Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Những vấn đề cơ bản về phân phối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.49 KB, 28 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
Trong một xã hội với nền sản xuất hiện đại thì phân phối là một khâu
không thể thiếu đợc của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất với sản
xuất, sản xuất với tiêu dùng. Chính nhờ phân phối mà quá trình sản xuất và
tái sản xuất đợc diễn ra không ngừng. Mặt khác, quan hệ phân phối còn là
một yếu tố rất quan trọng của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ
giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội.

Do vậy, việc nghiên cứu về phân phối là hết sức cần thiết, đặc biệt là
trong giai đoạn kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay. Bởi vì, khi chuyển sang
nền kinh tế thị trờng hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối (chẳng
hạn nh phân phối thu nhập) sao cho phù hợp với nguyên lý kinh tế thị tr-
ờng cũng nh sự tác động của chúng tới sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi
phải có t duy mới, khoa học hơn trong việc nhìn nhận, đánh giá và đa ra
các quyết định thuộc về lĩnh vực phân phối.
Giải quyết tốt vấn đề phân phối sẽ tạo ra động lực to lớn làm thúc đẩy
sự tăng trởng và phát triển ổn định của nền kinh tế đất nớc. Tuy nhiên, đây
là một vấn đề xã hội lớn lao mà trong phạm vi của vài viết này không thể
giải quyết một cách trọn vẹn đợc. ở đây chúng ta sẽ chỉ nghiên cứu những
vấn đề cơ bản nhất về phân phối nhằm mục đích sử dụng có hiệu quả
những quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trờng của nớc ta hiện nay.

Về cơ bản, bài viết này sẽ gồm những phần sau:
Phần I: Lý luận chung về phân phối.
Trong phần này sẽ trình bày những nét cơ bản nhất về bản chất, vai trò của
phân phối và sự so sánh sự khác nhau giữa phân phối trong chủ nghĩa t bản
với phân phối trong chủ nghĩa xã hội.
Phần II: Vai trò động lực của phân phối trong nền kinh tế thị trờng ở
Việt Nam.


1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ở phần này, thông qua việc nghiên cứu các hình thức phân phối và các
hình thức thu nhập, chúng ta sẽ thấy đợc vai trò tạo ra động lực cho sự phát
triển kinh tế của quan hệ phân phối thể hiện nh thế nào.
Em xin chân thành cám ơn sự hớng dẫn của thầy đã giúp em có
thể hoàn thành bài đề án này.
Hà nội tháng 5 năm 2001.
Sinh viên
Phạm Ngọc Dậu

2
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Phần I:
lý luận chung về phân phối.
I/B ản chất, vai trò và cở sở kinh tế của quan hệ phân phối:
1. Bản chất của phân phối:
Trớc hết, chúng ta hãy cùng làm rõ bản chất của phân phối.
Khi xem xét hoạt động kinh tế của xã hội, chúng ta thấy rằng trong xã
hội luôn tồn tại mối quan hệ giữa ngời sản xuất vầ sản phẩm. Với nền kinh
tế hàng hoá, ngời sản xuất không trở thành chủ sở hữu của sản phẩm đó
ngay lập tức. "Phân phối xen vào gữa ngời sản xuất và sản phẩm, thông
qua những quy luật xã hội, phân phối quy định phần dành cho ngời sẩn
xuất trong khối sản phẩm, do đó, phân phối xen vào giữa sản xuất và tiêu
dùng", Cácmác.
Tuy nhiên, phân phối không phải là một lĩnh vực độc lập đứng bên
cạnh sản xuất. Tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về t liệu
sản xuất quyết định. Bản thân phân phối là sản phẩm của sản xuất không
phải chỉ về mặt nội dung, vì nếu không có sản xuất thì ngời ta sẽ phân phối

