Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Rủi ro và quản trị rủi ro đối với phương thức thanh toán tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.6 KB, 86 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Để bắt kịp với tốc độ phát triển nhanh chóng của thương mại quốc tế
đang diễn ra nhanh chóng trên toàn thế giới đặc biết là việc nâng cao chất
lượng nghiệp vụ thanh toán quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự
phát triển của các Ngân hàng thương mại.
Tại NHNo & PTNT chi nhánh Nam Hà Nội, kể từ khi bắt đầu triển
khai nghiệp vụ thanh toán quốc tế, phương thức thanh toán bằng tín dụng
chứng từ luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh số. Do đó, việc cải
tiến quy trình nghiệp vụ thanh toán bằng thư tín dụng theo hướng ngày một
hoàn thiện để có thể đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro là rất cần thiết.
Bên cạnh những thành tựu rất đáng khích lệ đã đạt được trong hoạt
động thanh toán quốc tế của chi nhánh Nam Hà Nội thời gian qua, khó tránh
khỏi tránh khỏi một số tồn tại nhất định nhưng điều quan trọng là phải tìm ra
được những tồn tại đó để có thể sớm đưa ra những giải pháp khắc phục, nâng
cao hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán thư tín
dụng nói riêng.
Với mục đích đó, trong khuôn khổ Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này,
em chọn đề tài: “Rủi ro và quản trị rủi ro đối với phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam
Hà Nội”
Phương pháp nghiên cứu cơ bản được sử dụng trong chuyên đề là phương
pháp phân tích, thống kê, tổng hợp so sánh... cùng với việc tham khảo các tài
liệu tạp chí, báo cáo tổng kết của NHNo & PTNT Nam Hà Nộị và những cố
gắng tìm hiểu độc lập trong suy nghĩ. Em mong muốn đóng góp một phần nhỏ
bé vào việc nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán thư tín dụng tại NHNo &
PTNT Nam Hà Nội với hy vọng NHNo & PTNT Nam Hà Nội sẽ tìm được một
vài ý kiến có giá trị trong chuyên đề này.
NguyÔn Huy Toµn 1 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
Chuyên đề được chia làm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về rủi ro trong hoạt động tín dụng chứng từ của ngân
hàng


Chương II. Thực trạng kinh doanh tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín
dụng chứng từ tại chi nhánh NHNo&PTNT Chi nhánh Nam Hà Nội
Chương III. Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng chứng từ tại NHNo&PTNT
Chi nhánh Nam Hà Nội
Với sự hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm, thời gian nghiên cứu viết
chuyên đề cũng có hạn , bởi vậy chuyên đề không thể tránh khỏi những hạn
chế thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và
các bạn.
NguyÔn Huy Toµn 2 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA NGÂN HÀNG
1.1. Giới thiệu chung về tín dụng chứng từ
1.1.1. Khái niệm, đặc trưng của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
1.1.1.1. Khái niệm phương thức tín dụng chứng từ (TDCT)
Theo điều 2 UCP500 do ICC xuất bản 1993 thì thuật ngữ " tín dụng chứng
từ" <documentary credit> có nghĩa là bất cứ một sự thoả thuận nào cho dù được
gọi hay mô tả như thế nào do đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành) hành động
theo yêu cầu và chỉ thị của khách hàng (người yêu cầu phát hành thư tín dụng)
nhân danh chính mình:
- Uỷ quyền cho Ngân hàng khác chiết khấu, dựa vào những chứng từ đã
được quy định, đảm bảo rằng các điều kiện và điều khoản của tín dụng phải phù
hợp.
- Phải thực hiện việc trả tiền theo lệnh của người thứ ba (người thụ hưởng)
hoặc phải chấp nhận và trả tiền hối phiếu do người thụ hưởng phát hành.
- Uỷ quyền cho Ngân hàng khác thực hiện việc trả tiền như vậy, hoặc
chấp nhận trả tiền hối phiếu đó.
Nói một cách khác:Thanh toán bằng thư tín dụng là một sự thoả thuận,
trong đó một Ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách
hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho người
khác (người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do

người này ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho Ngân
hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề ra trong thư
tín dụng.
NguyÔn Huy Toµn 3 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
1.1.1.2. Đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ
a) Phương thức TDCT được thực hiện theo UCP500
Trong thanh toán quốc tế nói chung thì hình thức thanh toán bằng L/C được
sử dụng phổ biến và an toàn nhất. Tuy nhiên, trong thực tiễn thương mại quốc tế
cho thấy việc áp dụng phương thức TDCT tại các quốc gia khác nhau cũng có sự
khác biệt. Chính vì thế, bản "Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng
từ" ấn bản số 500 năm 1993 (gọi tắt là UCP500) do Phòng thương mại quốc tế
(ICC) nghiên cứu, soạn thảo và sửa đổi, có hiệu lực từ 01/01/1994, đã có những
chỉ dẫn cụ thể, chi tiết về nội dung giao dịch của phương thức này.
b) TDCT là một sự thoả thuận
Khi áp dụng Bản UCP500< mang tính chất pháp lý tuỳ ý>, có nghĩa là :
các bên tham gia phải thoả thuận ghi vào văn bản của hợp đồng và có dẫn chiếu
trong L/C. TDCT là một thoả thuận, là một cam kết trả tiền có điều kiện: người
hưởng lợi phải xuất trình bộ chứng từ đúng hạn và các nội dung trong bộ chứng
từ phải phù hợp với các điều kiện trong L/C. Sự cam kết trả tiền của Ngân hàng
phải căn cứ vào bộ chứng từ chứ không chỉ dựa vào thực tế giao hàng.
c) TDCT dựa trên chứng từ
Hiện nay trong phương thức thanh toán TDCT, Ngân hàng chỉ căn cứ vào
đơn yêu cầu mở thư tín dụng của người mua gửi đến để lập thư tín dụng cam kết
trả tiền cho người bán chứ không căn cứ vào hợp đồng thương mại. Khi người
bán cam kết giao hàng, nếu xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các
điều khoản, điều kiện quy định trong thư tín dụng thì Ngân hàng phát hành sẽ trả
tiền mà không căn cứ vào việc bộ chứng từ đó có phù hợp với hợp đồng hay
không =>điều đó có nghĩa là việc chi trả của Ngân hàng có liên quan mật thiết
với việc thể hiện chứng từ mà không xét đến thực trạng của hàng hoá. Nguyên
tắc này được quy định trong Điều 4 của UCP 500: "Các nguyên tắc và cách sử

