Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TÀI LIỆU ÔN TẬP NGỮ VĂN 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.64 KB, 20 trang )

Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
BÀI 1:LƯU BIỆT KHI XUẤT DƯƠNG
(Xuất dương lưu biệt)
PHAN BỘI CHÂU
I – TIỂU DẪN
1 – Phan Bội Châu
- Phan Bội Châu (1867 – 1940) tên thuở nhỏ là Phan Văn San, biệt hiệu chính là Sào Nam, quê ở
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Vào những năm cuối thế kỉ XIX, ông là một trong những nhà nho đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm
một con đường cứu nước mới. Sau khi đỗ Giải nguyên (1900), ông lập ra Duy tân hội. Theo chủ trương
của hội, ông lãnh đạo phong trào Đông du và xuất dương sang Nhật Bản (1905).
- Năm 1925, thực dân Pháp bắt cóc ông ở Thượng Hải (Trung Quốc), đưa về nước, định bí mật thủ
tiêu. Nhân dân đấu tranh sôi sục, nhà cầm quyền buộc phải đưa ông ra xử công khai tại Hà Nội. Phan Bội
Châu được trắng án, nhưng bị giam lỏng ở Huế cho đến lúc qua đời.
- Không những là nhà yêu nước và cách mạng, Phan Bội Châu còn là nhà văn lớn. Tác phẩm
chính của ông : Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ngục trung thư (1914)…
- Thơ của Phan Bội Châu thể hiện khả năng tư duy nhạy bén và không ngừng đổi mới, tài năng
sáng tạo đa dạng, phong phú bằng những vần thơ sục sôi nhiệt huyết của mình.
2 – Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương
Vào những năm đầu thế kỉ XX, đối với các nhà yêu nước Việt Nam, hướng về Nhật Bản cũng có
nghĩa là hướng về một chân trời mới đầy hi vọng và ước mơ. Năm 1905, trước lúc lên đường sang Nhật
Bản, ông làm bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để từ giã bạn bè, đồng chí.
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
Có thể nói Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động cách mạng chống thực dân
Pháp. Cuộc đời Phan Bội Châu hoàn toàn hi sinh cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và những
thập niên đầu thế kỉ XX. Thơ văn ông là vũ khí tuyên truyền, vận động cách mạng sắc bén, là những lời
tâm huyết chứa chan lòng yêu nước.
Có thể thấy những điều nói trên qua bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của ông (dẫn lại bài thơ và nêu
hoàn cảnh ra đời của bài thơ).
B. NỘI DUNG CHÍNH


Mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình trực tiếp thể hiện một lí tưởng sống, một khát vọng mang
tầm vóc lớn lao :
Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trang 1
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Theo đó, là đấng nam nhi sinh ra ở đời thì phải làm được những việc “lạ”, tức là những việc lớn
lao, phi thường. Cụ thể, làm trai phải chủ động xoay chuyển trời đất, không để trời đất tự chuyển vần.
Thực ra, từ xa xưa, chí làm trai đã thường được nói đến trong văn học :
- Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
(Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão)
- Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh – Nguyễn Công Trứ).
Tuy nhiên, quan niệm về chí làm trai của Phan Bội Châu vẫn có được những nét mới mẻ riêng. Đặt
trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, chí làm trai đó chính là chủ động tiến hành sự nghiệp cứu nước.
Đến hai câu thực, ý tưởng của nhân vật trữ tình được triển khai rõ hơn. Đó là ý thức trách
nhiệm cá nhân trước thời cuộc :
Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai ?
Hai câu thơ bộc lộ ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân tích cực : Giữa khoảng trăm năm này cần
phải có ta chứ (cần có tớ), chẳng nhẽ ngàn năm sau (sau này) lại không có ai (để lại tên tuổi) ư ? Cái tôi
này chẳng những khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại, tức là đối với vận mệnh hôm nay của đất nước,
mà còn khẳng định nghĩa vụ đối với lịch sử muôn đời. Thật là tư thế của con người có chí khí lớn !
Tư thế ấy càng được khẳng định hiên ngang hơn nữa ở hai câu luận. Đó là thái độ quyết liệt
của “cái tôi” cá nhân trước tình đất nước và những tín điều xưa cũ :
Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài.
Ở con người này, số phận gắn làm một với số phận đất nước, sống chết cùng non sông, vinh nhục

cùng Tổ quốc.
Ở đây, nhân vật trữ tình tuy nói về mình nhưng cũng là nói cho cả thế hệ, cả một dân tộc đang
chuyển mình theo một lí tưởng cứu nước mới, phù hợp với thời đại mới. Hiền thánh đã chết, kinh sử mất
thiêng, nhà thơ dứt khoát hướng thẳng về tương lai, đầy lạc quan tin tưởng.
Bài thơ kết thúc bằng hai câu tuyệt đẹp, đầy cảm hứng lãng mạn. Đó là khát vọng hành động
và tư thế buổi lên đường của kẻ “làm trai” :
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Đúng là con đại bang cất cánh bay ra biển khơi, bay vào thời đại. Hình ảnh thơ, nếu hiểu đúng như
nguyên tác, còn lãng mạn và hào hùng hơn nữa : “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”. Con người ở đây
như được chắp thêm đôi cánh thiên thần bay lên cùng gió mây. Với các hình ảnh : trường phong, Đông hải
Trang 2
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
khứ, Thiên trùng bạch lãng – nhất tề phi…càng làm nổi rõ khát vọng mãnh liệt và tư thế hiên ngang buổi
lên đường “xuất dương”.
C. KẾT LUẬN
Bằng giọng thơ tâm huyết có sức lay động mạnh mẽ, “Lưu biệt khi xuất dương” đã khắc hoạ vẻ
đẹp lãng mạn hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ, táo bạo,
bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước.
BÀI 2: VỘI VÀNG
XUÂN DIỆU
I – TIỂU DẪN
1 – Nhà thơ Xuân Diệu
- Xuân Diệu (1916 – 1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê nội ở Hà Tĩnh, lớn lên ở quê mẹ
(Bình Định – Quy Nhơn). Sau Cách mạng Tháng Tám, ông hăng hái tham gia các hoạt động xã hội với tư
cách một nhà viết văn chuyên nghiệp : đại biểu Quốc hội khoá I, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt
Nam các khoá I, II, III ; Viện sĩ thông tấn Viện hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà dân chủ Đức.
- Năm 1996, Xuân Diệu được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Các sáng tác tiêu biểu :
+ Các tập thơ như : Thơ thơ, Gửi hương cho gió… ;