cái gì, phân phối nh thế nào, mà còn về cả mặt hình thức, vì phơng thức
tham gia vào sản xuất của con ngời sẽ quyết định hình thái đặc thù của
phân phối.
Trong lịch sử đã có những nhà kinh tế chính trị học xem phân phối nh
là một nhân tố có trớc sản xuất bởi vì khi xem xét sự phân phối trong xã
hội: với mỗi cá nhân, địa vị của họ do sự phân phối từ trớc để lại; còn khi
xét chung về mặt xã hội, phân phối biểu hiện ra là phân phối sản phẩm nên
dờng nh không liên quan đến sản xuất, độc lập với sản xuất. Nhng trớc khi
là phân phối sản phẩm thì phân phối là: phân phối công cụ sản xuất, phân
phối các thành viên lao động; rõ ràng phân phối sản phẩm chỉ là kết quả
của sự phân phối này, mà sự phân phối này thì đã bao hàm trong sản xuất.
Qua đây, chúng ta khẳng định phân phối là sản phẩm của sản xuất.
Do vậy, nó bị chi phối bởi phơng thức sản xuất. Mỗi hình thái phân phối
tồn tại và biến đi cùng lúc với phơng thức sản xuất đã sinh ra nó. điều này
chứng tỏ, về mặt bản chất, quan hệ phân phối là nhất trí với quan hệ sản

3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xuất ấy, chúng cấu thành mặt sau của các quan hệ sản xuất. Và vì thế, cả
hai đều có chung một tính chất lịch sử nhất thời ấy.
Tuy vậy, phân phối không phải chỉ đơn thuần là một kết quả tiêu cực
của sản xuất và trao đổi. Nó cũng tác động lại mạnh mẽ nh thế đến cả sản
xuất lẫn trao đổi. Bởi vì bất cứ phơng thức sản xuất mới nào và bất cứ hình
thức trao đổi mới nào, lúc đầu không những bị những hình thức cũ và
những thiết chế chính trị ấy ngăn trở, mà còn bị phơng thức phân phối cũ
ngăn trở nữa. Phải trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài, phơng thức sản xuất
mới mới giành đợc sự phân phối thích ứng với nó. Mặt khác, một phơng
thức sản xuất nhất định càng linh hoạt bao nhiêu, càng dễ phát triển bao
nhiêu thì sự phân phối càng chóng đạt tới trình độ thoát khỏi ngay chính
những điều kiện đã đẻ ra nó và càng trở nên mâu thuẫn với phơng thức sản

xuất, trao đổi cũ bấy nhiêu.
Ví dụ nh trong chủ nghĩa t bản, sự tồn tại của nó cha bao lâu, nhất là từ
khi có đại công nghiệp, tức là mới cha đầy một trăm năm, mà trong thời
gian ngắn ngủi đó, nó đã đẻ ra những mâu thuẫn trong sự phân phối- một
đằng là sự tập trung t bản với khối lợng của cải khổng lồ vào tay một số ít
ngời trong xã hội, còn phía bên kia là phần lớn quần chúng lao động không
có tài sản. Với mâu thuẫn này tất yếu sẽ đa nền sản xuất t bản chủ nghĩa
đến chỗ diệt vong.
2. Vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội:
Nh ở trên chúng ta thấy rằng phân phối là một phạm trù kinh tế trừu t-
ợng. Do đó, để nghiên cứu về quan hệ phân phối cũng nh để thấy đợc vai
trò của nó thì ta phải thông qua các hình thức biểu hiện của phân phối.
Khi bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ănghen
cho rằng: "sự phân phối chừng nào mà còn bị những lý do thuần tuý kinh
tế chi phối, thì nó sẽ đợc điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ
đợc thuận lợi trên hết trong mọi phơng thức phân phối mà mọi thành viên
trong xã hội có thể phát triển , duy trì và thực hành những năng khiếu của
họ một cách toàn diện nhất".

4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Để hiểu đợc ý nghĩa lời nói của Ănghen, trớc hết chúng ta phải tìm hiểu
thế nào là lợi ích kinh tế, nó chi phối đến cá nhân cũng nh xã hội nh thế
nào.
Chúng ta biết rằng, trong mỗi hình thái kinh tế xã hội đều bao gồm một
hệ thống phức tạp các lợi ích. Trong hệ thống lợi ích phức tạp đó, lợi ích
kinh tế có ý nghĩa quyết định nhất. Bởi vì, "lợi ích kinh tế là những quan
hệ kinh tế phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan về sự hoạt
động của các giai cấp, những nhóm xã hội hay của từng ngời lao động
riêng biệt, do quan hệ sản xuất quyết định", (định nghĩa lợi ích kinh tế,

