên cho lĩnh vực đất ngập nƣớc ở nƣớc ta, do Vụ Điều tra Cơ bản (tiền thân của
Cục Môi trƣờng, nay là Cục Bảo vệ Môi trƣờng) thuộc Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật

Nhà nƣớc (sau là Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trƣờng, nay là Bộ Tài nguyên và
Môi trƣờng) chủ trì. Trên cơ sở các văn bản Công ƣớc, các tài liệu khoa học trong
nƣớc và quốc tế về những vấn đề có liên quan đến đất ngập nƣớc đã đƣợc tổ chức tập
hợp lại, xác định những nội dung chuyên đề và xúc tiến hoạt động “nghiên cứu về đất
ngập nƣớc” một cách chính thức ở Việt Nam.
Các nhà Điểu học thuộc khoa Sinh học - Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là
Đại học Quốc gia Hà Nội) là lực lƣợng nòng cốt của chƣơng trình nghiên cứu về đất
ngập nƣớc, trƣớc 1989 họ đã tiến hành khảo sát nghiên cứu tập đoàn các loài chim
nƣớc ở Việt Nam, và năm 1985 phát hiện Sếu đầu đỏ ở Tràm chim Đồng Tháp Mƣời,
viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu chim nƣớc với hệ sinh thái đất
ngập nƣớc. Trƣớc những năm 1990, những nội dung nghiên cứu khoa học chuyên
ngành, có liên quan tới lĩnh vực tổng hợp về đất ngập nƣớc có thể kể đến nhƣ rừng
ngập mặn, rừng Tràm ngập chua phèn, than bùn, hệ thuỷ sinh học, hệ chim nƣớc.
Một số công trình nổi bật nhƣ: đề tài KT 03 - 02 về đầm phá do Nguyễn Chu Hồi chủ
nhiệm, KT 03 - 01 (chƣơng trình 48B) về động lực bãi bồi, tiềm năng nguồn lợi ven
biển miền Bắc Việt Nam do Trần Đức Thạnh, Nguyễn Đức Cự và Phí Kim Trung
tiến hành.

11

Về kiểm kê và phân tích các chức năng, giá trị của ĐNN có các công trình của
Lê Diên Dực, Vũ Văn Dũng và Nguyễn Hữu Thắng. Trong công trình nghiên cứu
của Lê Diên Dực (1989), đã kiểm kê và công bố 32 vùng ĐNN quan trọng, cần đƣợc
bảo vệ của nƣớc ta. Trong các nghiên cứu làm cơ sở khoa học cho việc quy hoạch
các Khu bảo tồn ĐNN ở Việt Nam, Vũ Văn Dũng và Nguyễn Hữu Thắng đã thống
kê tƣơng đối đầy đủ các kiểu ĐNN là ao hồ (tự nhiên và nhân tạo), đầm phá cần quy
hoạch thành các khu bảo tồn. Sau đó là hàng loạt các công trình kiểm kê và phân loại
ĐNN của Nguyễn Hoàng Trí (1995), Phan Nguyên Hồng (1989 - 1998), Nguyễn
Chu Hồi (1995), Mai Trọng Nhuận, Đào Mạnh Tiến và cộng sự (1992 - 2003), những
công trình này đã làm rõ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của nghiên cứu ĐNN,