dụng thích hợp liên quan tới tín dụng thư kèm chứng từ".
NguyÔn Huy Toµn 4 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
Tuy nhiên dù được thực hiện dưới hình thức nào, hay bản chất của nó
là gì,có những chủ thể nào tham gia thì một yếu tố không thể không nhắc đến
trong phương thức này là thư tín dụng. Đây chính là yếu tố căn bản cho việc
xác lập cũng như thực hiện thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ.
1.1.2.Thư tín dụng chứng từ (Letter of Credit - L/C)
1.1.2.1. Khái niệm thư tín dụng
Thư tín dụng (L/C) là một cam kết thanh toán của Ngân hàng cho người
xuất khẩu nếu như họ xuất trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với
các điều khoản và điều kiện của L/C.
Vì thư tín dụng có tính chất hết sức quan trọng nên nó được hình thành
trên cơ sở của hợp đồng ngoại thương, tuy nhiên sau khi được thiết lập, nó lại
hoàn toàn độc lập với hợp đồng này. Tính chất độc lập của thư tín dụng được thể
hiện ở chỗ nghĩa vụ của ngân hàng đối với người hưởng lợi (nhà xuất khẩu)
hoàn toàn không phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người bán và người mua . Khi
nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ phù hợp về mặt hình thức với những nội
dung của L/C đã được mở, Ngân hàng phát hành L/C phải trả tiền vô điều kiện
cho nhà xuất khẩu mà không phụ thuộc vào tình hình cũng như thực trạng của
hàng hoá. Nếu thực trạng của hàng hoá không khớp với chứng từ thì hai bên
mua bán phải trực tiếp giải quyết với nhau. Trong trường hợp người mua từ chối
thanh toán tiền cho Ngân hàng thì Ngân hàng vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ trả
tiền cho người bán, thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã được quy định
trong L/C.
Đặc trưng này thể hiện nghĩa vụ của Ngân hàng là không thay đổi. Khi
hợp đồng ngoại thương thay đổi mà không sửa đổi thư tín dụng thì Ngân hàng vẫn
căn cứ vào thư tín dụng để thanh toán mà không cần biết đến sự thay đổi của hợp
đồng. Ngược lại, khi thư tín dụng đã được sửa đổi mà không sửa đổi hợp đồng thì
khi xuất trình bộ chứng từ thanh toán, tuy phù hợp với hợp đồng nhưng trái với
NguyÔn Huy Toµn 5 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45

thư tín dụng thì Ngân hàng phát hành vẫn có quyền từ chối thanh toán.
1.1.2.2. Nội dung chủ yếu của thư tín dụng
* Số hiệu, địa điểm, ngày mở L/C
- Số hiệu L/C: Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng để
thuận lợi trong việc trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện
thư tín dụng, hoặc để ghi vào các chứng từ có liên quan như hối phiếu hay các
chứng từ cần thiết khác.
- Địa điểm phát hành L/C: là nơi Ngân hàng mở L/C viết cam kết thanh
toán tiền cho nhà xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc
chọn pháp luật áp dụng khi giải quyết những tranh chấp về L/C.
- Ngày phát hành L/C: là ngày bắt đầu phát sinh cam kết của Ngân hàng
mở L/C với người xuất khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C,
là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực hiện việc
mở L/C có đúng hạn như đã quy định trong hợp đồng không.
* Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến L/C
- Các thương nhân: bao gồm người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C
và người nhập khẩu là người yêu cầu mở L/C.
- Các Ngân hàng tham gia : bao gồm Ngân hàng mở L/C, Ngân hàng thông
báo, Ngân hàng trả tiền, Ngân hàng xác nhận và các Ngân hàng khác (nếu có).
* Số tiền của thư tín dụng
Số tiền này được ghi bằng số và được ghi bằng chữ, thống nhất với nhau,
tên của đơn vị tiền tệ phải ghi rõ ràng. Trên thư tín dụng không nên ghi số tiền
tuyệt đối vì người xuất khẩu khó có thể giao hàng có giá trị đúng như L/C quy
định, khi đó khó có thể được thanh toán vì Ngân hàng sẽ đưa ra lý do chứng từ
không phù hợp với những điều kiện quy định trong thư tín dụng. Nên ghi số tiền
theo một số giới hạn mà người xuất khẩu có thể đạt được hoặc là một giới hạn
chênh lệch hơn kém % của tổng số tiền.
NguyÔn Huy Toµn 6 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
* Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền, thời hạn giao hàng
• - Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng: là thời hạn mà Ngân hàng mở

L/C cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu người này xuất trình bộ chứng từ
trong thời hạn đó và phù hợp với những quy định trong L/C. Thời hạn này
được tính từ ngày mở L/C đến hết ngày hiệu lực của L/C.
- Thời hạn trả tiền của L/C: là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau,
tuỳ thuộc theo quy định trong hợp đồng. Nếu thực hiện đòi tiền bằng hối
phiếu thì thời hạn trả tiền được quy định ở yêu cầu ký phát hối phiếu.
- Thời hạn giao hàng: Được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán quy
định. Thời hạn giao hàng có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C.
* Những nội dung về hàng hoá
Bao gồm tên hàng, giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, mã ký hiệu,số
lượng, trọng lượng…
* Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hoá
Bao gồm điều kiện cơ sở giao hàng (FOB,CFR,CIF), nơi gửi, nơi giao
hàng, cách vận chuyển, cách giao hàng…
* Những chứng từ người xuất khẩu phải xuất trình
Chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình được coi là 1 trong những
nội dung then chốt của thư tín dụng, bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng
là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh rằng mình đã hoàn thành
nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những điều quy định trong thư tín dụng. Nếu
bộ chứng từ phù hợp với những quy định trong thư tín dụng, Ngân hàng mở
L/C sẽ tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu.
Bộ chứng từ thường bao gồm:
- Giấy tờ bảo hiểm
- Bản kê khai hàng hoá
- Vận đơn
NguyÔn Huy Toµn 7 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
- Hóa đơn thương mại
- Giấy chứng nhận kiểm định, giấy chứng nhận xuất xứ
Và một số giấy tờ khác theo yêu cầu của người nhập khẩu.
1.1.2.3. Các loại thư tín dụng