giáo trình kinh tế chính trị).
Là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế và quy luật kinh tế trong
một phơng thức sản xuất nhất định, lợi ích kinh tế bao giờ cũng mang tính
chất lịch sử và giai cấp. Tơng ứng với trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất, mức độ thoả mãn các nhu cầu về lợi ích của từng giai cấp trong xã
hội là khác nhau, do tính chất của quan hệ sản xuất quyết định. Tính giai
cấp ảnh hởng rất sâu sắc và chi phối mạnh mẽ tới hệ thống lợi ích trong xã
hội.
Ví dụ, trong xã hội t bản chủ nghĩa, các nhà t bản sở hữu t liệu sản xuất và
bóc lột công nhân làm thuê để tối đa hoá lợi ích của mình. Do vậy, mâu
thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp luôn tồn tại trong xã hội t bản.
Với tính cách là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế
có vai trò là động lực mạnh mẽ đối với nền kinh tế. Sở dĩ chủ nghĩa t bản
vẫn tồn tại và phát triển đợc là do các nhà t bản luôn có những cải tiến
trong kỹ thuật, thay đổi hình thức bóc lột... và vẫn thu đợc lợi nhuận cao.
Và, ở một mức độ sâu hơn, tức là khi phơng thức sản xuất còn là bình th-
ờng đối với xã hội thì nói chung ngời ta vẫn bằng lòng với sự phân phối đó
của xã hội. Và chỉ khi nào phơng thức sản xuất đó đã đi vào giai đoạn
thoái trào của nó, khi mà nó không còn những điều kiện để tồn tại; chỉ khi
đó, sự phân phối trở nên ngày càng chênh lệch thêm, bất công ngày càng
sâu sắc thêm. Khi đó ngời ta mới cần đến một cuộc cách mạng để xoá bỏ
phơng thức sản xuất đã lỗi thời này để xây dựng nên một phơng thức sản
xuất mới cao hơn. Chủ nghĩa t bản cũng vậy, càng phát triển, mâu thuẫn về
lợi ích giữa các giai cấp trong lòng nó càng sâu sắc mà bản thân nó không

5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể nào khắc phục nổi. Do đó, tất yếu sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa
t bản để nhờng chỗ cho một hình thái xã hội mới cao hơn, xã hội xã hội
chủ nghĩa.

Đối với nền kinh tế thị trờng trong thời kỳ quá độ ở nớc ta hiện nay, do
sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau dựa trên nhiều hình thức
sở hữu về t liệu sản xuất tạo nên tính phức tạp trong cơ cấu xã hội, giai cấp
cũng nh trong quan hệ lợi ích kinh tế. Do vậy, quan hệ phân phối muốn
phát huy đợc vai trò động lực của mình thì phải khuyến khích đợc các giai
cấp, tầng lớp hoạt động tích cực, tức là phải đảm bảo lợi ích kinh tế cho
họ. Tuy nhiên, các giai cấp, tầng lớp phải thống nhất ở lợi ích chung của
toàn xã hội. Có nh vậy, xã hội mới phát triển lành mạnh theo định hớng xã
hội chủ nghĩa.
3. Cơ sở kinh tế của sự phân phối:
Khi tìm hiểu cơ sở kinh tế của sự phân phối, chúng ta nghĩ ngay đến
việc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã
hội. Tuy nhiên, phân phối bao hàm cả phân phối cho sản xuất đợc xem nh
là yếu tố của sản xuất còn phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của quá
trình sản xuất. Để quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng đợc diễn
ra không ngừng, tổng sản phẩm sản xuất ra không thể phân phối ngay cho
mọi ngời. Do vậy, mọi ý kiến cho rằng sản phẩm sản xuất ra phải chia đều
cho mọi ngời là phi thực tế và không thể thực hiện đợc, có chăng là trong
xã hội nguyên thuỷ. Bởi vì, trong một xã hội phát triển với nền sản xuất
lớn thì một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội phải dùng để bù đắp những
khoản chi phí, dự phòng, tích luỹ... phần còn lại mới dành cho phân phối
tiêu dùng. Theo C.Mác, phần trích ra đó bao gồm:
Phần bù đắp những t liệu sản xuất đã hao phí;
Phần để mở rộng sản xuất;
Lập quỹ tự trữ đề phòng khi tai nạn bất ngờ.
Chúng ta thừa nhận phần trích này là một điều tất yếu về kinh tế, vì khôi
phục và mở rộng sản xuất là để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã
hội. Phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội sẽ dành cho tiêu dùng. Nhng
trớc khi phân phối trực tiếp cho cá nhân, còn phải trích một phần để:


