Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ,các Doanh nghiệp vừa & nhỏ
có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau . Ở Việt Nam số Doanh
nghiệp vừa & nhỏ chiếm trên 90 % tổng số doanh nghiệp trên cả nước,đóng
góp khoảng 40% GDP,37 % tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế. Đây là bộ phận
kinh tế năng động, giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và là trụ cột của
nền kinh tế địa phương . Nhận ra ý nghĩa quan trọng của DNVVN trong sự
phát triển của đất nước ,chính phủ có những chính sách khuyến khích ,hỗ trợ
DNVVN phát triển. Một trong những vấn đề của DNVVN là vấn đề thiếu
vốn huy động ,thiếu vốn để đổi mới công nghệ và nguồn vốn để tài trợ chủ
yếu cho các DNVVN là nguồn vốn từ Chính phủ thông qua NHTM.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, trong thời gian thực tập
thực tế tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành
phố Hà Tĩnh em đã quyết định chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động
cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố Hà Tĩnh” làm đề tài chuyên đề tốt
nghiệp.
- Mục đích nghiên cứu :
+ Hệ thống hóa những lý luận về hiệu quả tín dụng Ngân hàng thương mại.
+ Đánh giá hiệu quả công tác tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố Hà Tĩnh
nhằm rút ra được những hạn chế hoạt động này, chỉ ra nguyên nhân của
những hạn chế. Để từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả tín dụng của Chi nhánh.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của đề tài được chia thành 3
chương :
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về Doanh nghiệp vừa và nhỏ và hiệu
quả cho vay của Ngân hàng thương mại .
Chương 2: Thực trạng hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thành phố
Hà Tĩnh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Thành phố Hà Tĩnh.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cán bộ nhân viên
Chi nhánh Ngân hàng NHNo & PTNT Thành phố Hà Tĩnh và đặc biệt là sự
giúp đỡ chỉ bảo tận tình của Th. S Lê Hương Lan để hoàn thành chuyên đề
này.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ VÀ HIỆU QUẢ CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. 1. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ.
1. 1. 1. Khái niệm
Doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu theo nghĩa thông thường là những cơ
sở sản xuất kinh doanh tương đối nhỏ với quy mô không lớn lắm. Tuy
nhiên để có thể nói chính xác thế nào là quy mô nhỏ, không lớn lắm thì có
rất nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà kinh tế trong và ngoài nước. Nhìn
chung để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ người ta thường căn cứ vào
các tiêu thức: Tổng số vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản
cố định, số lao động được sử dụng thường xuyên, giá trị bằng tiền của sản
phẩm, dịch vụ hoặc lợi nhuận. . . . Trên cơ sở đó mỗi nước có một sự lựa
chọn tiêu thức khác nhau để đưa ra khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngày 23/11/2001 chính phủ đã ban hành nghị định 90/NĐ/-CP/2001
về “ Trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ “ . Theo Nghị định này
thì định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ được đưa ra như sau: “ Doanh
nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh
doanh theo phương pháp hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ
vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của nghành, địa phương, trong quá
trình thực hiện các biện pháp, chương trình hỗ trợ giúp có thể linh hoạt áp
dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu
nói trên “ .
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Một số tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được áp dụng ở
Việt Nam.
Cơ quan tổ chức đưa ra
tiêu chí
Vốn Doanh thu Lao động
Ngân hàng Công Thương
Việt Nam
Vốn cố định dưới
10 tỷ đồng
Dưới 20 tỷ đồng /
năm
Dưới 500 người
Liên bộ Lao động và tài
chính
Vốn pháp định
dưới 1 tỷ đồng
Dưới 1 tỷ đồng/
năm
Dưới 100 người
Dự án VIE/US/95 (hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Việt Nam của UNIDU)
+Doanh nghiệp nhỏ
+Doanh nghiệp vừa
Vốn đăng ký
dưới 0,1 triệu
USD
Dưới 30 người
Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp
vừa và nhỏ (chương trình
VIỆT NAM – EU)
Vốn điều lệ từ
50. 000USD đến
300. 000 USD
Từ 10 đến 500
người
(Nguồn số liệu : Bộ kế hoạch & đầu tư)
1. 1. 2. Lợi thế và bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1. 1. 2. 1. Những lợi thế .
• Qui mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh
doanh:
So với doanh nghiệp lớn, DNVVN năng động hơn trước những thay
đổi liên tục của thị trường. Với quy mô và cơ sở vật chất hạ tầng đồ sộ, các
doanh nghiệp lớn thường không nhanh nhạy theo kịp sự chuyển biến của nhu
cầu người tiêu dùng. DNVVN có khả năng chuyển hướng kinh doanh và
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
4
Chuyên đề tốt nghiệp
chuyển đổi mặt hàng nhanh hơn, tăng giảm lao động dễ dàng vì có thể sử
dụng nguồn lao động thời vụ.
Một lợi thế đáng kể nữa là DNVVN khi chuyển địa điểm sản xuất
không gặp nhiều khó khăn như doanh nghiệp lớn. Trong khi đó, các DNVVN
lại có thể nắm bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, địa
phương. DNVVN có thể dễ dàng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh
doanh. Điều này càng làm cho doanh nghiệp vừa và nhỏ khai thác hết năng
lực của mình, đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất.
• Các DNVVN dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ,
thích ứng với cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại :
Khác với các doanh nghiệp lớn, DNVVN với yêu cầu vốn bổ xung
không nhiều và giảm được sự thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố định khi
có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác nên các DNVVN
dễ dàng và nhanh chóng trong việc đổi mới thiết bị công nghệ khi cần thiết.