a) Căn cứ theo công dụng của thư tín dụng:
* L/C có thể huỷ ngang
Là loại L/C có thể bị sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không cần thông báo cho
người hưởng lợi. Nó chứa đựng những rủi ro đối với người bán vì việc sửa đổi
hay huỷ thư tín dụng có thể xảy ra khi hàng hoá đang trên đường vận chuyển
hoặc trước khi việc thanh toán được thực hiện. Thư tín dụng huỷ ngang tạo cho
người mua sự chủ động tối đa vì nó có thể được sửa đổi hoặc huỷ bỏ mà không
cần thông báo cho người bán.
Thư tín dụng huỷ ngang chỉ được sử dụng trong các trường hợp:
- Giữa người mua và người bán có quan hệ tín dụng rất tốt.
- Việc giao hàng được thực hiện giữa công ty mẹ và công ty con.
* L/C có điều khoản đỏ
Là loại L/C đặc biệt, trong đó có một điều khoản ghi rõ Ngân hàng phát
hành sẽ chuyển tiền hoặc uỷ quyền cho Ngân hàng thông báo (hay Ngân hàng
xác nhận, Ngân hàng chiết khấu) để thực hiện ứng trước cho người hưởng lợi
một số tiền nhất định, thông thường tính theo tỷ lệ phần trăm so với giá trị
L/C. Người hưởng lợi phải xuất trình chứng từ tại Ngân hàng mà họ đã nhận
tiền ứng trước và phải bồi hoàn lại số tiền này nếu không xuất trình đủ chứng
từ hợp lệ trong thời hạn quy định. Số tiền ứng trước được thực hiện theo yêu
cầu của người mở L/C.
Rủi ro trong thanh toán L/C có điều khoản đỏ là tiền ứng trước có thể
bị sử dụng không đúng mục đích, chứng từ do nhà xuất khẩu trình có thể
không phù hợp hoặc người xuất khẩu không hoàn thành được việc sản xuất
NguyÔn Huy Toµn 8 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
hàng hoá mà cũng không hoàn lại được tiền ứng trước cho Ngân hàng.
* L/C không thể huỷ ngang
Là loại L/C sau khi đã được Ngân hàng mở thì không thể sửa đổi, bổ
sung hay huỷ bỏ trong thời hạn hiệu lực của nó nếu chưa có sự thoả thuận của
các bên tham gia. Như vậy, nếu không có sự nhất trí của bên bán, của Ngân
hàng xác nhận thì Ngân hàng mở L/C không được phép thực hiện theo yêu

cầu của bên mua, do đó quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn.
* L/C chuyển nhượng
Là một L/C mà người hưởng đầu tiên có thể chuyển nhượng toàn bộ hoặc
một phần giá trị L/C cho một hoặc nhiều người hưởng lợi thứ hai. Trong L/C
chuyển nhượng, người hưởng lợi thứ nhất không tự động cung cấp được hàng
hoá, mà chỉ là trung gian môi giới giữa người cung cấp hàng hoá và người mua
cuối cùng. L/C này cũng chỉ đuợc chuyển nhượng một lần, có nghĩa là người
hưởng lợi thứ hai không được chuyển nhượng cho người hưởng lợi thứ ba.
Các bên tham gia trong phương thức L/C chuyển nhượng bao gồm:
- Nhà nhập khẩu
- Nhà xuất khẩu/ Người hưởng lợi thứ nhất
- Ngân hàng phát hành
- Ngân hàng thông báo/ chuyển nhượng (NH chấp nhận hoặc chiết khấu)
- Người cung cấp/ Người hưởng lợi thứ hai.
L/C chuyển nhượng thường được sử dụng khi người hưởng lợi thứ nhất là
đại lý cho nhà nhập khẩu, khi đó họ không cần phải giữ bí mật về người cung cấp
hàng hoá, còn trong trường hợp người hưởng lợi chỉ là người trung gian cung cấp
hàng hoá cho nhà nhập khẩu thì họ rất muốn giữ bí mật về người cung cấp.
* L/C giáp lưng
Khi người hưởng nhận được một L/C (L/C gốc) không phải L/C
chuyển nhượng song không thể tự mình cung cấp hàng hoá, khi đó họ có thể
NguyÔn Huy Toµn 9 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
thoả thuận với Ngân hàng của mình phát hành một L/C thứ hai (L/C giáp
lưng) với nội dung tương tự cho người cung cấp hàng hoá.
Các bên tham gia trong L/C gốc :
- Nhà nhập khẩu
- Ngân hàng trung gian (Ngân hàng thông báo)
- Người trung gian (Người hưởng lợi thứ nhất).
- Ngân hàng nhập khẩu
* L/C tuần hoàn

Là loại L/C không thể huỷ ngang mà sau khi sử dụng xong hoặc sau khi
hết hạn hiệu lực L/C thì sẽ tự động khôi phục lại giá trị như cũ mà không cần
mở L/C mới. Quy trình nghiệp vụ giống như L/C không thể huỷ ngang.
L/C tuần hoàn có thể khống chế việc thực hiện tuần hoàn theo hai cách:
- Theo thời gian: là khống chế thời hạn hiệu lực của L/C trong mỗi lần
tuần hoàn và tổng giá trị L/C. Theo cách này có thể là L/C tích luỹ hoặc
không tích luỹ. L/C tuần hoàn không tích luỹ không cho phép cộng số tiền
của L/C trước để tăng giá trị của L/C sau nếu L/C trước chưa sử dụng hết.
- Theo giá trị: là L/C được phép khôi phục lại giá trị ngay khi giá trị cũ
đã được sử dụng. Loại L/C này ít được sử dụng vì nó tạo ra một cam kết vô
hạn của Ngân hàng phát hành. Do đó thông thường khi phát sinh nhu cầu
thanh toán L/C tuần hoàn, các Ngân hàng thường phát hành L/C khống chế
theo thời gian hoặc vừa khống chế số tiền vừa khống chế thời gian.
Có ba cách tuần hoàn:
- Tuần hoàn tự động: nghĩa là L/C tiếp sau tự động có giá trị, không cần
sự thông báo của Ngân hàng phát hành L/C.
- Tuần hoàn không tự động: nghĩa là chỉ khi nào Ngân hàng phát hành
L/C thông báo cho người bán thì L/C mới có giá trị hiệu lực.
- Tuần hoàn hạn chế (bán tự động): nghĩa là nếu sau vài ngày kể từ
NguyÔn Huy Toµn 10 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
ngày L/C cũ hết hạn hiệu lực hoặc đã sử dụng hết mà không có ý kiến gì của
Ngân hàng phát hành thì L/C kế tiếp tự động có giá trị hiệu lực.
* L/C dự phòng
Là một loại tín dụng chứng từ hoặc một thoả thuận tương tự, dù được
gọi hay miêu tả bằng cách nào, theo đó Ngân hàng phát hành cam kết với
người thụ hưởng:
- Bồi hoàn về những thiệt hại do người yêu cầu mở không thực hiện
được nghĩa vụ của chính mình.
- Trả khoản tiền mà người yêu cầu mở thư tín dụng đã vay hoặc
nhận ứng trước.