đánh giá tổng quan các loại hình ĐNN, tiềm năng, tình hình quản lý, sử dụng, các áp
lực, mối đe doạ, chiến lƣợc bảo vệ và phát triển bền vững ĐNN trên toàn lãnh thổ
Việt Nam [12, 13, 15, 16].
Lĩnh vực nghiên cứu thứ 2 liên quan đến ĐNN tập trung vào làm rõ đặc điểm
sinh thái và ĐDSH của các vùng ĐNN (cửa sông, đầm phá, ao hồ ), điển hình là các
công trình nghiên cứu về tài nguyên sinh thái và đa dạng sinh học các vùng ĐNN của
Vũ Trung Tạng (1994), Mai Đình Yên (1993), Đặng Ngọc Thanh (1995 - 2000).
Những công trình này đã thống kê, phân loại đƣợc nhiều quần xã sinh vật và quan
trọng là tìm hiểu đƣợc nhiều thành phần, nguồn gốc và phân bố của chúng, trong đó đã
nêu bật chức năng của vùng ĐNN nhƣ là bãi đẻ, vùng di cƣ quan trọng của một số
quần thể có ý nghĩa quốc gia và xuyên quốc gia. Chƣơng trình 64A (1982 - 1985)
nghiên cứu hậu quả chiến tranh hoá học của Mỹ lên rừng ngập mặn tỉnh Minh Hải
(GS.TS. Phan Nguyên Hồng chủ nhiệm) đã nghiên cứu sự biến đổi của thảm thực vật
RNM cũng nhƣ các giá trị thoái hoá của đất do rừng bị huỷ diệt bởi các chất diệt cỏ và
chất làm rụng lá cây, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp phục hồi RNM. Chƣơng trình
64B (1986 - 1990) nghiên cứu hậu quả lâu dài của chiến tranh hoá học lên con ngƣời
và thiên nhiên, từ đó tìm biện pháp khắc phục.
Lĩnh vực nghiên cứu thứ 3 là những nghiên cứu về địa mạo, địa lý, thuỷ văn,
địa chất môi trƣờng, khoáng sản của các vùng ĐNN. Các nghiên cứu này cũng trực
tiếp hay gián tiếp góp phần nghiên cứu nhiều đặc điểm, chức năng và giá trị của
ĐNN cũng nhƣ các yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển của hệ sinh thái

12

ĐNN (Nguyễn Địch Dĩ, Đinh Văn Thuận, Trần Đức Thạnh, Nguyễn Đức Cự, Mai
Trọng Nhuận ). Đề án “Điều tra địa chất, khoáng sản biển nông (0 - 30m nƣớc) do
Trung tâm Địa chất khoáng sản biển tiến hành (1991 - 2000) đã tổ chức nghiên cứu
các đặc trƣng vật lý, hoá học, tài nguyên ĐNN ven biển và đo vẽ bản đồ ĐNN ven
biển Việt Nam tỷ lệ 1: 500.000 (Nguyễn Biểu, Mai Trọng Nhuận, Đào Mạnh Tiến và
nnk, 2001) [3]. Từ năm 2001 - 2005, Liên đoàn Địa chất Khoáng sản biển thực hiện

dự án “Điều tra địa chất, khoáng sản và địa chất môi trƣờng và tai biến địa chất vùng
biển ven bờ (0 - 30m) Nam Trung Bộ tỷ lệ 1: 100.000”, trong đó có nghiên cứu các
đặc trƣng vật lý, hoá học, tài nguyên và mức độ tổn thƣơng ĐNN ven biển.
Một cuộc hội thảo Quốc tế về Sếu đầu đỏ và đất ngập nƣớc đƣợc tổ chức tại
Việt Nam (khu Tràm Chim, nay là VQG Tràm Chim) từ ngày 11 – 17/01/1990. Đây
là hội thảo quốc tế lần đầu tiên tổ chức ở Việt Nam với chủ đề hoàn toàn mới không
chỉ về lĩnh vực môi trƣờng sinh thái nói chung mà thực sự mới về vấn đề đất ngập
nƣớc, với những HST vùng ngập nƣớc và sinh cảnh của nó đối với những loài động
vật hoang dã, mà loài Sếu đầu đỏ đƣợc lựa chọn là loài đặc trƣng cho chƣơng trình
nghiên cứu. Trong hội thảo này các đại biểu từ nhiều trƣờng đại học hoặc viện khoa
học (ở các nƣớc Úc, Nhật, Canada, Hoa Kỳ, Ấn Độ, nhiều nƣớc Châu Âu, Phi, Á )
đã đem tới cho Việt Nam những tƣ liệu khoa học có tính thực tiễn cao về đất ngập
nƣớc, hệ sinh thái đất ngập nƣớc, phân loại đất ngập nƣớc, tổ chức quản lý và sử
dụng bền vững ĐNN. Hội thảo khoa học quốc tế nói trên đƣợc xác định là mốc lịch
sử của chƣơng trình nghiên cứu về ĐNN ở Việt Nam.
Chƣơng trình khoa học bảo vệ đất ngập nƣớc toàn cầu do WWF và IUCN
đồng chủ trì và hỗ trợ thực hiện năm 1985 - 1987 đã có ảnh hƣởng tới sự khởi động
nhận thức về lĩnh vực đất ngập nƣớc ở nƣớc ta. Cơ quan quản lý và chỉ đạo cấp Nhà
nƣớc trong các chƣơng trình nghiên cứu về ĐNN là Cục Bảo vệ môi trƣờng thuộc Bộ
Tài nguyên và Môi trƣờng đã thực sự tạo nên những định hƣớng và giải pháp phát
triển nghiên cứu, chƣơng trình hành động quản lý và bảo vệ những vùng đất ngập
nƣớc của Việt Nam.
Năm 1989, Việt Nam đã chính thức tham gia Công ƣớc Ramsar. Tuy nhiên
đến năm 2000 nƣớc ta mới thực sự quan tâm đến quản lý ĐNN, nhiều văn bản quy
phạm pháp lý liên quan về đất ngập nƣớc ra đời. Đặc biệt Nghị định của Chính phủ