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ, nên nhiều khi
thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn tại thế hệ máy móc
sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất
mặt hàng mới với thiết bị và công nghệ mới. Trong trường hợp này, các
DNVVN lại sẽ có lợi thế hơn.
• Các DNVVN chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu
hồi vốn nhanh. Hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần
kinh tế đầu tư vào khu vực này.
• DNVVN có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với
doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn.
• Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNVVN gọn nhẹ, linh
hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp: bộ máy tổ chức của
các DNVVN thường đơn giản, gọn nhẹ. Các quyết định được thực
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
5
Chuyên đề tốt nghiệp
hiện nhanh, công tác kiểm tra giám sát được tiến hành chặt chẽ,
không phải qua nhiều khâu trung gian. Chính vì vậy đã tiết kiệm
được chi phí quản lý doanh nghiệp.
• Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý ( quan hệ chủ-
thợ) trong các DNVVN khá chặt chẽ:
Quan hệ giữa các thành viên trong DNVVN chặt chẽ gắn bó hơn, tạo ra
môi trường làm việc tốt. Các lao động dễ dàng trao đổi với nhau và với lãnh
đạo, đề xuất những ý tưởng mới lạ đóng góp cho sự phát triển của doanh
nghiệp. Trong một doanh nghiệp mà số lao động không lớn lắm, người lãnh
đạo doanh nghiệp mới có điều kiện biết rõ khả năng làm việc cũng như đời
sống tinh thần của từng thành viên một việc mà rất khó thực hiện ở các doanh
nghiệp lớn. Nhờ vậy kịp thời điều chỉnh vị trí công việc của người lao động
để tận dụng được hết khả năng của họ.
Tuy nhiên với những đặc trưng của mình nên các DNVVN nói chung
cũng như các DNVVN của Việt Nam nói riêng còn rất nhiều hạn chế. Cụ thể
như dưới đây.
1. 1. 2. 2. Những bất lợi .
• Nguồn vốn tài chính hạn chế:
Trong khi các doanh nghiệp lớn có nhiều khả năng nhận được các
nguồn tài chính khác nhau thì các DNVVN lại gặp khó khăn giai đoạn mới
hình thành, phần lớn các DNVVN đều gặp phải khó khăn về vốn. Các NHTM
cũng như các tổ chức tài chính khác thường e ngại không muốn cho DNVVN
vay vốn bởi vì họ chưa có quá trình kinh doanh uy tín và chưa tạo lập được
khả năng trả nợ. Điều này ngăn cản sự mở rộng doanh nghiệp, làm cho doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn khác như thiếu sức cạnh tranh trên thị trường,
không kịp thời cải tiến công nghệ sản xuất. Khó có điều kiện nâng cao chất
lượng lực lượng lao động . . .
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Ở Việt Nam hiện nay, sự thiếu vốn của các DNVVN đã và đang diễn ra
trên bình diện khá rộng. Bởi vì một mặt với qui mô vốn tự có đều rất nhỏ, hạn
hẹp không đủ sức tài trợ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có chất lượng
và hiệu quả, đặc biệt đối với các doanh nghiệp muốn mở rộng, phát triển qui
mô và đổi mới nâng cấp chất lượng thiết bị công nghệ, sản phẩm. Mặt khác,
thị trường vốn dài hạn, thị trường chứng khoán, về cơ bản nước ta chưa phát
triển, hơn nữa điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của các DNVVN
Việt Nam là hết sức khó khăn và hiếm hoi. Trong khi đó khả năng và điều
kiện tiếp cận các nguồn vốn trên thị trường tín dụng đối với các DNVVN ở
nước ta hiện nay còn bị hạn chế và khó khăn lớn , là do : không đủ tài sản thế
chấp, mức lãi suất cho vay còn quá cao so với mức lợi nhuận thu được; khối
lượng cho vay ít, thời hạn cho vay quá ngắn , các thủ tục rườm rà, phiền hà,
hình thức và thể chế tín dụng , nhất là khu vực nông thôn, còn nghèo nàn, đơn
điệu và hiệu lực pháp lý không cao. Những khó khăn đó rất cần được giải
quyết tháo gỡ để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh va
phát triển của các DNVVN .
• Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém,
lạc hậu:
Do nguồn vốn nhỏ và sự hiểu biết còn hạn chế, thông thường các
DNVVN chỉ sử dụng các công nghệ trung bình, đơn giản nên năng suất lao
động thấp, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Rất ít DNVVN
được trang bị công nghệ hiện đại, trừ khi liên doanh với nước ngoài. Hơn nữa,
các DNVVN rất khó có thể vay được một khoản tín dụng trung dài hạn cần
thiết để nâng cấp công nghệ. So với các doanh nghiệp nhà nước ( quy mô lớn)
, các DNVVN rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ, máy móc và thiết bị
quốc tế. Do thiếu thông tin về thị trường này, các DNVVN cũng khó tiếp cận
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
7
Chuyên đề tốt nghiệp
những dịch vụ tư vấn hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu
quả, giúp họ cải tiến và nâng cao sức cạnh tranh.