+ Các tập văn xuôi : Phấn thông vàng, Trường ca … ;
+ Các tập tiểu luận phê bình : Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Công việc làm thơ…
- Về phong cách :
+ Xuân Diệu là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh) đã đem đến cho thơ ca
đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với
những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.
+ Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời
thắm thiết.
+ Từ sau Cách mạng, thơ Xuân Diệu hướng mạnh vào thực tế đời sống và rất giàu tính thời sự.
2 – Bài thơ Vội vàng
Vội vàng được in trong tập Thơ thơ (1938), là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu
trước Cách mạng tháng Tám.
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
Xuân Diệu nổi tiếng trong làng Thơ mới thời kì 1930 – 1945. Thi sĩ đã đem đến cho thơ ca Việt
Nam một hơi thở mới, luôn trẻ trung, nồng nàn, rạo rực của một trái tim sôi nổi, đa tình. Trong cuốn Thi
Trang 3
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã viết : “Thơ Xuân Diệu… là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn
non nước lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn
tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết”.
Bài thơ Vội vàng được rút trong tập Thơ thơ (1938), đây là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất
phong cách nồng nàn, tha thiết của Xuân Diệu.
Một trong những nét tiêu biểu đó có thể kể đến là …
B. NỘI DUNG CHÍNH
1 – Đoạn thơ 1 (13 dòng đầu) – Tình yêu thiết tha của thi sĩ với thiên đường nơi trần thế
Mở đầu bài thơ (đoạn thơ), Xuân Diệu đã thể hiện khát vọng muốn giữ lại mãi cái thế giới
tươi đẹp muôn màu :
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Đó là một khát vọng muốn “vĩnh cửu hoá” cái đẹp, để cho thi sĩ tôn thờ, thưởng thức. Ước muốn
ấy táo bạo, muốn đoạt quyền của tạo hoá, muốn ngự trị cả thiên nhiên. Tất cả đều xuất phát từ tình yêu
cuộc sống say mê của hồn thơ nồng nàn, tha thiết.
Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu “Tôi muốn … cho …”, nhà thơ đã diễn tả ý tưởng mạnh mẽ đó
một cách đầy chất thơ.
Sở dĩ có khát vọng ngược với quy luật tự nhiên đó, bởi lẽ, dưới con mắt “xanh non biếc rờn”
của thi sĩ, mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sức quyến rũ :
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
… …
Của yến anh này đây khúc tình si…
Bức tranh cuộc sống hiện ra có đủ cả hương vị, màu sắc và cả âm thanh, rất sinh động. Đó là những
hình ảnh hết sức “cám dỗ”, tạo vật như căng đầy nhựa sống và hiện ra trong thế có đôi có cặp rất hữu tình :
tuần tháng mật của các loài ong bướm, “hoa của đồng nội xanh rì”, “lá của cành tơ”, khúc nhạc tình si mê
của các đôi oanh yến.
Điệp ngữ “này đây” được lặp lại bốn lần kết hợp với thủ pháp liệt kê tăng tiến, nhịp thơ gấp gáp…
cho thấy cảnh đẹp như bày sẵn ra trước mắt, rất cụ thể, rõ ràng đồng thời bộc lộ niềm sung sướng đến ngất
ngây của thi sĩ trước cảnh sắc ấy.
Cũng như trong nhiều bài thơ khác, cảnh vật trong Vội vàng được phát hiện với tất cả niềm
háo hức mê say, tất cả sự ngỡ ngàng. Vì tất cả đều trở nên mới lạ trong đôi mắt của thi sĩ đa tình,
ham sống :
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Trang 4
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon ngư một cặp môi gần.
Với thi sĩ đa tài, đa tình này thì nguồn ánh sáng của mỗi buổi bình minh như phát ra từ đôi mắt xinh
đẹp của người thiếu nữ, mỗi lần nàng chớp hàng mi.
Tuy vậy, trong bài thơ Vội vàng, gây ấn tượng mới mẻ nhất chính là câu :

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Nhà thơ đã so sánh khái niệm thời gian “tháng giêng”, một hình ảnh vô hình với một hình ảnh cụ thể
“cặp môi” và truyền cho người đọc một cảm giác thật cụ thể “ngon”, “gần”. Cách so sánh rất lạ ! Rất độc
đáo ! Rất Xuân Diệu !
Sau cái phút giây ngất ngây, sung sướng cùng cảnh sắc thiên nhiên ấy, nhà thơ chợt tỉnh lại
được và tự ý thức được về thời gian :
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Mùa xuân đẹp làm cho thi sĩ “sung sướng” nhưng rồi ý thức được thời gian (qua đi nhanh) khiến thi
sĩ phải “vội vàng”, phải hưởng thụ mùa xuân ngay lúc mùa xuân vừa đến, còn tươi non để sau này khi mùa
xuân đã qua, mùa hạ đến không phải nuối tiếc, ân hận.
Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện một tình yêu thiết tha của thi sĩ Xuân Diệu với “thiên đường
nơi trần thế”, đồng thời đã bộc lộ một phong cách thơ rất mới mẻ và táo bạo.
2 – Đoạn thơ 2 (dòng 14 đến 29) – Cảm nhận mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian
Đúng như ở đoạn trước thi nhân đã tâm sự : “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm
khéo đặt giữa câu thơ này khiến ta hình dung bước chân của chàng trai tơ Xuân Diệu như bất chợt khựng
lại giữa khu vườn ngập tràn xuân sắc. Đó là vì, thi sĩ đã nhận ra quy luật : cuộc đời thì ngắn ngủi, trong
khi đó thời gian thì cứ qua đi không trở lại :
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
… …
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Thật vậy, trong con mắt của Xuân Diệu, chỉ có thời gian tuyến tính, một kiểu thời gian “ một đi
không trở lại”. Xuân : tới – qua, non – già, hết. Còn Tôi (đời người) : cũng mất, tuổi trẻ chẳng hai lần
thắm lại, chẳng còn tôi mãi. Bởi vậy, giữa cái non tơ mơn mởn, ông lại thấy được sự hấp hối, lụi tàn… cho
nên ông đột nhiên thốt lên : “Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.
Điểm mới mẻ trong cách thể hiện là nhà thơ đã tạo ra giọng “tranh luận” và nêu lên những “luận
lí của trái tim” bằng một loạt các phụ từ quan hệ “nghĩa là – nếu – nên để bảo vệ quan điểm của mình.
Hơn nữa, điệp ngữ “nghĩa là…” không chỉ bộc lộ ý nghĩa giải thích, định nghĩa cho sự thật hiển nhiên
không thể phủ nhận mà còn thể hiện nỗi lo lắng hốt hoảng của thi nhân. Những từ ngữ, cách diễn đạt đối
lập mạnh mẽ : non >< già, rộng >< chật, còn >< chẳng còn… đã cho thấy cái hữu hạn của đời người và