L/C dự phòng cũng là cam kết thanh toán của Ngân hàng phát hành cho
người hưởng lợi. Song khác với thư tín dụng truyền thống, là phương tiện thanh
toán của người mua cho người bán theo hợp đồng thương mại, thì thư tín dụng dự
phòng chỉ được sử dụng để phòng ngừa phía đối tác vi phạm nghĩa vụ hoặc cam
kết, gây hậu quả xấu cho người hưởng, và việc thanh toán sẽ được thực hiện khi
người hưởng xuất trình được những bằng chứng nêu lên những điều kiện cam kết
không được tôn trọng.
Như vậy, thực chất L/C dự phòng giống như một thư bảo lãnh của Ngân
hàng. Riêng trong xuất nhập khẩu hàng hoá, thư tín dụng dự phòng là L/C mà
trong đó Ngân hàng mở cam kết với người hưởng lợi (nhà nhập khẩu) là sẽ thanh
toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng theo L/C đã đề ra.
* L/C xác nhận
Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được một Ngân hàng khác xác
nhận, điều đó có nghĩa là ngoài cam kết thanh toán của Ngân hàng phát hành còn có
thêm sự cam kết thanh toán của Ngân hàng xác nhận. Ngân hàng xác nhận có thể là
Ngân hàng thông báo hoặc là một Ngân hàng thứ ba tuỳ theo thoả thuận giữa người
NguyÔn Huy Toµn 11 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
mua, người bán và Ngân hàng phát hành. Trong thực tế, việc yêu cầu xác nhận L/C
không xuất phát từ mong muốn của người mở L/C mà xuất phát từ yêu cầu của
người hưởng khi họ nghi ngờ khả năng thanh toán và uy tín của Ngân hàng phát
hành, hoạc họ lo lắng về tình hình chính trị và khả năng an toàn của nước người mua.
Khi Ngân hàng xác nhận đã thanh toán cho người hưởng theo đúng quy định của
L/C, nó có quyền truy đòi lại số tiền đã thanh toán từ Ngân hàng phát hành. Để đảm
bảo an toàn, Ngân hàng xác nhận có thể yêu cầu Ngân hàng phát hành ký quỹ theo tỷ
lệ nhất định. Ngược lại, để đảm bảo quyền lợi của mình, Ngân hàng phát hành sẽ
thoả thuận với khách hàng để chọn Ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất
khẩu làm Ngân hàng xác nhận, tránh những rủi ro về vốn ký quỹ tại Ngân hàng xác
nhận.
Hiện tại có một số Ngân hàng xác nhận L/C mà không cần có sự uỷ

quyền của Ngân hàng phát hành, loại L/C này được coi là xác nhận ngầm và
Ngân hàng xác nhận chịu hoàn toàn rủi ro trong trường hợp này mà không
được phép dẫn chiếu theo các điều khoản của UCP500.
b) Căn cứ vào thời hạn thanh toán của thư tín dụng
* L/C trả chậm
Là loại L/C trong đó Ngân hàng phát hành cam kết thanh toán cho
người hưởng lợi số tiền của thư tín dụng một số ngày sau khi bộ chứng từ
hoàn hảo được xuất trình hoặc sau ngày giao hàng.
Loại thư tín dụng này có hai dạng:
- L/C có kỳ hạn: Là loại L/C không huỷ ngang trong đó Ngân hàng phát hành
sẽ chấp nhận hối phiếu có kỳ hạn do người hưởng lợi ký phát khi họ xuất trình được
bộ chứng từ hoàn hảo. Những hối phiếu này nhà xuất khẩu có thể giữ cho đến thời
hạn thanh toán và lúc ấy trình nộp Ngân hàng để nhận tiền hoặc bán/chuyển nhượng
trên thị trường. Các Ngân hàng phát hành có thể mua hối phiếu hoặc chấp nhận thanh
toán cho chính mình.
NguyÔn Huy Toµn 12 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
- L/C trả dần: Là loại L/C không thể huỷ ngang trong đó quy định người
hưởng sẽ được thanh toán dần toàn bộ số tiền của L/C theo những thời hạn đã quy
định rõ trong L/C đó. Khác với loại thư tín dụng có kỳ hạn, loại L/C này không
đòi hỏi hối phiếu do người bán ký phát. Do đó, người bán không có quyền lợi
pháp lý đối với hối phiếu và quyền truy đòi liên quan đến hối phiếu đó.
* L/C trả ngay
Là loại L/C không thể huỷ ngang và phải thanh toán ngay khi hối phiếu được
xuất trình.
Rủi ro trong loại thư tín dụng này là thường phải thanh toán trước khi
nhận hàng, vì hối phiếu và bộ chứng từ thường đến trước khi hàng nhập cảng
1.2. Rủi ro trong hoạt động tín dụng chứng từ tại ngân hàng
1.2.1. Rủi ro là gì?
Hiểu một cách chung nhất: Rủi ro là những sự việc xảy ra ngoài ý muốn
của con người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán được. Rủi