Trong những năm đổi mới vừa qua ở nước ta, do sức ép của thị trường
và những tác động của cơ chế quản lý kinh tế, các DNVVN đã có sự đổi mới
công nghệ ở mức độ nhất định. Đó là việc dùng điện vào sản xuất và gắn liền
với nó là thực hiện nửa cơ khí, cơ khí hoá từng phần hoặc toàn bộ quá trình
sản xuất. Song nhìn chung, thiết bị công nghệ của các DNVVN hiện vẫn còn
lạc hậu và ở trình độ thấp, hiệu quả chưa cao, đang gặp nhiều khó khăn đối
với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
• Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNVVN bị hạn chế
rất nhiều
Do quy mô nhỏ và không có mạng lưới, các mối quan hệ rộng nên
DNVVN không có hệ thống cung cấp thông tin chuyên môn, không nắm được
tình hình biến đổi bên ngoài doanh nghiệp mình như nguyên liệu, mặt hàng,
trình độ công nghệ, các đối thủ cạnh tranh. . . Các DNVVN không có bộ phận
chuyên trách về thu thập và xử lý thông tin. Nguồn vốn tài chính có hạn,
không đủ kinh phí để mua sắm các thiết bị phục vụ công tác thông tin nhanh
chóng, kịp thời nói riêng và chi phí cho hoạt động tiếp cận, thu thập, xử lý
thông tin nói chung. Trình độ tri thức và năng lực thu thập, xử lý thông tin của
các chủ DNVVN còn rất hạn chế.
• Trình độ quản lý ở các DNVVN còn bị hạn chế:
Nhiều chủ DNTN không có kiến thức quản lý, không có trình độ
chuyên môn, thậm chí trình độ văn hoá thấp, không đủ khả năng xây dựng
được dự án phát triển kinh doanh và xây dựng dự án đầu tư, xin vay vốn ngân
hàng theo quy định.
• Trình độ tay nghề công nhân thấp. Cơ sở kinh doanh phân tán, lạc
hậu.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Cơ sở vật chất hạ tầng nghèo nàn, lạc hậu dẫn đến năng suất lao động
thấp và kém sức cạnh tranh hơn so với doanh nghiệp lớn. Về trình độ tay
nghề, kỹ thuật của những người lao động trong các DNVVN đặc biệt rất thấp,
đặc biệt ở khu vực nông thôn. Số lao động có tính chất phổ thông, có trình độ
tay nghề giản đơn, chưa được đào tạo, bình quân chiếm khoảng 60-70%. Ở
một số vùng nông thôn, số được đào tạo nghề chính quy chỉ chiếm khoảng
10%. Đó cũng là một trong những khó khăn đối với việc phát triển mạnh mẽ
các DNVVN hiện nay.
• Thị trường của DNVVN thường nhỏ bé và không ổn định, lại phải
chia sẻ với nhiều doanh nghiệp khác.
Một trong những khó khăn không nhỏ của các DNVVN Việt Nam hiện
nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các DNVVN gặp khó khăn do
những thủ tục và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong
nước mà nguyên nhân chủ yếu là bản quyền trí tuệ và quyền sở hữu công
nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc. Sản phẩm, dịch vụ của các DNVVN
làm ăn chân chính luôn phải cạnh tranh với hàng giả, hàng nhái, hàng nhập
lậu diễn ra một cách phổ biến. Cùng với sự độc quyền của một số doanh
nghiệp lớn khiến sức cạnh tranh của DNVVN lại càng giảm trên thị trường
nội địa.
Với đặc điểm ưu thế của mình, định hướng chiến lược ngắn hạn, trước
mắt của các DNVVN là tập trung vào các thị trường nhỏ lẻ, địa phương và đặt
trọng tâm vào những sản phẩm hàng hóa có giá bán thấp, nhưng định chiến
lược dài hạn cần phải chú ý tới thị trường của các địa phương khác và tới thị
trường quốc tế. . .
Các DNVVN ở Việt Nam hiện nay để tiếp cận với thị trường quốc tế
còn phải khắc phục nhiều hạn chế như : hạn chế về công nghệ dẫn đến mẫu
mã hàng hoá xuất khẩu không đa dạng, chất lượng thấp; khả năng tiếp thị
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
9
Chuyên đề tốt nghiệp
kém, rất ít doanh nghiệp giao dịch được trên mạng, giới thiệu chào hàng trên
Iternet, tham gia hội chợ triển lãm. Khi ký hợp đồng xuất khẩu thiếu thông
tin, thường bị ép giá hoặc xuất khẩu qua các đối tác trung gian nên không bán
được giá cao, hiệu quả xuất khẩu thấp; thiếu am hiểu luật pháp quốc tế và tập
quán thương mại quốc tế chịu nhiều thua thiệt trong quá trình tiếp cận thị
trường nước ngoài (trường hợp bị mất thương hiệu của một số nhãn hiệu
hàng hoá nổi tiếng) , bị cạnh tranh không lành mạnh bởi chính các nhà sản
xuất tại thị trường xuất khẩu của nước đó (trường hợp cá Tra xuất khẩu sang
Mỹ) .
Trong những khó khăn nêu trên, thiếu vốn là nguyên nhân căn bản vì
DNVVN hạn hẹp về vốn đưa tới năng lực kinh doanh bị hạn chế. Và thực lực
kinh tế yếu nên khả năng vay vốn lại càng khó khăn. bên cạnh đó môi trường
thể chế, chính sách kinh tế còn nhiều khiếm khuyết không tạo điều kiện bảo
vệ và bảo đảm cho sự phát triển của khu vực này. trong đó cơ chế chính sách
về tín dụng ngân hàng, kể cả những vấn đề cụ thể về nghiệp vụ ngân hàng còn
đang cản trở cho việc vay vốn tín dụng của các DNVVN. Do vậy các
DNVVN phát triển hoàn toàn chưa có định hướng và chưa được hỗ trợ nhiều
từ phía nhà nước như các doanh nghiệp lớn khác.