liền đó là nỗi day dứt, nuối tiếc của thi nhân.
Trang 5
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Từ sự nhận thức thời gian trôi chảy và lấy tuổi trẻ, khoảng ngắn ngủi nhất của cuộc đời, để đo
đếm thời gian đã dẫn đến những cảm nhận tinh tế về thời gian của nhà thơ :
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
… …
Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa.
Như Triết gia nói “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”, thi sĩ cảm thấy thời gian như ngọn
gió, bay nhanh, lướt qua tất cả. Lúc tạo vật ở độ căng mọng, sung mãn cũng là lúc nó đối diện với sự ám
ảnh của sự tàn phai, huỷ diệt của ngọn ngọn gió thời gian ấy. Cho nên, trong cảm nhận của nhà thơ, thời
gian có “mùi”, có “vị chia phôi”. Tất cả đều bất ngờ, hẫng hụt, tiếc nuối, thảng thốt đến độ nhà thơ đã cất
lên :
Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa.
Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện những cảm nhận mới mẻ và tinh tế của Xuân Diệu về bước đi
của thời gian, của tuổi xuân. Tiếc xuân, tiếc thời xuân cũng là tiếc sự sống, tiếc cuộc sống của mình. Đây
cũng là một biểu hiện của lòng ham sống, lòng yêu đời của nhà thơ.
3 – Đoạn thơ 3 (còn lại) – Lời giục giã sống vội vàng, cuống quýt của thi sĩ
Đoạn thơ cuối này chính là lời giải đáp cho những băn khoăn, những thắc mắc, và trả lời cho câu hỏi
: Sống vội vàng là như thế nào ? Phong cách sống “vội vàng” ở đây cũng chính là “hệ quả” của những cảm
thức về thời gian từ những đoạn thơ trước của nhà thơ.
Không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian nên với nhà
thơ, cách “chiến thắng” bước đi của thời gian là bằng cường độ sống, khát vọng sống mãnh liệt, là
phải chạy đua với thời gian :
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm…
Với Xuân Diệu, chạy đua với thời gian là để tận hưởng. Vì thế ông mới vội vàng giục giã mọi người
hãy tận hưởng hết tất cả những vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất, cỏ cây, hoa lá và nhất là của con người.
Và đây, lòng ham sống và phong thái vội vàng ấy của thi nhân đã dâng trào lên thành khát
vọng :
Ta muốn ôm

… …
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Đó là khát vọng tận hiến và tận hưởng cuộc sống bằng tất cả các hành động, bằng tất cả các giác
quan, sống mãnh liệt như ngọn lửa thổi bùng bùng. Nhà thơ muốn ôm, muốn riết, muốn thâu cả đất trời, cỏ
cây, hoa lá vào trong tay bé nhỏ của mình. Hơn thế nữa, còn “muốn cắn” vào sự sống mơn mởn xanh tươi
của xuân hồng đầy sức sống. Qua đó, ta còn thấy nỗi sung sướng và choáng ngợp của thi nhân trước mùa
xuân “mơn mởn” trước “thanh sắc của thời tươi”.
Ở đây, từ lối vắt câu (Ta muốn ôm) đến nghệ thuật dùng điệp ngữ (Ta muốn… ; Cho…), từ việc sử
dụng nhiều hình ảnh táo bạo… đều đã góp phần thể hiện đậm nét niềm ham sống đến cuồng nhiệt mê say
Trang 6
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
của tác giả. Đặc biệt, hàng loạt các động từ có ý nghĩa “mạnh” đã có sức lôi kéo độc giả rất mãnh liệt :
“muốn ôm”, “muốn riết”, “muốn thâu”… Rồi hàng loạt các tính từ mạnh : “chếnh choáng, đã đầy, no
nê…” và cuối cùng là động từ “cắn”… đều đã bộc lộ rõ nhất cái khao khát mãnh liệt của nhà thơ muốn
được sống hết mình, yêu hết mình, hưởng thụ hết mình cái ý nghĩa đẹp đẽ của cuộc sống.
Có lẽ, trong đoạn thơ này hình ảnh độc đáo nhất là cách nói : “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn
vào ngươi” ! Chưa bao giờ ta thấy “lạ” và Tây đến thế. Đây là hình ảnh không những đã tạo nên sự tương
xứng liên kết trong toàn bài thơ mà còn góp phần tạo nên bất ngờ, lột tả hết trạng thái “vội vàng” đến
cuống quýt, vồ vập và cuồng nhiệt.
Tóm lại, đoạn thơ trên đã thể hiện Xuân Diệu không chỉ sống hay ham sống, mà ông còn say mê,
cuồng nhiệt, giục giã, vội vàng, gấp gáp để sống.
C. KẾT LUẬN
Vội vàng là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của
cuộc đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Tư
tưởng đó được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật điêu luyện : sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc
và mạch luận lí, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.
BÀI 3: TRÀNG GIANG
HUY CẬN
I – TIỂU DẪN
1 – Nhà thơ Huy Cận

- Huy Cận (1919 – 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận, quê ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Thuở nhỏ
ông học ở quê, sau đó vào Huế học hết trung học. Năm 1939, ông ra Hà Nội học Trường Cao đẳng Canh
nông.
- Từ năm 1942, ông tích cực tham gia hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, rồi tham gia Quốc dân đại
hội Tân trào. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia hoạt động chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng
trách khác nhau : Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách công tác Văn hoá – Nghệ thuật tại Văn
phòng Hội đồng Bộ trưởng,…
- Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới. Năm 1996, ông được Nhà nước
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Các tác phẩm chính :
+ Trước Cách mạng : Lửa thiêng (tập thơ, 1937 – 1940), Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942)…
+ Sau Cách mạng : các tập thơ Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960)…
- Thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng, triết lí.
2 – Bài thơ Tràng giang
Trang 7
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Huy Cận. Theo tác giả, bài thơ
này được viết vào mùa thu năm 1939 (in trong tập Lửa thiêng) và cảm xúc được khơi gợi chủ yếu từ cảnh
sông Hồng mênh mang sông nước.
3 – Nhan đề và lời đề từ
a). Nhan đề
- Tràng (trường) : dài ; giang : sông. Tràng giang (trường giang) : sông dài.
- Tràng giang còn gợi hình ảnh con sông rộng (do âm vang của việc láy vần “ang”). Trường giang
chỉ là “sông dài”.
- Tràng giang là cách diễn đạt mới trong khi Trường giang dễ bị nhầm lẫn với tên một con sông ở
Trung Quốc và trong thơ Đường.
b). Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
- “Trời rộng”, “sông dài” mang nghĩa khái quát về không gian nghệ thuật của bài thơ. Đó là một
khung cảnh sông nước mênh mông, vô biên.
- “Bâng khuâng”, “nhớ” khái quát lên tâm trạng buồn, cô đơn bởi sự xa cách, chia li giữa “trời” và