13

số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng
đất ngập nƣớc là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất hiện nay và đầu tiên riêng cho

đất ngập nƣớc.
Viễn thám và GIS cũng đƣợc đƣa vào sử dụng nhƣ một công cụ cho việc
quản lý, kiểm kê và nghiên cứu biến động các vùng đất ngập nƣớc. Bằng các công
nghệ này việc thành lập các bản đồ hiện trạng, biến động ĐNN cũng trở nên dễ
dàng hơn. Một hƣớng nghiên cứu thu hút đƣợc nhiều nhà khoa học là quản lý và sử
dụng, bảo vệ ĐNN trên cơ sở phân tích điều kiện tự nhiên, đặc trƣng sinh thái khu
vực nhằm đƣa ra các biện pháp sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên quý giá này [7].
Năm 2001, Cục Môi trƣờng (nay thuộc Cục Bảo vệ Môi trƣờng) đã đề
xuất 68 khu ĐNN có giá trị ĐDSH và môi trƣờng. Năm 2002 – 2004, hợp phần
ĐNN của dự án “Ngăn chặn các xu hƣớng suy thoái môi trƣờng Biển Đông và
Vịnh Thái Lan” do Mai Trọng Nhuận chủ trì, đã lập hồ sơ 10 khu ven biển có
giá trị cao (Theo công ƣớc Ramsar).
Năm 2003, Việt Nam cũng đã có những cố gắng trong công tác nghiên cứu,
quản lý và bảo tồn ĐNN nhƣ: “Chƣơng trình bảo tồn đất ngập nƣớc quốc gia”; Nghị
định 109/2003/NĐ-CP về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng ĐNN; “Chiến lƣợc
quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010” (số 192/2003/QĐ-
TTg), v.v
Năm 2004, Phan Nguyên Hồng (2004) trong báo cáo về lịch sử nghiên cứu
ĐNN Việt Nam đã thống kê hơn 500 nghiên cứu về khí tƣợng thủy văn, địa chất, địa
mạo, ĐDSH, hệ cửa sông ven biển, hệ đầm phá, HST RNM, HST rạn san hô, thảm cỏ
biển. Các nghiên cứu này đã góp phần đóng góp vào bộ tƣ liệu nghiên cứu về ĐNN
ven biển Việt Nam [20].
Năm 2005 - 2006 Cục Bảo vệ Môi trƣờng đã báo cáo về nghiên cứu: “Tổng
quan hiện trạng đất ngập nƣớc Việt Nam sau 15 năm thực hiện công ƣớc
Ramsamsar” cũng nhƣ nghiên cứu: “Chƣơng trình bảo tồn đa dạng sinh học vùng
đất ngập nƣớc sông Mê Kông: Hệ thống phân loại Đất ngập nƣớc Việt Nam” do tác
giả Hoàng Văn Thắng, Lê Diên Dực thực hiện.

14


Những năm gần đây, các hoạt động nghiên cứu về ĐNN ở Việt Nam chủ yếu
tập trung vào các vấn đề: Vai trò môi trƣờng của các hệ sinh thái đất ngập nƣớc ở
Việt Nam đối với đa dạng sinh học trong bối cảnh biến đổi khí hậu (Tổng cục Môi
trƣờng, 2012); Định hƣớng xây dựng hệ phân loại đất ngập nƣớc của Việt Nam
(Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, 2014)… Nhằm mục đích bảo tồn và
phát triển bền vững đất ngập nƣớc Việt Nam.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã và đang triển khai rất nhiều hoạt động điều
tra, giáo dục, kiểm kê, giám sát, đánh giá và xây dựng các công cụ và kỹ thuật khác
nhau liên quan đến ĐNN tại hệ thống các VQG, KBT có vùng đất ĐNN do nhiều
tác giả và tổ chức khác tiến hành nghiên cứu, nhằm những định hƣớng chiến lƣợc
về bảo tồn, sử dụng, quản lý và phát triển bền vững các vùng ĐNN trong tƣơng lai.