1. 1. 3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế.
Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí rất quan trọng ở chỗ,
chúng chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh
doanh và ngày càng gia tăng mạnh. Ở hầu hết các nước, DNVVN chiếm
khoảng trên dưới 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng các
DNVVN nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Hiện nay, chưa có số liệu thống kê
về DNVVN một cách chính thức, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho
rằng các DNVVN Việt Nam cùng chiếm khoảng 80-90% tổng số các doanh
nghiệp.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
10
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ hai, các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của
nền kinh tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc
dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi
nước. Theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý TW, thì hiện nay DNVVN
chiếm khoảng 24% GDP. Hàng năm riêng DNVVN huy động 15. 000 tỷ đồng
để phát triển kinh tế, bằng 10% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội.
Thứ ba, tác động lớn nhất DNVVN là giải quyết một số lượng lớn chỗ
làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói
giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm cho người lao động, thì
khu vực này vượt trội hẳn so với khu vực khác, góp phần giải quyết nhiều vấn
đề xã hội bức xúc, ở hầu hết các nước DNVVN tạo việc làm cho khoảng từ
50-80% lao động trong các nghành công nghiệp và dịch vụ. Ở Việt Nam cũng
theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, thì số lao động của
các DNVVN trong lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7. 8 triệu người chiếm
tới 72,9% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22. 5% lực
lượng lao động cả nước.
Thứ tư, các DNVVN góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế
thị trường, do lợi thế quy mô vừa và nhỏ, linh động, sáng tạo trong kinh
doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp với
những đòi hỏi của cơ chế thị trường.
Thứ năm, khu vực DNVVN góp phần khai thác nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào dân cư và yêu cầu số
lượng không nhiều, cho nên các DNVVN có tác dụng rất lớn trong việc thu
hút các nguồn vèn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản
xuất kinh doanh, chúng tạo lập dần tập quán đầu tư vào sản xuất kinh doanh
và hình thành các khu vực đó thực hiện có kết quả vấn đề huy động vốn của
dân cư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Thứ sáu,các DNVVN có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cho công nghiệp phát triển mạnh đồng thời
thúc đẩy nghành thương mại dịch vụ phát triển.
1. 2. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. 2. 1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật
quý cho những người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở hữu phải
trả cho người cầm giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát triển, thương
mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn thì ngân hàng trở thành nơi giữ
tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho những người cần tiền.
Ngân hàng là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy động vốn nhàn rỗi
trong xã hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức vay lại, và rất
hiếm khi có tình trạng cùng một lúc tất cả chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng,
đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng. Căn cứ
vào chức năng, ngân hàng được chia làm hai loại: ngân hàng thương mại và
ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản
nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương
mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm
vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích
kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là “ vốn- tiền “ , trả lãi suất huy động
vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi
nhuận của ngân hàng thương mại. . Hoạt động của ngân hàng thương mại
phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh
nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường
chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân
hàng.
Một cách hiểu về NHTM khá phổ biến ở Việt Nam hiện nay là định nghĩa
Ngân hàng dựa trên các hoạt động chủ yếu của nó. Theo đó NHTM là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi với
trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, làm nghiệp vụ chiết
khấu và làm các phương tiện thanh toán.
Một cách tiếp cận thận trọng hơn là có thể xem xét các tổ chức này trên
phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. NHTM là một tổ
chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Tuy nhiên cách định nghĩa dựa trên bản chất của các NHTM là đầy đủ
nhất, theo đó các NHTM là các tổ chức kinh tế hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ,
với nội dung hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng để cho vay, đồng thời thực hiện các uỷ thác của khách hàng và cung
cấp các dịch vụ tài chính khác.
Theo Luật các TCTD của Quốc hội năm 1997 thì “ Ngân hàng là loại
hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt đông Ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan “ trong đó “ TCTD là loại hình doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ,
làm dịch vụ Ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp
tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán “ .
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
13
Chuyên đề tốt nghiệp
1. 2. 2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Có thể nói Ngân hàng thương mại là 1 Doanh nghiệp đặc biệt hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp các dịch vụ cho công
chúng và Doanh nghiệp. NHTM thực hiện các hoạt động cơ bản sau :
1. 2. 2. 1. Huy động vốn
NHTM là 1 trung gian tài chính, thông qua nghiệp vụ của mình cung cấp
vốn cho cả nền kinh tế. Muốn thực hiện được điều này đầu tiên Ngân hàng
phải thực hiện huy động vốn, đây là hoạt động cơ bản, đầu tiên và quan trọng
nhất đối với mỗi một Ngân hàng. Nguồn vốn của Ngân hàng được huy động
thông qua các kênh dẫn khác nhau như huy động tiền gửi, huy động thông qua
phát hành các giấy tờ có giá, vay trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng …. từ
đó gom góp các khoản tiền nhàn rỗi và tiến hành cho vay, đầu tư đối với nền
kinh tế.
Huy động vốn là quá trình NHTM nhận tiền gửi của tổ chức và cá nhân
dưới các hình thức nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành giấy
tờ có giá… và tiền vay của NHNN, các tổ chức tín dụng khác.
1. 1. 2. 2. Sử dụng vốn
Ngoài việc huy động vốn Ngân hàng tiến hành các hoạt động sử dụng
vốn bởi NHTM là tổ chức “ đi vay để cho vay “ .