“sông”.
 Câu đề từ đã khái quát được nội dung tư tưởng của cả bài thơ, vừa thâu tóm cảm xúc chủ đạo vừa
gợi ra nét nhạc chủ âm cho cả bài thơ.
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
Bài thơ Tràng giang (in trong tập thơ Lửa thiêng) là một tuyệt tác của nhà thơ Huy Cận nói riêng và
của phong trào Thơ mới (1932 – 1945) nói chung. Đây là một bài thơ với xúc cảm vũ trụ không những
chan chứa một nỗi buồn mênh mông xa vắng mà còn thấm đượm một tình yêu quê hương đất nước lắng
sâu. Nói theo Xuân Diệu “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước do đó dọn đường cho lòng
yêu giang sơn Tổ quốc”.
Có thể thấy rõ những điều nói trên qua (khổ thơ thứ … của Tràng giang) …
B. NỘI DUNG CHÍNH
Tràng giang là bài thơ được sông Hồng gợi tứ. Trước Cách mạng, nhà thơ thường có thú vui vào
chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, Vẽ để ngoạn cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông
nước đẹp gợi cho nhà thơ nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn
mang cảm xúc chung về những dòng sông khác của quê hương. Tràng giang là một bài thơ tình và tình
gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn…
1 – Khổ thơ một
Nhìn dòng sông lớn gợn những lớp sóng, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang trải
ra như những lớp sóng :
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Trang 8
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền và nước vốn là hai khái niệm gần gũi nhưng rồi không phải bao giờ cũng gắn bó. Thuyền
gợi lên một cái gì nổi nênh như kiếp người trong cuộc đời cũ. Nhất là ở đây, con thuyền lênh đênh thả mái
xuôi dòng và như có một nỗi buồn chia li, xa cách đang đón đợi. Từng đợt sóng “gợn” nhẹ cứ kéo dài vô
tận làm nỗi buồn của con người càng thấm sâu, da diết khó tả. “Buồn điệp điệp” đã diễn tả nỗi buồn lớp
lớp, buồn tầng tầng, buồn không nguôi của nhà thơ.
Hai dòng thơ có ý nghĩa sâu xa về bóng dáng con người trong dòng đời. Bởi sông là đời , thuyền là

người, sóng “ điệp điệp ” là nỗi buồn đeo mang của thân phận kiếp người.

Trên dòng sông ấy, bao nhiêu ngả nước là bấy nhiêu ngả sầu và cảnh tượng “một cành khô”
lạc mấy dòng càng nhấn mạnh nỗi lạc loài của kiếp người trong xã hội cũ :
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả ;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Như trên đã phân tích, thuyền và nước ở đây không hề gặp nhau, gần nhau mà giữa “trăm ngả” cuộc
đời thuyền về một nơi, nước lại đi một ngả. Sự lạc lối không cùng hướng này đã gợi lên trong thi nhân một
nỗi “ sầu ” bơ vơ, cô đơn ngay giữa cuộc đời .
Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh, trên dòng sông mênh mông sóng nước gợi lên nỗi
buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định. Nó là biểu tượng cho tâm trạng của con người, nhất là của giới thanh
niên tiểu tư sản thời ấy.
Ở khổ thơ đầu, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt đã khiến cho
bài thơ một mặt vẫn phát huy được thế mạnh của loại thơ cổ, mặt khác nó làm cho giọng điệu của bài thơ
uyển chuyển, linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi
đầu thế kỉ XX. Bên cạnh đó, cách dùng từ láy như “điệp điệp”, “song song” cũng gợi âm hưởng cổ kính,
trang trọng. Tuy nhiên, Tràng giang vẫn là một bài thơ hiện đại, ở đoạn thơ này có thể thấy ở hình ảnh,
thi liệu và cảm xúc :
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả ;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thơ xưa thường nói đến những hình ảnh cao sang mà giới “tao nhân, mặc khách” thường ưa thích
như trăng hoa, tuyết nguyệt… Đến thời kì thơ mới, những hình ảnh “bình dân” như “củi một cành khô”,
“con nai vàng ngơ ngác”, con hổ “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt”… như là chỉ dấu về một “cuộc
cách mạng trong thơ” (Hoài Thanh).
Tóm lại, khổ thơ đầu là nỗi buồn mênh mang trong lòng thi nhân được gợi lên từ không gian “ tràng
giang ”. Cái hay ở khổ thơ là nghệ thuật thường thấy của Đường thi, nhưng cũng rất mới mẻ của phong trào
Thơ mới.
2 – Khổ thơ hai
Từ dòng sông, sóng gợn, con thuyền xuôi mái và cành củi khô bập bềnh trôi dạt trên sóng… ở khổ
thơ một, Huy Cận nói đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ. Và, nỗi buồn càng

như thấm sâu vào cảnh vật.
Trang 9
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Trước hết, có thể thấy cảnh tràng giang mênh mông, vắng vẻ ở hai câu thơ đầu :
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai câu thơ chứa đựng những nét chấm phá về các bãi cồn trên dòng sông. Không gian hầu như
vắng lặng, cảnh vật nhuốm vẻ đìu hiu, tàn tạ… Thật không gì vui bằng lúc chợ đông và buồn bằng khi chợ
chiều tan tác, không có tiếng người thì cảnh vật hoang vắng và xa lạ. Cảnh vật vắng vẻ đã khiến cho thi
nhân càng buồn sầu, cô đơn, khát khao được nghe những tiếng vọng thân thiết của cuộc đời.

Các từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được dùng rất đắt, vừa có giá trị tạo hình, vừa giàu khả năng biểu
đạt tâm trạng. Theo Huy Cận, từ “đìu hiu” ông học được trong bản dịch Chinh phụ ngâm :
Non kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Trong câu thơ thứ hai, sự xuất hiện của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” chỉ làm cảnh buồn hơn, bởi
đây là “âm thanh” vọng lên từ tâm tưởng, từ niềm khao khát của nhà thơ.
Tiếp theo là cảnh tràng giang mênh mông, vắng vẻ ở hai câu thơ sau :
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót ;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Hai câu thơ mở rộng không gian miêu tả ra nhiều chiều với hình ảnh của trời lên – cao, sông dài –
dài, trời rộng – rộng Theo hướng mở rộng đó của không gian, nỗi sầu của thi nhân như cũng được toả lan
ra đến vô cùng.
Hình thức đối của cổ thi được sử dụng khá linh hoạt trong hai câu thơ, tạo nên sự hài hoà về hình
ảnh và nhịp điệu. Cùng với việc vẽ ra những chuyển động ngược hướng (nắng xuống, trời lên) ở câu ba,
tác giả đã dùng dấu phẩy ngắt câu thơ thứ tư thành ba phần, biểu thị ba hình ảnh độc lập : sông dài, trời
rộng, bến cô liêu. Nhờ lối diễn tả này, tính chất phân li của cuộc đời được tô đậm thêm.
Đặc biệt, cách kết hợp từ trong câu ba cũng thật độc đáo. Khi viết “sâu chót vót”, tác giả không chỉ
muốn diễn tả độ cao của bầu trời mà còn muốn biểu hiện cảm giác chới với, rợn ngợp của con người khi
đối diện với cái hun hút, thăm thẳm của vũ trụ.