1.3. Các hƣớng nghiên cứu về đa dạng sinh học, bảo tồn và phát triển Vƣờn
quốc gia Xuân Thủy
1.3.1. Trước khi thành lập Vườn quốc gia Xuân Thủy
Những nghiên cứu về đa dạng sinh học tại VQG Xuân Thủy ở giai đoạn từ
trƣớc khi đƣợc công nhận VQG chỉ có một số tài liệu điều tra bƣớc đầu về đa
dạng sinh học trong vùng: Phan Nguyên Hồng (1970), nghiên cứu thành phần loài
khu vực ven biển miền Bắc Việt Nam đã phân chia thảm thực vật thành rừng ngập
mặn, rừng gỗ bờ biển và thảm thực vật trên bãi cát trống ở bờ biển nƣớc ta, có thể
xem là ngƣời đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về quần xã thảm thực vật
ngập mặn miền Bắc Việt Nam trong đó có khu vực VQG Xuân Thủy. RNM là
một kiểu HST đất ngập nƣớc ven bờ rất đặc trƣng ở VQG Xuân Thuỷ nói riêng,
vùng cửa sông Hồng nói chung [19].
Sau đó, trong các chƣơng trình nghiên cứu tổng hợp về biển (Chƣơng trình 48
- 06 năm 1981-1985; Chƣơng trình 48B năm 1986 - 1990; Chƣơng trình KT.03) đã
có những đề tài điều tra, nghiên cứu vùng triều miền Bắc Việt Nam theo quan điểm
hệ sinh thái. Các đề tài trong các chƣơng trình biển đã xác định các kiểu cấu trúc,
diễn thế, của hệ sinh thái dƣới tác động của các yếu tố tự nhiên và các yếu tố nhân
tác, đồng thời đã đánh giá tiềm năng nguồn lợi sinh vật (động vật, thực vật, nguồn

giống tôm, cá, cơ sở thức ăn) điều kiện sinh thái thuận lợi cho phát triển nuôi trồng

15

hải sản của hệ sinh thái vùng triều, định hƣớng cho việc khai thác, sử dụng hợp lý các
tiềm năng nguồn lợi đó.
Bên cạnh chƣơng trình biển, chƣơng trình môi trƣờng (52 - 02, giai đoạn 1980
- 1985) cũng đã có đề tài nhƣ: Điều tra tổng hợp vùng cửa sông ven biển châu thổ
Bắc bộ nhằm khai thác hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng (mã số 52.02.02 do
Vũ Trung Tạng chủ nhiệm)[42].
Năm 1992, Nguyễn Xuân Dục và cộng sự tiến hành nghiên cứu về những
đặc trƣng cơ bản về điều kiện tự nhiên và nguồn lợi sinh vật của hệ sinh thái vùng
triều miền Bắc Việt Nam.
Năm 1993, Pham Nguyên Hồng và Hoàng Thị Sản đã tiến hành nghiên cứu
về khu hệ thú tại VQG Xuân Thủy, khi đó đã ghi nhận đƣợc 17 loài [60].
Năm 1995, Nguyễn Xuân Dục đã tiến hành nghiên cứu về động vật đáy vùng
cửa sông ven biển Hà Nam Ninh.
Năm 1997, 1999, Nguyễn Văn Cƣ tiến hành nghiên cứu vê tình hình Khai
thác, sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trƣờng các bãi bồi ven biển sửa sông
tỉnh Thái Bình (1997) và điều tra cơ bản tài nguyên môi trƣờng nhằm khai thác, sử
dụng hợp lý đất hoang hoá các bãi bồi ven biển cửa sông Việt Nam (1999). Cũng
trong năm 1999, Ngô Xuân Quýnh và cộng sự đã nghiên cứu về các loài cá, thực vật
nổi, động vật nổi và động vật đáy ở Khu Ramsar Xuân Thuỷ.
Năm 2002, Đỗ Văn Nhƣợng, Hoàng Ngọc Khắc, đã nghiên cứu về Giáp xác
(Crustacea) trong hệ sinh thái rừng ngập mặn xã Giao Lạc, Giao Thuỷ, Nam Định [24].