ro có thể gặp bất cứ lúc nào ngoài ý thức của con người, không lệ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người. Chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro ra
khỏi môi trường xã hội nói chung và môi trường kinh doanh nói riêng, mà chỉ có
thể nghiên cứu, nhận biết, đo lường và hạn chế nó tới mức thấp nhất.
Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá
đặc biệt, đó là tiền tệ. Do vậy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng với bản
chất của nó luôn chịu tác động của nhiều loại rủi ro đi cùng với các lĩnh vực
hoạt động của Ngân hàng. Rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại
là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến của Ngân hàng. Thông thường, một
Ngân hàng hiện đại thường phải đối mặt với các loại rủi ro sau:
- Rủi ro lãi suất
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro ngoại hối
NguyÔn Huy Toµn 13 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
- Rủi ro thanh khoản
- Các loại rủi ro khác.
Thanh toán quốc tế là nghiệp vụ ngoại bảng quan trọng nhất của các Ngân
hàng thương mại. Rủi ro trong thanh toán quốc tế là những rủi ro phát sinh trong
quá trình thực hiện TTQT liên quan đến các giao dịch quốc tế, nguyên nhân phát
sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia thanh toán như: nhà xuất khẩu, nhà nhập
khẩu, các Ngân hàng, các tác nhân trung gian… hoặc do các nhân tố khách quan
khác gây nên như thiên tai, chiến tranh, chính trị… Vì phạm vi hoạt động lớn, có
nhiều bên tham gia nên rủi ro trong hoạt động TTQT xuất hiện tại nhiều thời
điểm, gây thiệt hại cho các bên nói chung và cho hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng nói riêng.
1.2.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ và nguyên nhân
của rủi ro
Có thể nói rằng, tín dụng chứng từ là phương thức được sử dụng rộng
rãi nhất hiện nay trong Thanh toán quốc tế với những ưu thế của nó so với các
phương thức khác. Để điều chỉnh phương thức này, Phòng thương mại quốc

tế (ICC) đã ban hành văn bản "Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng
chứng từ" nhưng việc vận hành phương thức L/C vẵn ẩn chứa nhiều nguy cơ
rủi ro cho các bên tham gia.
Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ xảy ra khi quyền lợi của
một hay một số bên bị vi phạm. Rủi ro không chỉ là việc chứng từ không được
thanh toán mà còn là bất kỳ một khúc mắc, chậm trễ nào trong các khâu của
quá trình thanh toán.
Các loại rủi ro thường gặp khi áp dụng phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ:
1.2.2.1. Rủi ro tín dụng
Đây là rủi ro mất khả năng thanh toán của một trong các bên tham gia
NguyÔn Huy Toµn 14 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
vào phương thức thanh toán L/C.
a) Rủi ro tín dụng từ phía nhà nhập khẩu
Thực chất của L/C chính là việc Ngân hàng dùng uy tín của mình để thay
mặt nhà nhập khẩu cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ trong L/C. Do vậy, nếu L/C được ký quỹ 100% thì rủi ro tín dụng
sẽ không xảy ra. Nhưng trên thực tế, phần lớn các nhà nhập khẩu đều đề nghị
Ngân hàng tài trợ cho mình dưới hai hình thức: cho mượn uy tín (ký quỹ <100%,
khi đến hạn thanh toán mới nộp đủ) và cho vay để nhập khẩu. Chính vì thế, khi
nhà nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh của mình bị vỡ nợ, phá sản, mất khả
năng thanh toán sẽ gây ra rủi ro cho Ngân hàng phát hành L/C, làm Ngân hàng
gặp không ít khó khăn, tổn thất. Để giảm thiểu rủi ro loại này, các Ngân hàng
mở L/C thường yêu cầu vận đơn phải được ký phát cho Ngân hàng và thực hiện
nghiêm ngặt các biện pháp về ký quỹ, thế chấp tài sản… Tuy nhiên, việc giải toả
và thu hồi vốn cũng không phải là việc đơn giản cho các Ngân hàng.
b) Rủi ro tín dụng từ phía nhà xuất khẩu
Rủi ro này thường xảy ra trong trường hợp Ngân hàng thực hiện chiết khấu
chứng từ đối với hàng xuất khẩu, sự thiếu sót trong khâu kiểm tra chứng từ, gây
tình trạng sai sót trong hồ sơ thanh toán nên bị từ chối thanh toán. Có hai loại chiết

khấu chứng từ hàng hoá xuất khẩu là chiết khấu miễn truy đòi và chiết khấu bảo lưu
quyền truy đòi. Để giảm thiểu rủi ro, hiện nay các Ngân hàng chiết khấu thường áp
dụng biện pháp thứ hai. Tuy nhiên, nếu nhà xuất khẩu không còn khả năng thanh
toán thì sẽ gây rủi ro tín dụng cho Ngân hàng chiết khấu.
c) Rủi ro tín dụng từ phía Ngân hàng phát hành
Loại rủi ro do phía Ngân hàng mang lại tuy rất hiếm khi gặp phải nhưng
không phải là chưa từng xảy ra. Nếu Ngân hàng phát hành mất khả năng thanh
toán vì một lý do nào đó, hoặc bị đóng cửa, hoặc bị vỡ nợ phá sản… sẽ dẫn đến
rủi ro cho Ngân hàng chiết khấu và người xuất khẩu, điều này phụ thuộc vào
NguyÔn Huy Toµn 15 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
mức độ tín nhiệm của Ngân hàng phát hành. Do đó, để tránh loại rủi ro này, các
nhà xuất khẩu nên đề nghị các nhà nhập khẩu chọn những Ngân hàng thương
mại lớn, có uy tín để phát hành L/C.
* Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
- Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp cũng như các Ngân hàng
thương mại phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, chịu sự chi phối
lớn của các quan hệ cung - cầu, quy luật cạnh tranh, giá cả thị trường… nên
thường xuyên phải đối mặt với rủi ro từ mọi phía. Có khi do giá cả thay đổi,
công nghệ lạc hậu, khả năng quản lý và điều hành yếu kém, khủng hoảng tài
chính… đã gây phản ứng dây chuyền khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn,
thua lỗ trong kinh doanh, thậm chí phá sản, vỡ nợ…
- Do thông tin tín dụng không đầy đủ, nếu một bên không nắm vững tình
hình tài chính, uy tín và khả năng thanh toán của đối tác, cũng như không am
hiểu, không kiểm tra được các thông số kỹ thuật và hiệu quả dự án mà mình tài
trợ, thì rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi. Đây chính là thông tin không cân
xứng, thể hiện ở khả năng áp dụng quy chế và năng lực của cán bộ trong quá
trình thẩm định món vay xuất - nhập khẩu trước khi thực hiện nghiệp vụ L/C. .
Vì vậy, việc lựa chọn khách hàng và Ngân hàng nước ngoài có quan hệ tín dụng
tốt là điều vô cùng quan trọng trong thanh toán quốc tế, và các cán bộ nhân viên
Ngân hàng cần nâng cao năng lực thẩm định cũng như phân tích khả năng tài