6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chi phí về quản lý hành chính và tổ chức, bảo vệ Tổ quốc.
Mở rộng các sự nghiệp phúc lợi công cộng và cứu tế xã hội.
Sau đó, phần còn lại sẽ đợc trực tiếp phân phối cho tiêu dùng cá nhân
của những ngời làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với số lợng và
chất lợng của lao động cũng nh số lợng vốn và tài sản mà họ đã đóng góp
vào quá trình sản xuất.
II/ Phân phối d ới chủ nghĩa t bản:
Để so sánh chủ nghĩa t bản với chủ nghĩa xã hội và để hiểu rõ hơn về
phân phối, chúng ta hãy xem xét sự phân phối trong xã hội t bản chủ
nghĩa.
Nh chúng ta đã biết, phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa dựa trên cơ
sở chế độ t hữu về t liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê nên tơng
ứng với nó là hình thức phân phối bất bình đẳng.
Xét về sự phân phối cho sản xuất, dới chủ nghĩa t bản mọi t liệu sản
xuất đều thuộc về nhà t bản còn ngời lao động là những ngời vô sản.
Sự phân phối nh vậy về t liệu sản xuất tất yếu dẫn đến những bất công
trong sự phân phối về sản phẩm của lao động.
Ngời công nhân tham gia vào quá trình sản xuất dới hình thái lao động làm
thuê nên sẽ tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm lao động dới hình
thái tiền lơng (tiền công lao động).
Tiền lơng là tiền công mà t bản trả cho công nhân khi anh ta làm việc cho
nhà t bản trong một khoảng thời gian nhất định để sản xuất ra một lợng
hàng hoá nào đó.
Thực chất của tiền lơng dới chủ nghĩa t bản là giá trị hay giá cả của sức
lao động. Nhng nó lại biểu hiện ra thành giá trị hay giá cả của lao động.
Nhà t bản có hai hình thức tính tiền lơng cơ bản là tiền lơng theo sản
phẩm và tiền lơng tính theo thời gian. Tuy nhiên, đó chỉ là những cách
khác nhau của nhà t bản để chiếm đoạt giá trị thặng d của ngời công nhân

lao động nhng lại để họ tởng rằng lao động của mình đã đợc trả công đầy
đủ. Thực chất, ngời công nhân càng lao động khẩn trơng hơn, họ càng bị
bóc lột nhiều hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt giữa tiền lơng danh nghĩa và
tiền lơng thực tế cũng là một nguyên nhân làm giảm mức sống thực tế của

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngời lao động. Từ đó, sự khác biệt về mức sống giữa các giai cấp trong xã
hội càng lớn và mâu thuẫn xã hội càng gay gắt.
Đối lập với giai cấp công nhân là giai cấp t sản. Sở hữu mọi t liệu sản
xuất, giai cấp t sản đợc phân phối sản phẩm lao động dới hình thái lợi
nhuận, lợi tức hoặc địa tô.
1/ Lợi nhuận và lợi tức:
Hình thái này của giá trị thặng d là một quan hệ chi phối việc tái sản
xuất. Tuy vậy, t bản không đợc tiêu dùng tự do phần lợi nhuận của mình
bởi nhu cầu dự trữ và tái sản xuất mở rộng. Không biểu hiện thành nhân tố
chủ yếu của phân phối sản phẩm , lợi nhuận biểu hiện thành một nhân tố
chủ yếu của bản thân việc sản xuất sản phẩm, thành một nhân tố phân phối
t bản và lao động trong các ngành sản xuất khác nhau. Việc phân chia lợi
nhuận thành lợi nhuận doanh nghiệp và lợi tức biểu hiện ra là việc phân
phối cùng một khoản thu nhập. Tuy nhiên, sự phân chia đó phát sinh từ sự
phát triển của chủ nghĩa t bản với t cách là giá trị sáng tạo ra giá trị và giá
trị thặng d. Tức là nó phát sinh từ hình thái xã hội nhất định. Từ đó, nó
sinh ra các hình thức tín dụng và ngân hàng, các hình thái của sản xuất.
Trong lợi tức, cái gọi là hình thái của phân phối gia nhập vào giá cả và đ-
ợc xem nh là nhân tố của sản xuất.
2/ Địa tô:
Với địa tô, đó là phần nhận đợc của nhà t bản sở hữu ruộng đất nông
nghiệp khi cho thuê ruộng đất. Mặc dù không đảm nhiệm một chức năng
nào trong quá trình sản xuất nhng do dới chủ nghĩa t bản, ruộng đất đợc