Sử dụng vốn của NHTM chủ yếu từ hoạt động tín dụng và đầu tư, tín
dụng là quá trình NHTM cho các tổ chức và cá nhân vay vốn để phục vụ cho
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; đầu tư là quá trình các
NHTM dùng vốn tự có và các quỹ của mình mua đi bán lại các giấy tờ có giá
(tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, NHNN) , chứng khoán hoặc góp vốn,
liên doanh liên kết, mua cổ phần…
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nên các tài sản của Ngân hàng,
bao gồm :
Họat động tín dụng : đây là hoạt động quan trọng nhất tạo nguồn thu nhập
cho Ngân hàng, là hoạt động truyền thống và chủ yếu của NHTM. Hoạt
động tín dụng của Ngân hàng bao gồm : chiết khấu thương phiếu, cho vay,
cho thuê tài sản và bảo lãnh trong đó cho vay chiếm tới 60-70 % hoạt động tín
dụng. Thực hiện tốt nghiệp vụ tín dụng giúp Ngân hàng tránh được tình trạng
đọng vốn sau khi huy động vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Trong tình hình
đó thì cho thuê tài chính (CTTC) là giải pháp bổ sung hữu hiệu cho ngân
hàng để giải quyết những vướng mắc trên khi cấp tín dụng.
CTTC là phương thức tài trợ hữu hiệu cho các doanh nghiệp chưa đủ
điều kiện vay vốn tại ngân hàng, đây là hoạt động tín dụng trung và dài hạn
thông qua việc cho thuê máy móc , thiết bị, phương tiện vận chuyển và các
động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê.
Trong thời hạn cho thuê tài chính thì tài sản cho thuê vẫn thuộc quyền sở hữu
của bên cho thuê nên hình thức cấp tín dụng này đạt sự an toàn cao. Ngược
lại, doanh nghiệp có nhiều thuận lợi khi thuê tài chính: bên CTTC xét thấy
doanh nghiệp có dự án đầu tư hiệu quả, tình tình tài chính tốt thì doanh
nghiệp chỉ cần đặt cọc hay ký cược thì sẽ được xét duyệt thuê tài chính mà
không cần tài sản thế chấp hay cầm cố, với sự thuận như vậy nên thời gian
qua hoạt động cho thuê tài chính đã tiếp cận rất nhiều với các doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ thông qua tài trợ vốn.
Hoạt động đầu tư : với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh
vực dịch vụ tài chính, Ngân hàng luôn tìm cách đa dạng hoá các loại hình
hoạt động không chỉ đơn thuần là tín dụng, Ngân hàng còn tiến hành các hoạt
động đầu tư tạo thêm thu nhập dưới các hình thức : mua bán kinh doanh
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
15
Chuyên đề tốt nghiệp
chứng khoán hoặc góp vốn đầu tư vào các Doanh nghiệp khác; đầu tư vào
trang thiết bị phục vụ quá trình kinh doanh của Ngân hàng.
Chức năng cơ bản của hệ thống ngân hàng ngày nay là tạo ra và cung cấp các
dịch vụ tài chính mà thị trường có nhu cầu. Một trong những dịch vụ quan
trọng nhất là cho vay, đặc biệt là thực hiện những khoản cho vay tài trợ đối
với hoạt động đầu tư của các hãng kinh doanh hay tài trợ cho chi tiêu của các
thành viên trong xã hội. Những khoản vay này tạo ra công ăn việc làm và thu
nhập cho hàng ngàn người. Mặc dù không phải tất cả những người này đều
vay vốn ngân hàng nhưng chắc chắn họ là những người được hưởng lợi gián
tiếp từ hoạt động cho vay. Tuy nhiên ngân hàng không thể sử dụng toàn bộ số
vốn huy động để cho vay. Một mặt, hầu hết các khoản cho vay có tính thanh
khoản thấp, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường một cách dễ dàng
để đáp ứng nhu cầu tiền mặt. Một vấn đề khác nữa là những khoản cho vay
thuộc nhóm tài sản của ngân hàng có mức rủi ro cao nhất như rủi ro do vỡ nợ
cao nhất. Đặc biệt, với những ngân hàng vừa và nhỏ, chủ yếu các khoản cho
vay của họ chỉ tập trung trong địa phận nơi ngân hàng đặt trụ sở. Do bất kỳ
một sự suy giảm đáng kể nào trong nền kinh tế địa phương đều đưa đến sự
giảm sút chất lượng đối với danh mục cho vay của ngân hàng. Mặt khác tất cả
những khoản thu nhập từ cho vay đều chịu thuế. Điều này đã buộc các ngân
hàng phải nỗ lực tìm kiếm những lĩnh vực đầu tư mới nhằm hạn chế sự tác
động của thuế, đặc biệt trong những năm gần đây khi mà hoạt động cho vay
luôn đứng ở mức cao. Vì tất cả những lý do trên, các ngân hàng đã phân chia
danh mục tài sản của mình từ 1/5 đến 1/3 giá trị danh mục vào một loại hình
tài sản sinh lời khác: đầu tư chứng khoán (đầu tư chứng khoán chỉ những
hành vi mua cổ phiếu, trái phiếu nhằm mục đích thu lợi của pháp nhân hoặc
cá nhân, nó là hình thức quan trọng của đầu tư trực tiếp) . Ngân hàng chủ yếu
đầu tư vào các loại chứng khoán sau: Tín phiếu và trái phiếu chính phủ, Tín
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
16
Chuyên đề tốt nghiệp
phiếu và trái phiếu công ty, các loại chứng khoán nợ khác và một số cổ phiếu
được pháp luật cho phép. Việc nắm giữ các chứng khoán có vai trò quan trọng
đối với danh mục tài sản của ngân hàng như đem lại thu nhập, nâng cao tính
thanh khoản, tăng cường mức độ đa dạng hoá, hạn chế rủi ro và ít nhất một
phần thu nhập của ngân hàng không phải chịu thuế. Khoản mục đầu tư cũng
có vai trò ổn định thu nhập của ngân hàng, tạo ra thu nhập bổ sung khi các
nguồn thu khác (đặc biệt là nguồn thu từ lãi cho vay) suy giảm.