chính , khả năng hoàn trả, hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng…
1.2.2.2. Rủi ro đạo đức
Là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức hay còn
đuợc hiểu là tín nhiệm, uy tín trong kinh doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong
thương mại và thanh toán quốc tế, vì các bên đối tác tham gia thương vụ thường ở
rất cách xa nhau, thậm chí không hề gặp mặt nhau trong quá trình thực hiện
NguyÔn Huy Toµn 16 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
thương vụ.
a) Rủi ro đạo đức từ phía nhà nhập khẩu
Nếu khách hàng nhập khẩu không phải là bạn hàng lâu năm, có tín nhiệm thì
rất dễ có những hành vi lừa người bán xếp hàng lên tầu, rồi trì hoãn, từ chối thanh
toán bằng những thủ đoạn nghiệp vụ bắt lỗi sai sót chứng từ, ép giá người bán để
thu lợi cho mình. Trong nhiều trường hợp, nhà xuất khẩu đành chịu bán lỗ còn hơn
thuê tàu chở hàng về. Cũng có khi do giá cả hàng hoá nhập khẩu giảm, người mua
sợ thua lỗ trong kinh doanh nên cố tình không nhận bộ chứng từ để lấy hàng, hoặc
trì hoãn không thanh toán nên đẩy Ngân hàng vào tình thế khó khăn trong việc xử
lý vốn, đặc biệt trong nghiệp vụ trả chậm.
b) Rủi ro đạo đức của nhà chuyên chở
Người bán hàng giao hàng cho người chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo,
nhận hàng lấy tiền rồi biến mất, hoặc bán mất hàng. Trong khi đó, Ngân hàng
vẫn phải thực hiện thanh toán cho người bán hàng theo hồ sơ chứng từ, còn
việc kiện hãng chuyên chở, hoặc chờ bảo hiểm hoàn toàn tách rời nhau. Việc
chờ đợi, kiện tụng rất mất thời gian và tốn kém, gây thiệt hại cho cả người
mua và người bán.
c) Rủi ro đạo đức từ phía Ngân hàng
Trong nhiều trường hợp, Ngân hàng phát hành cũng vi phạm cam kết của
mình, như trì hoãn, chây ỳ, hoặc từ chối thanh toán bộ chứng từ cho nhà xuất
khẩu. Hoặc ngược lại, đối với sự thiếu trung thực của Ngân hàng chiết khấu khi
bộ hồ sơ không hoàn hảo vẫn gửi điện cam kết hồ sơ chuẩn để đòi tiền Ngân hàng

phát hành, Ngân hàng phát hành tin tưởng thanh toán sẽ gặp rủi ro, việc đòi lại
được tiền rất khó khăn.
b) Rủi ro đạo đức từ phía nhà xuất khẩu
Khi nhà xuất khẩu cố ý giao hàng hoá không phù hợp với hợp đồng,
nhưng lại xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo, phù hợp với các điều khoản ký kết
NguyÔn Huy Toµn 17 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
của hợp đồng thương mại, hoặc nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ khống giả mạo
(không giao hàng), Ngân hàng theo bộ hồ sơ hoàn hảo vẫn buộc phải thanh
toán cho người hưởng lợi, khi đó nhà nhập khẩu phải gánh chịu mọi rủi ro.
Nếu Ngân hàng tài trợ cho người nhập khẩu thì rủi ro này Ngân hàng cũng
phải chịu đựng. Bởi vậy, người mua phải có những biện pháp kiểm tra thông
tin qua các hãng vận tải xem hàng hoá có thực sự được giao lên phương tiện
vận tải hay không, nếu phát hiện có dấu hiệu lừa đảo thì cần kết hợp với Ngân
hàng đưa ra những biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Trường hợp giá cả hàng hoá quốc tế tăng, người bán hàng sợ thiệt
không muốn giao hàng cho người mua hàng nữa, điều này gây thiệt hại cho
người mua, vì kế hoạch sản xuất kinh doanh bị phá vỡ. Tất cả những vi phạm
trên của nhà xuất khẩu đều được coi là rủi ro đạo đức.
* Nguyên nhân gây ra rủi ro đạo đức
Nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đầy
đủ, không cân xứng. Vì thiếu những thông tin chính xác về khả năng tài chính
của đối tác, tình hình hoạt động kinh doanh, cũng như uy tín, tính trung thực
của đối tác nên đã đưa ra những quyết định sai lầm, gây nên những rủi ro
trong thanh toán. Đặc biệt, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ theo
quy định của UCP 500 thì việc thanh toán chỉ hoàn toàn dựa vào chứng từ hồ
sơ thanh toán mà không căn cứ vào thực trạng hàng hoá. Chính sự tách biệt
đó đã tạo ra khe hở cho một số tổ chức, cá nhân tiến hành lừa đảo, vì thế rủi
ro đạo đức vẫn còn cơ sở tồn tại.
1.2.2.3. Rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị,