kinh doanh theo kiểu t bản chủ nghĩa nên địa tô đợc xem nh là thu nhập
của địa chủ trong phân phối tổng sản phẩm sản xuất ra. Đồng thời, nó
cũng là đặc thù của phơng thức sản xuất theo kiểu t bản.
*Nhận xét chung:
Nghiên cứu quan hệ phân phối trong chủ nghĩa t bản, chúng ta thấy đó
thực sự là một hình thức phân phối bất bình đẳng do quan hệ giai cấp tạo
nên. Sự bất bình đẳng này có nguyên nhân từ bản thân quan hệ sản xuất t

8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bản chủ nghĩa và do đó không thể khắc phục đợc. Những cải thiện trong
phúc lợi xã hội của chủ nghĩa t bản giai đoạn hiện nay chỉ là một thủ đoạn
của giai cấp thống trị nhằm xoa dịu mâu thuẫn xã hội; làm cho công nhân
và nhân dân lao động tởng rằng họ đợc xã hội u đãi đầy đủ. Tuy nhiên, lực
lợng sản xuất càng phát triển, tự nó sẽ ý thức đợc sứ mệnh lịch sử của
mình trong việc đập tan quan hệ sản xuất đã lỗi thời và xây dựng nên một
hình thái xã hội mới công bằng hơn.
III/ Q uan hệ phân phối trong chủ nghĩa cộng sản:
Cái mà làm cho ngời ta phân biệt rõ nét nhất giữa các xã hội với nhau đó
là hình thức phân phối của xã hội đó. Ví dụ, trong xã hội nguyên thuỷ,
cuộc sống bầy đàn và sự phân chia sản phẩm lao động bình đẳng là nét đặc
trng tiêu biểu; còn trong xã hội t bản, đó là chế độ t hữu và sự phân hoá
giàu nghèo sâu sắc...chính vì vậy mà nhiều nhà kinh tế chính trị cổ điển
nh Ricacdo đã từng coi phân phối là đối tợng duy nhất của kinh tế chính trị
học. Bởi vì, do trực quan họ thấy rằng những hình thái phân phối là biểu
hiện rõ nhất ghi lại các nhân tố của sản xuất trong một xã hội nhất định.
Chủ nghĩa xã hội đối lập mình với chủ nghĩa t bản cũng lấy quan hệ
phân phối làm điểm trọng yếu. Và sau đây, chúng ta hãy cùng nghiên cứu
quan hệ phân phối trong xã hội xã hội chủ nghĩa để thấy đợc sự khác biệt
của nó với chủ nghĩa t bản.