1.3.2. Sau khi thành lập Vườn quốc gia Xuân Thủy
Sau khi thành lập VQG Xuân Thủy (02/01/2003) và đƣợc tổ chức UNESCO
công nhận Khu dự trữ sinh quyển đồng ven biển châu thổ sông Hồng (tháng
12/2004). Trong đó, VQG Xuân Thuỷ là vùng lõi có tầm quan trọng đặc biệt của khu

dự trữ sinh quyển thế giới các nghiên cứu về đa dạng sinh học tại VQG Xuân Thủy
đƣợc quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn. ĐDSH trong HST vùng triều, bãi bồi cửa
sông và RNM vùng cửa sông Hồng đã đƣợc nhiều nhà khoa học thực hiện trong các
chƣơng trình, dự án nghiên cứu khác nhau ở nhiều khía cạnh. Hầu hết các đối tƣợng
sinh vật quan trọng ở đây đã đƣợc đề cập nhƣ thực vật ngập mặn, sinh vật nổi, các

16

nhóm động vật không xƣơng sống (trai, ốc, tôm, cua, giun nhiều tơ và giáp xác nhỏ),
cá, lƣỡng cƣ, bò sát, chim nƣớc. Đặc biệt khi Khu bảo tồn Thiên nhiên Xuân Thuỷ
đƣợc UNESCO chính thức công nhận là khu Ramsar (năm 1989), Chính phủ Việt
Nam nâng cấp thành Vƣờn quốc gia (năm 2003), khu vực này đã có nhiều điều tra,
nghiên cứu nhằm quy hoạch và xây dựng các luận chứng kinh tế - xã hội, khoa học
kỹ thuật và phát triển VQG Xuân Thuỷ.
Năm 2003 - 2004, trong chƣơng trình bảo vệ môi trƣờng của Bộ Tài nguyên -
Môi trƣờng, do Vũ Trung Tạng lại chủ trì dự án: Nghiên cứu đất ngập nƣớc ven biển,
lấy một số địa phƣơng ven biển đồng bằng châu thổ Bắc Bộ làm điểm nghiên cứu
chính nhƣ Thái Thụy (Thái Bình) và Giao Thuỷ (Nam Định). Trong các kết quả của
những đề tài, dự án này, các dẫn liệu về điều kiện môi trƣờng, kinh tế xã hội và nguồn
lợi sinh vật vùng vửa sông Hồng bao gồm cả Thái Thụy và Giao Thuỷ đã đƣợc phân
tích, tổng hợp và cập nhật. Đây là những cơ sở khoa học để nhóm tác giả đề xuất các
giải pháp sử dụng bền vững các dạng tài nguyên trong HST ĐNN ở đây nhƣ: Quản lý
ĐDSH và nguồn lợi sinh vật của vùng cửa sông thuộc châu thổ Bắc bộ cho sự phát
triển bền vững (PTBV) (lấy cửa Bà Lạt làm ví dụ) (Vũ Trung Tạng và cộng sự, 2003).
Nghiên cứu về các nhóm động vật đáy là giáp xác, thân mềm trong các HST
RNM tại khu vực Giao Thuỷ, Nam Định. Đỗ Văn Nhƣợng, Hoàng Ngọc Khắc và
nnk (2003, 2004), Hoàng Ngọc Khắc (2004, 2011) đã tiến hành, kết quả đã thống kê
và xác định đƣợc gần 200 loài thân mềm chân bụng, hai mảnh vỏ và giáp xác tôm,
cua ở khu vực này [22, 23, 25, 26, 27, 28].
Năm 2004, Dƣơng Ngọc Cƣờng, Trần Minh Khoa tiến hành nghiên cứu về

thành phần các loài cá thuộc các xã phía bắc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Hệ
Sinh thái RNM vùng ven biển đồng bằng sông Hồng; Về lƣỡng cƣ, bò sát theo
nghiên cứu của Lê Nguyên Ngật và Trần Giang Hoàn (2004) đã tiến hành nghiên cứu
và ghi nhận đƣợc 13 loài lƣỡng cƣ và 37 loài bò sát; Nghiên cứu về khu hệ chim tại
khu vực VQG Xuân Thủy, Lê Đình Thủy (2004) đã tiến hành nghiên cứu “tài nguyên
chim ở VQG Xuân Thủy”.
Năm 2004, Phan Nguyên Hồng, đã tiến hành những nghiên cứu về đánh giá
tính đa dạng của thảm thực vật và hệ thực vật trong môi trƣờng sinh học huyện Giao
Thủy (tỉnh Nam Định) làm cơ sở cho quy hoạch PTBV các hệ sinh thái ĐNN ven