Tóm lại, không âm thanh của cuộc sống, không sự vật của con người, không biểu tượng của gia
đình, quê hương… không có gì cả ! Một thi nhân mất nước chưa tìm được hướng đi cho mình, lại mẫn cảm
trước thiên nhiên và cuộc đời, làm sao không có nỗi buồn như thế được ?
3 – Khổ thơ ba
Đỉnh điểm của sự cô đơn của thi nhân trong Tràng giang tập trung vào khổ thơ thứ ba này.
Với hàng loạt từ phủ định, làm mất hoàn toàn những tín hiệu cuộc sống, con người vì thế trở nên bơ
vơ đến đáng thương :
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
… …
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Trang 10
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Trong không gian buồn, xa vắng, ai cũng muốn tìm đến những dấu vết gần gũi của sự sống, của
cuộc đời. Nhưng cuộc sống ở đây như đứt đoạn chia lìa, dòng sông mênh mông kia không có dù là một
chuyến đò, không có lấy một chiếc cầu để nối kết con người với con người :
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Cuộc sống hiện lên với những hình ảnh trơ trọi, quạnh hiu của bờ bãi, của cánh bèo dạt trôi. Bóng
dáng con người dường như biến mất trong cái không gian của ngút ngàn hoang vắng : “Bèo dạt về đâu
hàng nối hàng … Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Những câu thơ làm ta nhớ đến tiếng gọi đò da diết trong “Bến Mi Lăng” của một nhà thơ cùng thời :
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng
(Yến Lan)
Tóm lại, cả bốn câu thơ đều buồn, mỗi câu mang một nỗi buồn riêng. Cảnh vật có đổi thay (so với
những khổ thơ trên) nhưng cùng một dáng vẻ, tất cả đều trôi nổi, mông lung, vô định. Không có những dấu
vết của con người. Vì vậy, thi nhân vẫn buồn !
4 – Khổ thơ bốn
Khổ thơ tuy chỉ có bốn dòng nhưng đã khái quát tấm lòng, tình cảm, tư tưởng của nhà thơ cũng như
bút pháp nghệ thuật của ông.

Hai câu thơ đầu trong khổ thơ cuối khắc hoạ lại cảnh tượng rực rỡ, kì vĩ khi mặt trời xuống
thấp, hắt ánh sáng lên các lớp mây cao cuồn cuộn đùn ra như những núi bạc:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa
Tác giả rất thích chữ “đùn”, tả mây như có sức đẩy ở bên trong, cứ trồi ra hết lớp này đến lớp khác.
Theo tác giả, câu thơ đầu ông học được chữ “đùn” trong bài dịch thơ Đỗ Phủ :
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
(Thu hứng)
Còn ở câu thơ thứ hai, ba chữ “bóng chiều sa” in lên núi bạc đùn lên, còn dáng chim nghiêng cánh
nhỏ tương phản với “lớp lớp”, “núi bạc”, càng trở nên nhỏ nhoi, cô độc.
Hai câu thơ sau của khổ thơ cuối là nỗi khát khao của con người tìm về quê nhà :
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Lòng quê, có người hiểu là lòng riêng, tấm lòng mộc mạc, nhưng cũng nhiều người hiểu là lòng nhớ
quê hương. Thực vậy, “dợn” là hình ảnh mặt nước chuyển động nhỏ, lên xuống rất nhẹ khi bị xao động. Ở
Trang 11
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
câu thơ này, lòng nhớ quê hương bỗng “dợn” lên như sóng tâm hồn, khi phóng tầm mắt nhìn xa con nước
mênh mông, nhưng không phải chỉ “dợn” lên một lần rồi thôi, mà là “dợn dợn” nghĩa là xao động liên tục.
Lòng nhớ quê hương cứ xao động trong tâm hồn trước cảnh sông nước hoang vắng đìu hiu, trống
trải khiến nhà thơ phải bộc bạch : Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Âm hưởng thơ Đường triền miên trong khổ thơ cuối, như niềm lưu luyến nhớ quê của Thôi Hiệu
trong bài Hoàng Hạc lâu :
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Tản Đà dịch).
Nhà thơ đời Đường có “khói sóng” trên sông mới gợi niềm thương nhớ quê nhà, còn Huy Cận thì
chẳng cần ngoại cảnh mà vẫn đủ khơi dòng nhớ mong. Lúc này, cái buồn đã tương đối thành hình, không
chỉ còn là cảm giác sầu mênh mông vời vợi do xúc cảnh sinh tình khi ngắm nước trường giang. Vì lúc bấy

giờ, nhà thơ buồn hơn Thôi Hiệu.
Tóm lại, khổ thơ cuối đã mở ra những tình cảm đẹp của nhà thơ và gây ấn tượng sâu sắc cho người
đọc. Lời thơ mãi mãi thức tỉnh lòng hướng về quê hương và tình người ấm áp của mỗi chúng ta.
C. KẾT LUẬN
Tràng giang là một thi phẩm độc đáo của Huy Cận, vừa mang vẻ đẹp cổ điển vừa mang vẻ đẹp của
thơ mới. Qua bài thơ, Huy Cận đã bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong
đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha.
BÀI 4: ĐÂY THÔN VĨ DẠ
HÀN MẶC TỬ
I – TIỂU DẪN
1 – Nhà thơ Hàn Mặc Tử
- Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lê Mĩ, tổng Võ Xá,
huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình) trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo
Thiên chúa.
- Cha mất sớm, ông sống cùng mẹ ở Quy Nhơn và có hai năm học trung học tại Huế. Sau đó ông làm
công chức ở Bình Định rồi vào Sài Gòn làm báo. Năm 1936, Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong và về Quy
Nhơn chữa bệnh. Ông mất tại trại phong Quy Hoà.
- Hàn Mặc Tử làm thơ từ năm 14, 15 tuổi với các bút danh : Phong Trần, Lệ Thanh…; bắt đầu bằng
thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang thơ mới lãng mạn. Thơ Hàn Mặc Tử thể hiện một tình yêu đến
đau đớn hướng về cuộc đời trần thế.
- Tác phẩm tiêu biểu : Gái quê (1936), Thơ Điên (1938), Xuân như ý…
2 – Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Trang 12
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
- Đây thôn Vĩ Dạ (lúc đầu có tên Ở đây thôn Vĩ Dạ) sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ Điên (về sau
đổi thành Đau thương).
- Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê
ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên dòng sông Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ tình.
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU

Làm thơ từ tuổi mười bốn, mười lăm và chỉ có mười mấy năm “kết duyên” với Thơ mới, Hàn Mặc
Tử đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người yêu thơ Việt Nam. Hồn thơ Hàn Mặc Tử đa dạng phong phú
vừa mang nỗi quặn đau với những hình ảnh thường “vẩn đục”, vừa mang đến những hình ảnh trong trẻo
hiền hoà đến lạ thường.
Ta gặp ở “Đây thôn Vĩ Dạ” một tình cảm yêu thương đằm thắm, bâng khuâng và nỗi khao khát
hướng đến hơi ấm tình người, hướng đến “ngôi vườn” cuộc đời qua bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình
yên, thơ mộng.
Một trong những nét độc đáo ấy của Đây thôn Vĩ Dạ có thể là (khổ thơ thứ …) …
B. NỘI DUNG CHÍNH
1 – Khổ thơ đầu
Mở đầu đoạn thơ (cũng là mở đầu bài thơ) là một câu hỏi :
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Câu hỏi vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của người con gái thôn Vĩ (mà tác giả tưởng tượng ra)
vừa là lời tự vấn sao không về Vĩ Dạ của nhà thơ. Câu thơ mang giọng điệu của một lời mời gọi tha thiết
về thôn Vĩ, vừa nhẹ nhàng vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào
trong kí ức nhà thơ – một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm.
Hãy về thôn Vĩ, bởi thôn Vĩ là bức tranh thiên nhiên tràn ngập sức sống :
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Cảnh thôn Vĩ đẹp nhất là vào những buổi bình minh với những ánh nắng hồng đầu tiên trong ngày.
“Nắng mới lên” là nắng đầu tiên của một ngày mới mẻ, ấm áp. Không phải là “nắng ban mai”, hay “nắng
mai”,… như cách nói thông thường. Chữ “mới” tô đậm cái trong trẻo, tinh khiết của những tia nắng đầu
tiên trong ngày. Thi nhân như đã theo “nắng mới lên” mà về với Vĩ Dạ.
Đặc trưng của thôn Vĩ Dạ là những hàng cau thẳng tắp. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sớm
đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Vì thế, “nắng hàng cau” là nắng thanh tân, tinh khôi, là
nắng thiếu nữ.
Câu thơ “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc ” cất lên như một tiếng reo vui, một lời suýt xoa của thi
nhân trước vẻ đẹp vô ngần của thôn Vĩ. Từ “mướt” như ánh lên vẻ mượt mà, óng ả, đầy xuân sắc, một màu
xanh mỡ màng, tràn trề nhựa sống của Vĩ Dạ. “Xanh như ngọc” là màu xanh lung linh, ngời sáng, long
lanh.