*Các hình thức phân phối trong chủ nghĩa cộng sản:
Chủ nghĩa cộng sản, theo quan điểm của Mác, là hình thái xã hội cao
hơn chủ nghĩa t bản. Tuy nhiên, "đó không phải là một xã hội đã phát triển
trên những cơ sở riêng của nó, mà trái lại, là một xã hội cộng sản vừa mới
từ xã hội t bản thoát ra; vì vậy, về mọi mặt kinh tế, đạo đức, trí tuệ, xã hội
ấy còn mang những dấu vết của xã hội cũ, xã hội đã đẻ ra nó",Các Mác.
Mác gọi đó là giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản.
Trong xã hội này, t liệu sản xuất không còn là của riêng cá nhân nữa
mà thuộc về toàn thể xã hội. Mỗi thành viên khi tham gia vào lao động sản
xuất sẽ đợc trả công tơng xứng với phần mình đã cống hiến cho xã hội, sau
khi đã khấu trừ đi số lợng lao động góp vào quỹ chung của xã hội. Nh vậy

9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thì giữa các cá nhân sẽ không ngang nhau do sự khác biệt về trình độ, sức
khoẻ... quyết định.
Mác thừa nhận không thể thực hiện đợc công bằng và bình đẳng trong
giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Về mặt của cải, vẫn còn chênh lệch,
mà những chênh lệch này là bất công. Tuy nhiên, sẽ không còn tình trạng
ngời bóc lột ngời vì không còn ai đợc chiếm hữu t liệu sản xuất, đất đai
làm của riêng. Để đạt đợc điều này, vẫn cần có Nhà nớc để vừa bảo vệ chế
độ công hữu về t liệu sản xuất vừa bảo vệ quyền bình đẳng về lao động và
bình đẳng trong việc phân chia các sản phẩm.
Nhà nớc sẽ tiêu vong chừng nào trong xã hội không còn có các giai cấp
mâu thuẫn nhau về lợi ích, tức là không còn có giai cấp nào để trấn áp nữa.
Để Nhà nớc mất hẳn đi phải chờ đến chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn.
Mác nói:" trong giai đoạn cao của xã hội cộng sản, khi mà con ngời
không còn phụ thuộc một cách nô lệ vào sự phân công nữa, và sự đối lập
giữa lao động trí óc với lao động chân tay cũng theo đó mà không còn nữa;
khi mà lao động sẽ không phải chỉ là một phơng tiện để sinh sống nữa, mà

tự nó sẽ biến thành một nhu cầu bậc nhất cho đời sống; khi mà lực lợng
sản xuất cũng đã tăng lên cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân
và tất cả những nguồn tài phú công cộng đều tuôn ra dồi dào, thì chỉ khi đó
ngời ta mới có thể hoàn toàn vợt khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền t
sản và xã hội mới có thể ghi trên là cờ của mình:"Làm hết năng lực, hởng
theo nhu cầu!".
Theo quan điểm t sản, ngời ta có thể xem chế độ xã hội nh vậy là
"thuần tuý ảo tởng" và chế giễu việc xã hội chủ nghĩa đã hứa cho mỗi công
nhân đợc quyền muốn lấy của xã hội bao nhiêu của cải cũng đợc mà
không cần biết anh ta đã làm gì cho xã hội. Mà thực chất, đây là dự kiến
lôgic của những nhà xã hội chủ nghĩa vĩ đại về một giai đoạn cao của chủ
nghĩa cộng sản sẽ đến, và việc đó lại giả định rằng năng suất lao động lúc
đó sẽ khác năng suất lao động ngày nay, cũng nh sự phát triển hoàn thiện
hơn về năng lực cũng nh phẩm chất của con ngời khi ấy.
Trên đây chúng ta đã phân tích hai giai đoạn của hình thái xã hội
cộng sản đó là xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Và chúng ta phải
phân biệt đợc một cách khoa học sự khác nhau giữa hai giai đoạn này. Để

10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
từ đây chúng ta sẽ nghiên cứu về phân phối trong giai đoạn của nớc ta hiện
nay.

Phần II:
vai trò động lực của phân phối trong nền kinh tế
thị trờng ở việt nam.
I/ Quan hệ phân phối trong thời kỳ quá độ ở n ớc ta hiện nay:
Nớc ta chủ trơng xây dựng chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Mác.
Tuy nhiên, để đạt tới chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lâu dài và gian
khó. Nó đòi hỏi chúng ta không chỉ phải nỗ lực rất lớn mà còn cần phải có

đờng lối, chính sách đúng đắn, hiệu quả trong từng giai đoạn đi lên, đặc
biệt là trong thời kỳ quá độ hiện nay. Sự phức tạp của thời kỳ quá độ thể

11

×