17

biển Bắc Bộ cũng trong thời gian đó Phan Nguyên Hồng, Quản Thị Quỳnh Dao,
2004 nghiên cứu hiệu quả bảo vệ môi trƣờng và kinh tế xã hội của chƣơng trình
trồng RNM để phòng ngừa thảm họa ở 8 tỉnh ven biển phía Bắc Việt Nam. Hội thảo:
Kinh tế học môi trƣờng với việc đánh giá giá trị ĐNN.
Trong phạm vi đề tài cấp Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, vào giai
đoạn 2004 - 2005, Viện Sinh thái Tài nguyên và Sinh vật đã thực hiện điều tra, khảo
sát toàn diện về môi trƣờng và thuỷ sinh vật tại các xã Giao Lạc, Giao Xuân thuộc
khu vực VQG Xuân Thuỷ. Có thể xem đây là công trình đã đánh giá khá đầy đủ về
tình trạng môi trƣờng nƣớc tự nhiên và trong các đầm nuôi cùng với các quần xã
thuỷ sinh vật cơ bản ở đây.
Năm 2005, Vũ Trung Tạng và cộng sự nghiên cứu về quy hoạch định hƣớng
cho một số HST ĐNN ven biển Bắc Bộ mà bƣớc đầu là huyện Thái Thụy (Thái
Bình) và huyện Giao Thủy (Nam Định) phục vụ cho phát triển bên vững. Lê Xuân
Tuấn và Mai Sỹ Tuấn nghiên cứu về chất lƣợng nƣớc và sinh vật phù du trong rừng
ngập mặn tại xã Giao Lạc, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định [42].
Năm 2005, Hồ Thanh Hải và cộng sự đã quan tâm nghiên cứu tới các ảnh
hƣởng của sự ô nhiễm môi trƣờng do các hoạt động nuôi trồng thuỷ sản đến đa dạng
sinh học khu vực VQG Xuân Thuỷ.

Năm 2006, trong chƣơng trình BirdLife Quốc tế tại Việt Nam với sự tài trợ
của Quỹ Bảo tồn thiên nhiên Keidanren. Nguyễn Đức Tú, Lê Mạnh Hùng, Lê Trọng
Trải, Hà Quý Quỳnh, Nguyễn Quốc Bình, Richard Thomas nghiên cứu về Bảo tồn
các vùng đất trọng yếu ở đồng bằng Bắc Bộ: Đánh giá lại các vùng chim quan trọng
sau mƣời năm.
Năm 2007, Phan Nguyên Hồng, Lê Xuân Tuấn, Phan Thị Anh Đào (2007),
đƣợc sự hỗ trợ của tổ chức MERC – MCD đã tiến hành nghiên cứu về đa dạng sinh
học ở vƣờn quốc gia Xuân Thủy.
Năm 2008, Đào Mạnh Sơn, Nguyễn Dƣơng Thạo, Nguyễn Quang Hùng
nghiên cứu và đánh giá khía cạnh các tác động môi trƣờng tại các đầm nuôi tôm
trong vùng lõi vƣờn quốc gia Xuân Thủy, Nam Định.
Năm 2008, Chƣơng trình Liên minh đất ngập nƣớc quốc tế (WAP), thực hiện từ
năm 2008 – 2012. Dự án tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu hỗ trợ sinh kế bền vững nhƣ:

18

“Trồng nấm, nuôi ong, làm VAC, nghiên cứu quy hoạch nuôi ngao bền vững, nghiên cứu
quy hoạch phát triển các sinh kế thay thế bền vững ” Song song với các sinh kế là các
hoạt động tăng cƣờng năng lực cho Ban quản lý VQG và các bên liên quan thông qua các
chƣơng trình giám sát và đào tạo kỹ năng.
Tới 2010, trong khuôn khổ dự án Quy hoạch chi tiết Khu bảo tồn vùng nƣớc
nội địa cấp quốc gia cửa sông Hồng, Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2010) đã tổ chức
điều tra, khảo sát điều kiện tự nhiên, tình trạng ĐDSH và kinh tế - xã hội ở khu vực
cửa sông này, trong đó, có VQG Xuân Thuỷ.
Trong năm 2010, đƣợc sự tài trợ của chƣơng trình Liên Minh đất ngập nƣớc
(WAP), đặc biệt là sự hỗ trợ của Viện phát triển các nguồn lực ven biển Á Châu tại
Việt Nam (CORIN - Asia Vietnam), văn phòng Dự án Quản lý tổng hợp vùng bờ -
Sở Tài nguyên và Môi trƣờng tỉnh Nam Định cùng với Ban quản lý VQG Xuân Thuỷ
và các đối tác địa phƣơng tổ chức xây dựng báo cáo: “Ứng dụng công nghệ GIS đánh
giá sơ bộ sự biến động tài nguyên vùng bờ khu vực VQG Xuân Thuỷ thời kỳ 1989