Trang 13
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Ở hai câu thơ này, cả vườn Vĩ được tắm gội bởi sương đêm, đang chìm trong giấc ngủ thì được
đánh thức và bừng lên trong ánh nắng hồng ban mai. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên, đến khi ngập
tràn thì nó biến cả khu vườn thành một đảo ngọc giữa chốn “nước non thanh tú” của quê hương xứ sở.
Đến câu thơ cuối, cảnh thôn Vĩ càng đẹp hơn khi có sự xuất hiện của con người :
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Lâu nay, “mặt chữ điền” vẫn được hiểu là khuôn mặt đàn ông. Tuy nhiên, trong ca dao miền
Trung, “mặt chữ điền” cũng để chỉ khuôn mặt đẹp phúc hậu, khả ái của người phụ nữ : “Mặt má bầu ngó
lâu muốn chửi - Mặt chữ điền tiền rưỡi cũng mua”. Gương mặt chữ điền vuông vắn ấy xuất hiện đằng sau
vẻ mảnh mai, thanh tú của “lá trúc”. Hình ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” vì thế càng làm tăng
thêm vẻ sinh động của bức tranh thôn Vĩ, bởi ở đây thiên nhiên và con người hài hoà với nhau trong một vẻ
đẹp kín đáo, dịu dàng và thơ mộng.
Trong thơ, ngoại cảnh cũng là nội tâm. Đặt bức tranh thôn Vĩ đẹp trong nỗi niềm của thi nhân
hướng về người con gái Vĩ Dạ mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ, ta hình dung được tâm trạng của
nhà thơ. Đó là niềm vui khi nhận được tín hiệu tình cảm của người trong mộng (tất nhiên đây chỉ là
cảm nhận của Hàn Mặc Tử), là niềm hi vọng loé sáng về tình yêu, hạnh phúc.
Tóm lại, đọc khổ thơ đầu ta cảm nhận được bức tranh thôn Vĩ đẹp, tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm
và đầy sức sống. Đồng thời, đó cũng là niềm hi vọng hạnh phúc của thi nhân.
2 – Khổ thơ thứ hai
Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế, đồng thời bộc lộ một niềm
hoài vọng bâng khuâng.
Ở hai câu thơ đầu, bức tranh hiện ra là khung cảnh thiên nhiên ban ngày xứ Huế:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Cảnh ở đây vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “ cung đình ”. Gió, mây và dòng nước đều
được nhân hoá để trở nên có hồn, sinh động. “Gió theo lối gió, mây đường mây” ngắt nhịp 4/3 với hai vế
tiểu đối gợi tả một không gian gió, mây chia lìa, đôi đường, đôi ngả như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Lẽ
thường thì “gió thổi mây bay”, phải chăng mặc cảm chia lìa đã chia xa cả những thứ vốn không thể chia
tách ?

Nhà thơ còn nhân hoá con sông thành một sinh thể có tâm trạng để giãi bày tâm tư của chính mình.
Hương Giang không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã “bỏ buồn vào lòng sông”. Động thái “lay” tự nó
không vui không buồn, nhưng trong hoàn cảnh này, nó lại gợi lên sự hiu hắt, thưa vắng. Nhịp điệu câu thơ
chậm rãi như điệu “slow tình cảm dành riêng cho huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) càng làm cho nỗi niềm
thêm da diết. Hoá ra không phải “ dòng nước buồn thiu ” mà chính “ thi nhân buồn thiu ”.
Ở hai câu thơ sau, dòng Hương Giang về đêm hiện lên ngập tràn ánh trăng :
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Trang 14
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Tử, kết tinh rực rỡ bút pháp tài hoa, lãng mạn. Cả dòng sông như
được dát bạc, ánh lên, lộng lẫy và cũng huyền ảo lung linh. Nếu “Thuyền ai” gợi lên bao ngỡ ngàng, bâng
khuâng, vừa quen vừa lạ, man mác như điệu hò xứ Huế thì hình tượng “sông trăng” lại như một nét vẽ thơ
mộng, chất chứa cái thần thái, “linh hồn” của cảnh sắc thiên nhiên xứ sở. Sự kết hợp giữa “thuyền ai” và
“sông trăng” đã tạo nên một hình tượng đẹp thi vị, gợi tả vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng, thân thương của
Huế.
“Thuyền”, “bến”, “trăng” là những biểu tượng về người con trai, con gái và hạnh phúc lứa đôi.
Trăng là nhân chứng cho đôi lứa nguyện thề. Khi xưa, trong vườn Thuý ngập đầy ánh trăng, Kim – Kiều
đã giao ước, thề nguyền. Trong ca dao, tình duyên của nam nữ cũng được giãi bày, ướm hỏi dưới trăng :
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng – Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?”… Thuyền chở trăng là chở
tình yêu. Bến trăng là bến bờ hạnh phúc. Liệu con thuyền tình yêu có vượt thời gian để kịp cập bến bờ
hạnh phúc hay không ? Câu hỏi chất chứa bao niềm khắc khoải, sự chờ đợi mỏi mòn tình yêu, hạnh phúc
của thi nhân. Ẩn trong đó có sự mông lung, hồ nghi, thất vọng.
Tóm lại, khổ thơ thứ hai vẽ nên bức tranh xứ Huế ảm đạm, nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi,
yếu ớt nhưng cũng huyền ảo, thơ mộng, đồng thời toát lên những dự cảm hạnh phúc chia xa của nhà thơ.
3 – Khổ thơ cuối
Hồn thơ say dần, từ chỗ có nhiều hình ảnh thực (khổ 1), đến chỗ mơ hồ (khổ 2), bài thơ kết thúc ở
khổ thứ ba với những hình ảnh, cảm xúc thật sự huyền bí.
Trước hết là ở câu thơ đầu :
Mơ khách đường xa, khách đường xa