1. 1. 2. 3. Các hoạt động khác
Xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ của mình, các NHTM tiến hành cung
cấp các dịch vụ cho khách hàng như : dịch vụ thanh toán, dịch vụ tư vấn, dịch
vụ bảo hiểm, kinh doanh ngoại tệ …. . một phần đa dạng hoá hoạt động Ngân
hàng, một phần cung ứng thêm các tiện ích cho khách hàng và thu hút khách
hàng. Hiện nay các Ngân hàng rất chú trọng việc phát triển, mở rộng các loại
hình dịch vụ hiện đại đáp ứng nhu cầu ngày càng cao nhằm tăng thêm tính
cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng.
1. 3. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ.
1. 3. 1. Khái niệm và phân loại Tín dụng ngân hàng
1. 3. 1. 1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng là sự chuyển dụng tạm thời một lượng giá trị từ người chủ sở
hữu sang người sử dụng vốn, sau một thời gian nhất định người sử dụng có
trách nhiệm hoàn trả cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban
đầu.
Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá )
giữa bên cho vay ( Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay
( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác ) , trong đó bên cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
17
Chuyên đề tốt nghiệp
thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên
cho vay khi đến hạn thanh toán.
1. 3. 1. 2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Do quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừ và nhỏ
không lớn nên tín dụng cho các loại hình doanh nghiệp này cũng không lớn.
- Các doanh nghiệp vừ và nhỏ chủ yếu vay vốn để tài trợ cho sự thiếu
hụt về vốn lưu động, nên các khoản vay mang tính nhỏ, lẻ.
- Do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan nên hầu hết
các DNVVN chỉ được vay các khoản vốn ngắn hạn. Các khoản vốn này chủ
yếu phục vụ cho quá trình sản xuất chứ chưa có tác dụng nâng cao, mở rộng
năng lực sản xuất.
- Cho vay trung dài hạn đối với các DNVVN chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
trong tổng nguồn vốn cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này. Và tỷ lệ
nhỏ đó lại thuộc về đại đa số các DNVVN thuộc khối doanh nghiệp Nhà
nước.
Cho vay DNVVN chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, những rủi ro đó xuất
phát chính từ những đặc điểm của nó như vốn ít, trình độ công nghệ và quản
lý hạn chế. . . Gây ra cho doanh nghiệp những khó khăn trong quá trình sản
xuất kinh doanh.
1. 3. 2. Các hình thức tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, các NHTM đã không ngừng
đæi mới hoạt động của mình cho phù hợp với những điều kiện khác nhau của
nền kinh tế. Cùng với sự đi lên của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường, các hình thức tín dụng ngân hàng cũng ngày càng trở nên phong phú
và đa dạng, đáp ứng các nhu cầu khác nhau về vay vốn. Tín dụng Ngân hàng
đã trở nên người bạn đồng hành thân thiết, là động lực thúc đẩy quan trọng
của từng doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì NHTM có các
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
18
Chuyên đề tốt nghiệp
hình thức cấp tín dụng chủ yếu sau:
- Tín dụng chiết khấu.
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó
khách hàng chuyển nhượng thương phiếu chưa đáo hạn cho Ngân hàng để đổi
một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng
phí ( nếu có ) . Như vậy, với những hối phiếu và lệnh phiếu còn trong hạn
thanh toán, khách hàng có thể yêu cầu Ngân hàng chiết khấu. Ngân hàng sẽ
tiến hành phân tích tín dụng, nếu mức rủi ro nằm trong giới hạn chấp nhận
được và còn nằm trong hạn mức, Ngân hàng sẽ tiến hành chiết khấu.
- Cho vay ứng trước.
Kỹ thuật ứng trước là phương thức tài trợ trực tiếp cho người đi vay để
đáp ứng nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn, gồm các nội dung:
+ Hai bên thoả thuận một mức cho vay trong một thời hạn cho vay nhất
định.
+ Bên đi vay chịu trách nhiệm vô điều kiện việc hoàn trả nợ vay khi đến
hạn.
Cho vay ứng trước có hai phương thức chính là: Hạn mức tín dụng và
kỹ thuật thấu chi trên tài khoản vãng lai.
Hạn mức tín dụng là loại cho vay đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn lưu
động thiếu hụt của doanh nghiệp, nó là giới hạn tối đa số tiền cho vay mà
Ngân hàng có thể cung cấp cho một khách hàng trong một thời gian nhất
định. Cho vay theo hạn mức được áp dụng với những doanh nghiệp có đặc
điÓm kinh doanh ổn định, có nhu cầu vay nợ Ngân hàng thường xuyên và
quan trọng phải có độ tín nhiệm cao đối với Ngân hàng.
Kỹ thuật thấu chi là Ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền vượt quá
số tiền trên tài khoản vãng lai trong phạm vi, thời hạn và hạn mức nhất định.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Hình thức tín dụng này giúp cho việc cân đối quỹ của doanh nghiệp tránh
phải đi vay nhiều lần thủ tục phức tạp trong một kỳ.
- Cho vay trả góp.