đến 2007”. Các kết quả của báo cáo này cho thấy rõ sự biến động rất lớn về đƣờng
bờ VQG Xuân Thuỷ trong thời gian 1989 đến 2007. Diễn biến đƣờng bờ là yếu tố
quyết định chiều hƣớng diễn thế sinh thái vùng, tốc độ bồi tụ quyết định tộc độ diễn
thế sinh thái. Các đặc trƣng chính của diễn thế sinh thái ở đây là sự thay đổi cấu trúc
thành phần loài thảm thực vật và sự dịch chuyển thảm thực vật ngập mặn, kèm theo
là biến đổi quần xã động vật.
Năm 2010, Sở Tài nguyên và Môi trƣờng Nam Định với sự hỗ trợ tài chính
của Chƣơng trình Liên minh Đất ngập nƣớc và tƣ vấn kỹ thuật của Viện phát triển
các nguồn lực ven biển châu Á (CORIN-Asia) đã thực hiện đánh giá hiện trạng môi
trƣờng nƣớc mặt tại VQG Xuân Thuỷ và thể hiện trên bản đồ phân vùng đồng mức
một số yếu tố môi trƣờng nƣớc bằng công nghệ GIS. Theo kết quả điều tra, chất
lƣợng môi trƣờng khu vực VQG Xuân Thuỷ có sự ô nhiễm cục bộ tại một số điểm
vƣợt quá tiêu chuẩn Theo tiêu chuẩn (QCVN 10: 2008/BTNMT) nhƣ sắt (Fe), asen
(As) trong nƣớc ngầm.
Năm 2011, Cục Bảo tồn ĐDSH phối hợp với Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật đã tổ chức chuyến khảo sát tại VQG Xuân Thuỷ trong khuôn khổ nhiệm vụ

19

môi trƣờng của Tổng cục môi trƣờng nhằm Xây dựng Chƣơng trình quan trắc ĐNN
thí điểm tại VQG Xuân Thuỷ.
Năm 2011, Nguyễn Thanh Hải đã nghiên cứu về hiện trạng tài nguyên sinh
vật VQG Xuân Thuỷ, tỉnh Nam Định. Đến năm 2012, tác giả đã tiến hành công trình
nghiên cứu đánh giá bảo tồn đa dạng sinh học một số loài quý hiếm tại khu vực VQG
Xuân Thủy.
Năm 2011, Dự án: “Nghiên cứu biến đổi khí hậu, các vấn đề sử dụng đất và cơ
chế thích nghi” do DANIDA tài trợ cho Trung tâm nghiên cứu biến đối khí hậu - Đại
học quốc gia Hà Nội chủ trì phối hợp thực hiện với các đối tác địa phƣơng vùng châu
thổ sông Hồng, trong đó VQG Xuân Thuỷ đƣợc chọn làm điểm trọng yếu. Dự án đó
thực hiện các hoạt động nghiên cứu quan trắc biến đổi khí hậu ở khu vực, các thay đổi