kinh tế, vì chính sách quản lý ngoại hối - ngoại thương của một quốc gia
khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng, nhà nhập khẩu không
nhận được hàng hoá.
NguyÔn Huy Toµn 18 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
a) Rủi ro quốc gia từ phía nước nhập khẩu
Rủi ro này thường xảy ra khi người mua hoàn toàn có khả năng và sẵn
sàng thanh toán cho người bán, song do những sự biến động, hoặc những biến cố
bất thường trong quốc gia nhập khẩu ảnh hưởng đến chính trị, kinh tế… khiến
cho Chính phủ nước đó cấm các công ty của nước mình thanh toán ngoại tệ ra
nước ngoài, hoặc hàng hoá nhập về thuộc diện cấm không được làm thủ tục
thông quan nên không thể thanh toán.
b) Rủi ro quốc gia từ phía nước xuất khẩu
Là những rủi ro xảy ra khi có sự thay đổi về chính sách ngoại thương, thuế
quan của quốc gia đó. Nhà xuất khẩu đã chuẩn bị giao hàng, song do biểu thuế
xuất khẩu tăng, hoặc hàng hoá đó bị cấm xuất khẩu nên gặp rủi ro không thể
chuyển hàng đi. Đôi khi do quan hệ thanh toán giữa hai quốc gia có biến cố không
bình thường, nên khó khăn trong việc nhận tiền hàng của nhà xuất khẩu.
* Nguyên nhân gây ra rủi ro quốc gia:
Đó chính là những nguyên nhân gây ra biến cố chính trị, xã hội, kinh tế… tại một
nước.
- Chính sách quản lý ngoại hối của nước nhập khẩu đột ngột thay đổi,
thực hiện chính sách ngoại hối thắt chặt hay cấm vận trong thanh toán gây ra
rủi ro cho nhà nhập khẩu và Ngân hàng của họ.
- Mâu thuẫn về sắc tộc, đảng phái, tôn giáo đe doạ sự ổn định nội bộ của một
nước.
- Vấn đề nợ nước ngoài chồng chất khiến cho Chính phủ nước nhập khẩu
buộc phải đưa ra biện pháp cấm thanh toán hoặc chuyển ngoại tệ, ngoại hối ra
nước ngoài
.- Xung đột xã hội thông qua các cuộc biểu tình, đình công, bạo động, chiến
tranh.

- Dự trữ ngoại hối ở mức thấp và cán cân thanh toán quốc tế của quốc
NguyÔn Huy Toµn 19 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
gia bị thâm hụt nặng nề, khiến cho Chính phủ nước nhập khẩu buộc phải đưa
ra biện pháp cấp bách dừng thanh toán với nước ngoài.
- Sự cấm vận về kinh tế của quốc tế đối với nước nhập khẩu khiến cho
mọi hoạt động thương mại quốc tế và các tài khoản NOSTRO của nước đó ở
nước ngoài bị kiểm soát gắt gao, thậm chí bị phong toả nên Ngân hàng không
thể thanh toán tiền hàng ra nước ngoài.
1.2.2.4. Rủi ro pháp lý
Rủi ro pháp lý xảy ra trong trường hợp có tranh chấp, hay khiếu kiện
giữa các bên tham gia thanh toán. Khi đó vấn đề đặt ra là toà án nước nào thụ
lý, và xử lý vụ án trên cơ sở luật pháp nước nào? Cho dù trong hợp đồng
ngoại thương đã đề cập đến vấn đề này, song không phải là không có phức
tạp. Bởi vì không có một bên nào có thể thông thạo và nắm vững luật pháp
quốc gia của bên đối tác.
* Nguyên nhân của rủi ro pháp lý
Nguyên nhân này là do môi trường pháp lý và luật pháp của các bên là khác
nhau, dù cho thanh toán quốc tế lựa chọn phương thức tín dụng chứng từ theo UCP
500 nhưng ở nhiều nước khác nhau, giao dịch này cũng bị điều chỉnh, chi phối bởi
hệ thống pháp luật quốc gia. UCP và luật pháp quốc gia tạo thành hành lang pháp lý
cho giao dịch L/C của các Ngân hàng thương mại khi tham gia thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên, mức độ vận dụng UCP vào thực tiễn của các nước khác nhau tuỳ thuộc
vào pháp luật nước đó. Nếu có sự khác biệt giữa luật quốc gia với UCP thì luật
quốc gia sẽ vượt lên trên tất cả và phải được tuân thủ. Quan điểm của ICC (Phòng
thương mại quốc tế) là UCP không thể làm thay đổi luật pháp quốc gia, những
tranh chấp nếu có tốt nhất là để cho tòa án xem xét và phán quyết,vì vậy, rủi ro
pháp lý là không tránh khỏi.
1.2.2.5. Rủi ro ngoại hối
Là rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được xác định bằng ngoại tệ nào đó,có
NguyÔn Huy Toµn 20 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45

thể là đồng tiền của các bên đối tác cũng có thể là đồng tiền của một nước thứ 3.
Khi tỷ giá biến động sẽ gây tổn thất cho một trong hai phía đối tác tham gia
thanh toán. Nếu ngoại tệ được lựa chọn trong thanh toán lên giá sẽ gây tổn thất
cho người nhập khẩu, ngược lại ngoại tệ đó mất giá lại gây thiệt hại cho bên xuất
khẩu. Trong giao dịch thanh toán L/C, các Ngân hàng cũng gặp phải rủi ro về
ngoại hối, những rủi ro này xuất hiện khi ngoại tệ này lên giá, và ngược lại, ở
trạng thái "trường" khi ngoại tệ này mất giá. Khi đó, Ngân hàng sẽ phải gánh
chịu tổn thất.
* Những nhân tố gây ảnh hưởng đến sự biến động tỷ giá, tác động
đến rủi ro hối đoái
Tỷ giá biến động chịu tác động trên hai phương diện
- thứ nhất là ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài: đó là thị trường tài
chính quốc tế ,tình hình kinh tế và chính sách can thiệp của các nước, các
chính sách này không nằm trong tầm khống chế, can thiệp của một quốc gia.
- thứ hai là sự tương tác nhiều chiều của chính sách kinh tế - tài chính -
tiền tệ ở mỗi nước. Hình thức biểu hiện tổng hợp về sự tương tác từ hai
phương diện trên chính là quan hệ cung - cầu ngoại hối trên thị trường. Nói
chung có rất nhiều yếu tố tác động lên tỷ giá, một số yếu tố cơ bản đó là:
+Một số các nhân tố khác như các cú sốc về chính trị, xã hội hay các
ảnh hưởng về thiên tai, chiến tranh, sự nhạy cảm về tâm lý.
+Trạng thái của Cán cân thanh toán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến
cung - cầu ngoại tệ, thông qua đó tác động trực tiếp lên tỷ giá.
+Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước, giữa thị trường tiền tệ nội địa
và thị trường tiền tệ quốc tế.
+Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước hữu quan.
1.2.2.6. Rủi ro về tác nghiệp
Đó là những rủi ro sai sót kỹ thuật do chính các bên tham gia gây nên,
NguyÔn Huy Toµn 21 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
rủi ro này được thể hiện trong việc lập các hồ sơ chứng từ không hoàn hảo,
không đáp ứng đầy đủ các điều khoản và điều kiện của L/C hoặc hành động