“Khách đường xa” là ai ? Sao câu thơ lại lặp lại hình ảnh ấy hai lần ? Và hơn nữa, hình ảnh đầy ấn
tượng nhưng vô cùng mơ hồ ấy lại đứng cạnh một từ càng mơ hồ, bí ẩn hơn chính nó – từ “Mơ” : “Mơ
khách đường xa, khách đường xa”.
Có thể “khách đường xa” là người đang sống ở Vĩ Dạ cũng có thể là chính nhà thơ ? Không ai có
thể giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng, “khách đường xa” được điệp lại
gợi lên khoảng cách xa xôi, sự cách trở. Hình ảnh thơ rất ám ảnh người đọc, và nó cũng như ma lực khiến
ta cảm thấy câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.
Những câu thơ sau cũng có vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo nhưng dù sao cũng “hợp lí” hơn :
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
“Áo em” có phải là áo của người con gái xứ Huế, có lẽ là của người ở thôn Vĩ ? “Trắng quá nhìn
không ra” như đưa thi nhân vào sống trong ảo giác, không phải nhìn bằng mắt thường. Đến cụm từ
“Sương khói mờ nhân ảnh”, câu thơ càng cho thấy rõ hơn rằng cảnh vật và con người chìm dần vào mờ ảo.
Điều bí ẩn nữa lại nằm ở câu thơ cuối :
Ai biết tình ai có đậm đà ?
Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dẫu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hỏi ấy thống nhất với mạch
cảm xúc chung của cả bài thơ : mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần
Trang 15
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
ai giải đáp. Có điều, ở câu hỏi cuối này nó biểu hiện chút hoài nghi với tình yêu của ai kia (người xứ Huế),
hoài nghi nên mới hỏi. Câu thơ còn cho thấy nỗi niềm thiết tha với tình yêu, với cuộc đời của nhà thơ.
Tóm lại, ở khổ thơ cuối hiện thực được cảm nhận, miêu tả trong cái hư ảo, mờ nhoè, càng lúc càng
chìm dần vào cõi mộng. Thi nhân cảm nhận càng rõ nét khoảng cách xa xôi, cái hư ảo của tình yêu, hạnh
phúc.
C. KẾT LUẬN
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, bài thơ
Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu
đời, yêu người.
BÀI 5: CHIỀU TỐI (Mộ) _HỒ CHÍ MINH_
I – TIỂU DẪN

Tháng 8 – 1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội và Phân bộ quốc tế
phản xâm lược của Việt Nam, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Vừa
đến Túc Vinh, tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ.
Trong suốt 13 tháng tù bị đày ải, Hồ Chí Minh đã sáng tác 134 bài thơ bằng chữ Hán, ghi trong cuốn
sổ tay, đặt tên là Ngục trung nhật kí (Nhật kí trong tù). Tập thơ được dịch ra tiếng Việt và in lần đầu vào
1960.
Chiều tối (Mộ) là bài thứ 31 của tập thơ. Cảm hứng của bài thơ được gợi lên trên đường chuyển lao
của Hồ Chí Minh từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942.
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
Hồ Chí Minh là nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc ta, đồng thời là một tác gia lớn. Sự nghiệp sáng
tác của Bác đa dạng, nhưng nổi bật nhất là tập thơ trữ tình “Nhật kí trong tù” (Có thể trình bày thêm đôi nét
về tập Nhật kí trong tù).
“Mộ” (Chiều tối) là bài thơ rất có giá trị của tập Nhật kí trong tù. Nó vừa gợi cảnh gian truân trong
những ngày bị giam cầm vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Bác.
(Dẫn bài thơ)
B. NỘI DUNG CHÍNH
Bài thơ lấy cảm hứng trên đường chuyển lao. Đó là lúc trời sắp tối, người tù bị giải đi giữa miền
núi. Tấm lòng yêu người, yêu cuộc sống luôn luôn vượt qua những bước gian truân của tác giả toát lên từ
bức tranh Chiều tối này.
Bài thơ mở ra ở hai câu đầu bằng hình ảnh của bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng mang
đầy tâm trạng. Trước tiên là hình ảnh một ngày sắp hết :

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ.
Sau một ngày kiếm ăn, chim chiều mỏi mệt, tìm khu rừng cây quen thuộc để ngủ qua đêm. Chim
mỏi về rừng báo hiệu ngày tàn, nhường chỗ cho bóng đêm. Nhưng người đi đường đang mỏi mệt, vẫn
Trang 16
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
chưa được dừng bước, không rõ đi đến đâu, cũng không biết bao giờ có được chốn ngủ như những cánh
chim kia.

Đặt bài thơ trong hoàn cảnh cụ thể của tác giả, ta có thể cảm nhận một nỗi u hoài man mác dâng
lên trong lòng người đi. Đó là tình cảnh mất tự do giữa đất khách quê người, cảnh vật gợi vẻ ảm đạm của
một buổi chiều tàn.
Tiếp theo đó, bầu trời buổi chiều tối còn vương lại một chút ánh sáng nhạt mờ, vừa đủ cho nhà thơ
nhận ra một chòm mây lẻ loi đang lững lờ trôi :

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Cảnh đẹp như một bức tranh thuỷ mặc nhưng cũng thật buồn, càng khêu gợi nỗi cô đơn của người
đi trên đường. Hơn nữa, đây còn là một người tù phải cất bước, dù đã mỏi mệt đi suốt một ngày dài.
Hai câu thơ tả cảnh nhưng thật gợi tình, như kín đáo giãi bày một tâm trạng, một nỗi niềm. Đó là
tâm trạng mệt mỏi, nỗi niềm mất tự do của Người. Tuy nhiên, dù hoàn cảnh tù đày, nhưng Người vẫn mở
hồn ra, hoà hợp và tương giao với thiên nhiên.
Bài thơ kết lại bằng hai câu thơ tả bức tranh cuộc sống miền sơn cước mang hơi ấm cuộc
sống :
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Giữa cảnh núi rừng mênh mông trùng điệp đang chìm dần vào bóng tối, nổi bật một đốm lửa hồng
soi hình bóng của một cô gái đang lao động. Cảnh thật bình thường, nhưng ngay lúc đó, người tù chợt nhìn
thấy một hình ảnh gây xúc động : cô gái nhỏ xay ngô và ánh lửa hồng của lò than. Đó là hình ảnh bình dị
về cuộc sống thường ngày của người lao động nhưng cũng thật đẹp, đáng yêu và ấm lòng.
Nhận ra những chi tiết của bức tranh đó, nhà thơ thực sự cảm động và cảm thông với cuộc sống
của người lao động nghèo, vất vả, nhưng ấm cúng và lạc quan. Đóng lại bài thơ bằng một từ “hồng” đầy
sức nặng, nhà thơ như muốn ấp ủ ngọn lửa hồng ấy trong trái tim mình, vui sướng vì ngọn lửa của cuộc
sống bình dị luôn sáng ấm.
Bài thơ đã kết hợp một cách hài hoà bút pháp cổ điển và bút pháp hiện đại. Một bức tranh
thiên nhiên núi rừng và cuộc sống chỉ được ghi loáng thoáng vài nét đơn sơ như trong một bài thơ cổ : một
cánh chim, một chòm mây, một cô gái bên lò than nơi xóm núi. Tuy chỉ đơn sơ vài nét nhưng ta cảm nhận
được cái hồn của cảnh vật : tuy buồn mà vẫn ấm áp, đặc biệt lại có niềm vui bình dị.
Tóm lại, Trong hoàn cảnh bị đày ải trên đường xa, cô độc, mệt mỏi giữa núi rừng nơi đất khách
quê người vào lúc chiều tối, tác giả nhìn cảnh vật vẫn thấy ấm áp vui tươi, lạc quan qua ánh lửa hồng rực