về sử dụng đất của cộng đồng ven biển ở khu vực và đề xuất các giải pháp thích nghi.
Năm 2011, Dự án khắc phục trở ngại nhằm tăng cƣờng hiệu quả quản lý các
khu bảo tồn ở Việt Nam (2011 - 2015) do Quỹ Môi trƣờng Toàn cầu tài trợ thông
qua Chƣơng trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP). Cơ quan chủ quản dự án là
Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng, cơ quan đồng thực hiện là Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn. Trong năm 2013, 2014, Dự án đã phối hợp với Ban quản lý VQG
Xuân Thuỷ và chuyên gia tƣ vấn tiến hành quan trắc các chỉ thị kinh tế xã hội và một
số chỉ thị về ĐDSH để tạo thành một bộ dẫn liệu đầy đủ, cập nhật nhất về hiện trạng
môi trƣờng, kinh tế - xã hội và đa dạng sinh học của VQG Xuân Thuỷ.
Năm 2013, tổ chức JICA NBDS tiến hành tài trợ cho hoạt động: “Xây dựng
cơ sở dữ liệu quốc gia về ĐDSH” lấy VQG Xuân Thuỷ làm nơi điều tra, nghiên cứu
điểm. Trong giai đoạn 2012-2014, dự án đã thực hiện 02 chuyến điều tra tổng hợp về
môi trƣờng, kinh tế - xã hội và ĐDSH vào tháng 12/2012 (chuyến điều tra về mùa
đông) và tháng 7/2013 (mùa hè); 02 chuyến quan trắc thử nghiệm ĐDSH (tháng
12/2013 và tháng 6/2014) trên cơ sở sử dụng bộ chỉ thị ĐDSH đã đƣợc các chuyên
gia Việt Nam và Nhật Bản xây dựng. Kết quả là đã có đƣợc bộ dẫn liệu đƣợc cập
nhật đầy đủ và hệ thống hoá về tình trạng môi trƣờng, kinh tế - xã hội và ĐDSH của
VQG Xuân Thuỷ. Đặc biệt, các dẫn liệu về vị trí phân loại loại học và thành phần
loài sinh vật đƣợc tích hợp trong cơ sở dữ liệu của Dự án. Ngoài ra, bộ chỉ thị ĐDSH

20

tiềm năng và chỉ thị sử dụng ngay của VQG Xuân Thuỷ cũng nhƣ quy trình kỹ thuật
sử dụng chỉ thị quan trắc ĐDSH đƣợc xây dựng bƣớc đầu.
Dự án khắc phục trở ngại nhằm tăng cƣờng hiệu quả quản lý các khu bảo tồn
ở Việt Nam (2011 - 2015) do Quỹ Môi trƣờng Toàn cầu tài trợ thông qua Chƣơng
trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP). Cơ quan chủ quản dự án là Bộ Tài
nguyên và Môi trƣờng, cơ quan đồng thực hiện là Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn. Trong năm 2013, 2014, dự án đã phối hợp với Ban quản lý VQG Xuân
Thuỷ và chuyên gia tƣ vấn tiến hành quan trắc các chỉ thị kinh tế xã hội và một số chỉ

thị về ĐDSH để tạo thành một bộ dẫn liệu đầy đủ, cập nhật nhất về hiện trạng môi
trƣờng, kinh tế - xã hội và đa dạng sinh học của VQG Xuân Thuỷ.
Thời gian gần đây, cùng với sự hỗ trợ, tƣ vấn của các tổ chức phi Chính phủ
và các quỹ bảo tồn nhƣ: Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO), trung tâm Bảo tồn Sinh
vật biển và Phát triển Cộng đồng (MCD), Viện Phát triển các nguồn lực ven biển Á
châu (CORIN-Asia), Chƣơng trình Phát triển của Liên hợp quốc UNDP, Quỹ tài trợ
VinaCapital (VCF) VQG Xuân Thủy cũng triển khai khá nhiều chƣơng trình, dự án
nhƣ: Chƣơng trình liên minh đất ngập nƣớc (WAP); Dự án phát triển cơ sở dữ liệu về
đa dạng sinh học tại Việt Nam; Dự án tăng cƣờng năng lực và hỗ trợ thực hiện cơ chế
chia sẻ lợi ích, đồng quản lý, du lịch sinh thái cộng đồng Mang lại những thành
công nhất định góp phần bảo tồn bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển
cộng đồng địa phƣơng.
Từ những nét khái quát về tình hình điều tra, nghiên cứu nhƣ kể trên cho
thấy điều kiện tự nhiên cũng nhƣ về ĐDSH và nguồn lợi sinh vật vùng triều cửa
sông Hồng nói chung, VQG Xuân Thuỷ nói riêng đã đƣợc nhiều nhóm tác giả của
nhiều cơ quan, tổ chức nghiên cứu khác nhau thực hiện với nhiều mục tiêu và
hƣớng nghiên cứu khác nhau. Nhƣng có thể thấy hầu hết có mục tiêu chung là có
đƣợc dẫn liệu về hiện trạng môi trƣờng tự nhiên, kinh tế - xã hội và ĐDSH nhằm
quy hoạch phát triển, quản lý và sử dụng hợp lý các dạng tài nguyên thiên nhiên
cũng nhƣ bảo vệ nguồn lợi sinh vật, bảo tồn ĐDSH tại khu vực nghiên cứu.

×