Là các khoản cho vay tài trợ nhu cầu mua máy móc thiết bị và các nhu
cầu khác của doanh nghiệp, có thời hạn trên một năm, tiền vay được thanh
toán dần dần cho Ngân hàng theo từng định kỳ. Các điều khoản về mức cho
vay, lãi suất vay, kỳ hạn trả, mức trả từng lần cho gốc và lãi… được Ngân
hàng và khách hàng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Cho vay bắc cầu
Cho vay bắc cầu là một kiểu tài trợ tạm thời, nhằm bù vào những thiếu
hụt vốn trong thời gian công ty đang huy động vốn hay phát hành các công cụ
nợ, cũng như nhằm tài trợ sự thiếu vốn tạm thời cho khách hàng khi khách
hàng này được các Ngân hàng hay các định chế tài chính khác đồng ý cho vay
bằng hình thức vay kỳ hạn nhưng chưa được giải ngân. Mục tiêu chủ yếu của
nó nhằm chủ yếu đảm bảo cho các dự án có đủ vốn thực hiện đúng kế hoạch,
tránh tốn kém cả về chi phí lẫn thời gian.
- Tín dụng thuê mua tài chính.
Cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ vốn trong đó theo yêu cầu
của bên đi thuê, bên cho thuê tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho bên
cho thuê sử dụng. Theo phương thức này, người vay được sử dụng tài sản
mình cần trên cơ sở đi vay không cần phải bỏ vốn mua mà chỉ phải chi tiền
thuê tài sản đó cho công ty tín dụng thuê mua. Khi hết hạn hợp đồng thuê,
người vay được quyền mua lại tài sản thuê. Trong thời gian thuê, tài sản vẫn
thuộc sở hữu của người cho thuê nhưng thực chất đây là một khoản vay có
bảo đảm chắc chắn. Hình thức tín dụng thuê mua tạo thuận lợi rất nhiều cho
các doanh nghiệp hạn hẹp về ngân quỹ như các doanh nghiệp vừ và nhỏ.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Các hình thức tín dụng là sản phẩm của NHTM trên thị trường kinh
doanh tín dụng và cung cấp dịch vụ Ngân hàng. Chính sự phong phú về nhu
cầu vay vốn của các loại hình doanh nghiệp cùng với sự cạnh tranh gay gắt
trên thị trường Ngân hàng đã làm cho các sản phẩm tín dụng của Ngân hàng
ngày càng được cải thiện theo hướng đi lên.
1. 3. 3. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của các DNVVN
là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp này cũng sử dụng
vốn tín dụng Ngân hàng đó đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như tối ưu
hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình…Để thấy được vai trò của tín dụng Ngân
hàng trong việc phát triển DNVVN ta xét một số vai trò sau:
+ Tín dụng Ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các
DNVVN được liên tục.
Trên thực tế không một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn
cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Việc phát triển và mở rộng sản xuất kinh
doanh chủ yếu dựa vào tài trợ của hệ thống Ngân hàng. Vốn tín dụng của
ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản,
mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến phương thức kinh doanh… Có vốn các
doanh nghiệp sẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu về nguyên nhiên vật liệu phục vụ
sản xuất. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản
xuất kinh doanh được liên tục.
+ Tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
DNVVN .
Các Ngân hàng chỉ cho vay khi các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả, khả năng tài chính lành mạnh đủ đảm bảo trả nợ. Do đó đòi hỏi các
doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của Ngân hàng phải có phương án sản
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
21
Chuyên đề tốt nghiệp
xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn, các doanh nghiệp phải tìm cách sử
dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận
phải lớn hơn lãi suất Ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi.
Trong quá trình cho vay, Ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau
khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu
quả.
+ Tín dụng Ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả
năng cạnh tranh của các DNVVN .
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn
tại, đứng vững và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong
cạnh tranh. Đặc biệt đối với các DNVVN , do có một số hạn chế nhất định,
việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong
nước và ngoài nước là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các
doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và
mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy
nhiên, để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự
có lại hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì phải mất rất nhiều năm mới thực
hiện được. Và khi đó cơ hội để đầu tư phát triển không còn nữa. Như vậy, để
có thể đáp ứng kịp thời cơ hội đầu tư, các DNVVN chỉ có thể tìm đến tín
dụng Ngân hàng. Chỉ có tín dụng Ngân hàng mới có thể giúp doanh nghiệp
thực hiện được mục đích của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh,
chiếm lĩnh thị trường cạnh tranh.
1. 4. HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. 4. 1. Quan niệm về hiệu quả tín dụng Ngân hàng thương mại.
Hiệu quả tín dụng Ngân hàng là một trong những biểu hiện của hiệu
quả kinh tế trong lĩnh vực Ngân hàng, nó phản ánh chất lượng của các hoạt
động tín dụng Ngân hàng. Đó là khả năng cung ứng tín dụng phù hợp với yêu
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
22
Chuyên đề tốt nghiệp
cầu phát triển của các mục tiêu kinh tế-xã hội và nhu cầu của khách hàng đảm
bảo nguyên tắc hoàn trả nợ vay đúng hạn, mang lại lợi nhuận cho NHTM từ
nguồn tích luỹ do đầu tư tín dụng và do đạt được các mục tiêu tăng trưởng
kinh tế, trên cơ sở đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của Ngân
hàng.