sáng. Điều đó chứng tỏ mọi vui buồn của Bác đều gắn với vui buồn của con người, hầu như không phụ
thuộc vào cảnh ngộ riêng mình.
C. KẾT LUẬN
Bài Chiều tối cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của
nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại.
Trang 17
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
BÀI 6: TỪ ẤY
(TỐ HỮU)
I – TIỂU DẪN
- Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thuở nhỏ, ông học Trường Quốc học Huế. Năm 1938, Tố
Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Từ đó, sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng,
thơ ông luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng
cũng nhiều thắng lợi vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
- Ngày được đứng vào hàng ngũ những người cùng phấn đấu vì một lí tưởng cao đẹp là bước ngoặt
quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu. Ghi nhận kỉ niệm đáng nhớ ấy với những cảm xúc, suy tư sâu sắc, Tố
Hữu viết Từ ấy. Bài thơ nằm trong phần “Máu lửa” của tập Từ ấy (tập thơ gồm ba phần : “Máu lửa”,
“Xiềng xích”, “Giải phóng”).
II – VĂN BẢN
A. LỜI GIỚI THIỆU
Tố Hữu là nhà thơ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, con đường cách mạng cũng là con đường
thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, nhà thơ được vinh dự trở thành người chiến sĩ cộng sản của Đảng. Bài thơ
“Từ ấy” trong tập thơ cùng tên, vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một
thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin. Sau này, trong bài Câu chuyện về
thơ, Tố Hữu viết : “Từ ấy” là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi, đi theo lí tưởng cao
đẹp, dám sống, dám đấu tranh”.
(Có thể minh chứng những điều nói trên qua khổ thơ sau : …)
B. NỘI DUNG CHÍNH
1 – Khổ thơ một : Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng

Bài thơ “Từ ấy” gồm ba khổ thơ. Mở đầu là khổ thơ diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp
lí tưởng của Đảng.
Hai câu đầu viết theo bút pháp tự sự, kể lại một dấu mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu :
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
“Từ ấy”, là lúc nhà thơ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết
nạp vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, “mặt trời chân lí chói qua tim”, nhà thơ khẳng định
lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng dậy tâm hồn nhà thơ.
Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, “mặt trời chân lí” – một sự liên
kết sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ca ngợi ánh sáng diệu kì của cách mạng với thái độ thành
kính, ân tình. Đó là thứ ánh sáng của tư tưởng cộng sáng – ánh sáng của những công bình xã hội, của chân
lí xã hội. Những động từ “bừng” (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột), “chói” (ánh sáng có sức xuyên mạnh)
Trang 18
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
càng nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra
trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng và tình cảm.
Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, bằng bút pháp lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh,
đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản :
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…
Đó là một thế giới tràn đầy sức sống với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm
thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với khu vườn hoa ấy còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời ? Đối
với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, còn gì đáng quý hơn khi có một lí tưởng
cao đẹp soi sáng, dẫn dắt ? Tố Hữu sung sướng đón nhận lí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời.
Và “từ ấy”, lí tưởng cách mạng cũng đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới
cho hồn thơ Tố Hữu.
Tóm lại, Qua khổ thơ đầu, nhà thơ đã kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình và diễn tả niềm
vui sướng, say mê khi bắt gặp lí tưởng Cộng sản. Sự kết hợp tài tình giữa bút pháp tự sự và trữ tình, cùng
những hình ảnh so sánh, ẩn dụ giàu sắc thái biểu cảm… đã giúp cho những vần thơ của Tố Hữu bay bổng,

lãng mạn.
2 – Khổ thơ hai : Biểu hiện những nhận thức về lẽ sống.
Tiếp theo mạch cảm xúc của bài thơ, khổ thơ thứ hai biểu hiện những nhận thức của nhà thơ
về lẽ sống.
Hai dòng thơ đầu, nhà thơ khẳng định quan niệm mới mẻ về lẽ sống là sự gắn bó hài hoà
giữa “cái tôi” cá nhân với “cái ta” chung của mọi người :
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi” cá nhân chủ
nghĩa. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu quan niệm lẽ sống là sự gắn bó hài hoà giữa “cái tôi” cá nhân
với “cái ta” chung của mọi người. Với động từ “buộc” – cách nói ẩn dụ, câu thơ thể hiện ý thức tự nguyện
sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn sống chan hoà với mọi người (“trăm nơi” là một hoán dụ
chỉ mọi người sống ở khắp nơi). Từ “trang trải” có thể gợi liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc
đời, tạo khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
Hai dòng thơ sau của khổ thơ thứ hai bộc lộ tình yêu thương con người bằng tình yêu giai
cấp rõ ràng :
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Hai dòng thơ cho thấy tình yêu thương con người của tác giả không phải là thứ tình thương chung
chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong câu 3, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ :
“bao hồn khổ”. Trong câu 4, “khối đời” là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ
trong cuộc đời. Có thể hiểu khi “cái tôi” chan hoà trong “cái ta”, cá nhân hoà mình vào tập thể cùng lí
Trang 19
Tài liệu ôn tập Ngữ văn 11
tưởng thì sức mạnh của mỗi người sẽ được nhân lên gấp bội. Ta cũng bắt gặp cách nói này trong thơ
Nguyễn Khoa Điềm sau này :
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn…
Tóm lại, Tố Hữu đã đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ.
Ở đấy, nhà thơ tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới bằng sự giao cảm của trái tim. Qua đó, nhà thơ cũng

khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân
dân.
3 – Khổ thơ cuối : Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn nhà thơ.
Từ sự nhận thức mới về lẽ sống (khổ thơ 2), đến khổ thứ ba nhà thơ thể hiện những chuyển
biến sâu sắc trong tâm hồn mình.
Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không
chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp
tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp đối với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu
ruột thịt (của Tố Hữu ) với quần chúng “lao khổ” :
Tôi đã là con của vạn nhà

Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Những điệp từ “là” cùng với các từ “con”, “em”, “anh” và số từ ước lệ “vạn” (chỉ số lượng hết
sức đông đảo) khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết. Nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản
thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ.
Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biểu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới
những “kiếp phôi pha” (những người lao động vất vả, dãi dầu nắng mưa), những em nhỏ “không áo cơm,
cù bất cù bơ” (những em bé lang thang vất vưởng).
Cũng chính vì những người phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu
hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ sau này.
Đến đây có thể thấy, về quan điểm nhận thức và sáng tác, bài thơ là một tuyên ngôn cho tập “Từ
ấy” nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung…
C. KẾT LUẬN
Bài thơ Từ ấy là lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng cộng sản. Sự vận
động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ và
ngôn ngữ giàu nhạc điệu.
Trang 20

×