Vì vậy, hiệu quả tín dụng là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh khả
năng thích nghi của tín dụng Ngân hàng với sự thay đổi của các nhân tố chủ
quan ( khả năng quản lý, trình độ cán bộ tín dụng Ngân hàng…) , khách quan
mức độ an toàn vốn tín dụng, lợi nhuận của khách hàng, sự phát triển kinh tế-
xã hội…) . Do đó hiệu quả tín dụng là kết quả của mối quan hệ biện chứng
giữa Ngân hàng- khách hàng vay vốn - nền kinh tế - xã hội.
1. 4. 2. Các tiêu thức đánh giá hiệu quả tín dụng Ngân hàng.
Thứ nhất : Doanh số cho vay
Doanh số cho vay phản ánh quy mô của hoạt động tín dụng. Nó phản
ánh tổng số tiền mà Ngân hàng đã cho vay trong kỳ, tính cho ngày, tháng,
quý, năm. Doanh số cho vay của một Ngân hàng cao không đồng nghĩa với
hiệu quả tín dụng của Ngân hàng đó tốt vì còn phụ thuộc vào độ rủi ro của các
khoản cho vay. Tuy nhiên, nếu Ngân hàng có doanh số cho vay cao thì có khả
năng tạo ra nhiều lợi nhuận
Thứ hai : Doanh số thu nợ
Doanh số thu nợ phản ánh khả năng thu hồi nợ ( gốc và lãi ) của Ngân
hàng. Ngân hàng có hiệu quả tín dụng cao khi có doanh số cho vay lớn và
doanh số thu nợ cao.
Thứ ba : Tổng dư nợ
Là chỉ tiêu phản ánh số tiền mà Ngân hàng hiện đang cho vay tính đến
thời điểm cụ thể. Dư nợ là chỉ tiêu tích lũy qua các kỳ.
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Dư nợ
cuối kỳ
=
Dư nợ
đầu kỳ
+
Doanh số cho
vay trong kỳ
-
Doanh số thu nợ
trong kỳ
Dư nợ tại thời điểm tính sẽ quyết định hiệu quả tín dụng của Ngân
hàng trong tương lai.
Thứ tư : . Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng.
Ngoài các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ở năm tài chính nói trên,
người ta còn sử dụng đến một số chỉ tiêu khác khi xem xét mặt hoạt động này
trong một quá trình nhiều năm đến thời điểm nghiên cứu, cụ thể là:
Tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn =
Tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn
Tổng dư nợ
x 100
Tỷ lệ nợ nghi ngờ ( % ) =
Tỷ lệ nợ nghi ngờ
Tổng dư nợ
x 100
Tỷ lệ nợ tổn thất ( % ) =
Nợ được xếp loại tổn thất
Tổng dư nợ
x 100
Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro
( %)
=
Quỹ dự phòng rủi ro
Tổng dư nợ
x 100
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ giữa khoản nợ gốc quá hạn ( hoặc tính cả tiền
lãi quá hạn) trên tổng dư nợ. Phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ
mà Ngân hàng có thể mất vốn một phần hoặc toàn bộ. Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ
tiêu quan trọng để đánh hiệu quả tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn tại thời điểm tính
thấp biểu thị độ an toàn tín dụng tại Ngân hàng cao và ngược lại. Tuy nhiên,
tỷ lệ này không xét đến các khoản tín dụng có nguy cơ quá hạn. Do đó, nếu
các khoản cho vay tăng nhanh thì tỷ lệ này có thể phản ánh không chính xác
chất lượng tín dụng. Tổng dư nợ tăng lên trong khi đó số nợ đến hạn chỉ tăng
khi các khoản nợ đến kỳ hạn phải trả. Phân tích tình hình nợ quá hạn để biết
chất lượng tín dụng, khả năng rủi ro, hiệu quả kinh doanh của các tổ chức tín
dụng, từ đó có biện pháp khắc phục trong tương lai.
Thứ năm : Chỉ tiêu về lợi nhuận .
Thu nhập = Thu từ - Chi + Thu - Chi - Thuế thu
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
24
Chuyên đề tốt nghiệp
ròng sau
thuế
lãi trả lãi khác khác nhập
Chỉ tiêu thu nhập ròng sau thuế cho ta biết khả năng sinh lời của Ngân
hàng. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả tín dụng càng lớn.
Trên đây là những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng Ngân hàng. Hiệu
quả do hoạt động tín dụng mang lại phải bù đắp chi phí cho vay, rủi ro trong
tín dụng, có lợi nhuận không chỉ đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân
viên, không ngừng tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc,
phục vụ khách hàng theo hướng ngày càng hiện đại, làm tròn nghĩa vụ với
Nhà nước mà còn có tích luỹ để tăng vốn tự có.
1. 5. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG.
1. 5. 1. Các nhân tố chủ quan.
+ Một trong hai nguyên tắc vay vốn là “ sử dụng vốn vay đúng mục
đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng “ điều này khẳng định việc sử
dụng vốn vay đúng mục đích có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình hoạt
động tín dụng.
Nếu khách hàng vay vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh không có
hiệu quả, không thu được lợi nhuận, thậm chí thua lỗ nên không thể trả lợi tức
cho các Ngân hàng và vì thế tổ chức tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Rõ ràng hạn chế những rủi ro trong
sản xuất, kinh doanh đồng nghĩa với việc hạn chế rủi ro trong tín dụng, góp
phần nâng cao hiệu quả tín dụng.
+ Quyết định cho vay phải dựa trên các dữ liệu thông tin về khách hàng
vay vốn.
Thẩm định uy tín khách hàng vay vốn là yêu cầu trước tiên và quan
trọng nhất trong quan hệ tín dụng. Theo đó, Ngân hàng phải xác định cho
Sinh viên: Phạm Văn Thuận Lớp: TCDN 46Q
25