không đúng theo UCP 500 và các thông lệ, tập quán quốc tế khác.
Do đặc thù của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là các Ngân hàng
chỉ làm việc trên bề mặ t các chứng từ, vì vậy, phương thức này đòi hỏi một cách
khắt khe về sự phù hợp tuyệt đối giữa bộ chứng từ thanh toán và L/C. Một sự khai
thác nhỏ cũng có thể bị người mua và Ngân hàng phát hành L/C bắt lỗi và từ chối
thanh toán. Đây là trở ngại lớn đối với nhà xuất khẩu , họ gặp phải khó khăn trong
việc đáp ứng đầy đủ các yêu cầu khắt khe đó. Nếu như các sai sót liên quan đến
chứng từ hồ sơ do nhà xuất khẩu lập (các sai sót trong hoá đơn thương mại, bảng kê
chi tiết hàng hoá,, phiếu đóng gói…) thì họ có thể chủ động sửa chữa sai sót nhưng
có những chứng từ không phải do người bán lập mà có những sai sót như sai sót
trong vận đơn, xuất xứ hàng hoá, phiếu kiểm định hàng hoá… hoặc các chứng từ
do bên thứ ba lập thì người bán không thể khắc phục được.
Trường hợp nếu các Ngân hàng tham gia thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ
không phát hiện ra sai sót, hoặc bỏ qua các lỗi cho là nhỏ, sau khi thực hiện thanh
toán, hoặc chiết khấu cho nhà xuất khẩu, Ngân hàng đó sẽ chịu mọi rủi ro nếu Ngân
hàng phát hành L/C từ chối thanh toán. Đặc biệt trong trường hợp Ngân hàng chiết
khấu L/C đồng thời là Ngân hàng xác nhận L/C thì nó sẽ không có quyền truy đòi
lại người xuất khẩu số tiền đã chiết khấu.
Đối với Ngân hàng thông báo L/C, cần thiết phải xác định tình trạng mã khoá
của Ngân hàng phát hành L/C, nếu không xác định được điều này phải nêu rõ trong
L/C thông báo cho nhà xuất khẩu và nói rõ không chịu trách nhiệm về tính xác thực
của L/C này, nếu trong việc này không cẩn trọng sẽ dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng
thông báo và cho nhà xuất khẩu
Rủi ro có thể xảy ra đối với ngay cả Ngân hàng phát hành L/C, khi trong
việc kiểm tra chứng từ mở L/C, đối với loại L/C không thể huỷ ngang khi đã phát
hành thì Ngân hàng không thể tự ý huỷ bỏ hoặc sửa đổi, chỉ được phép thông báo
NguyÔn Huy Toµn 22 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
sai sót trong vòng 07 ngày làm việc kể từ khi nhận được hồ sơ chứng từ, nếu quá
thời gian đã quy định đó, Ngân hàng mất quyền từ chối và chịu mọi rủi ro.
* Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tác nghiệp

Rủi ro tác nghiệp xảy ra chủ yếu do trình độ thanh toán quốc tế,ngoại
thương của các bên tham gia còn yếu, chưa nắm bắt được yêu cầu rất khắt khe
của L/C, của "Quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ" (UCP500), dẫn
đến sai sót trong quá trình giao dịch từ lúc soạn thảo và ký kết hợp đồng ngoại
thương cho đến khi lập chứng từ và thanh toán. Ngoài ra cũng phải kể dến trình độ
nghiệp vụ, ý thức thực hiện nghiệp vụ của các thành viên tham gia thiết lập hồ sơ
thanh toán và các văn bản có liên quan.
1.3. Chỉ tiêu phản ánh rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ
Trong phương thức thanh toán TDCT, mối quan hệ của Ngân hàng với nhà
xuất khẩu và nhà nhập khẩu phát sinh khi bắt đầu mở L/C. Từ đó cũng phát sinh
những rủi ro mà Ngân hàng có thể gặp phải. Để đánh giá được mức độ của những
rủi ro đó, người ta thường căn cứ vào các chỉ tiêu về Định mức ký quỹ, Nợ quá
hạn và Cho vay bắt buộc:
1.3.1. Chỉ tiêu về định mức ký quỹ
Ký quỹ là quy định của Ngân hàng đối với khách hàng khi họ xin được
bảo lãnh phát hành L/C. Khách hàng sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định
vào tài khoản của họ tại Ngân hàng mà họ xin được bảo lãnh và khoản tiền đó
sẽ được phong toả cho đến khi nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng chấm dứt..
Mức ký quỹ có thể là 100% hoặc dưới 100% tuỳ đối tượng khách hàng
cụ thể, và cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Đối tượng khách hàng: uy tín của khách hàng với Ngân hàng càng lớn
thì mức ký quỹ càng thấp và ngược lại.
- Loại hàng hóa nhập, khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động
giá cả hàng hoá trên thị trường: những mặt hàng dễ tiêu thụ, thị trường ổn
định, giá cả ít biến động thì mức ký quỹ có thể thấp và ngược lại
NguyÔn Huy Toµn 23 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
- Khả năng thanh toán của khách hàng: khả năng thanh toán càng cao
thì mức ký quỹ càng thấp và ngược lại.
Trên cơ sở kết hợp các yếu tố trên, Ngân hàng sẽ quyết định mức ký
quỹ cụ thể. Tỷ lệ ký quỹ càng thấp thì nguy cơ đối mặt với rủi ro của Ngân

hàng càng cao.
1.3.2. Chỉ tiêu về cho vay bắt buộc
Tỷ lệ cho vay bắt buộc = Giá trị cho vay bắt buộc/ Tổng giá trị thanh toán
Khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán tiền hàng cho Ngân hàng
thì Ngân hàng buộc phải ghi nợ tài khoản của khách hàng tại Ngân hàng. Nhưng
nếu tài khoản này không đủ số dư để thanh toán, Ngân hàng sẽ buộc phải cho
doanh nghiệp vay với lãi suất quá hạn. Số tiền cho vay đó là cho vay bắt buộc,
Ngân hàng không muốn cho vay nhưng chỉ có cách đó mới có thể đòi tiền doanh
nghiệp trong thời gian tới.
Chỉ tiêu này phản ánh trong tổng giá trị L/C thanh toán thì số cho vay
bắt buộc, nghĩa là giá trị thư tín dụng không được doanh nghiệp thanh toán
mà Ngân hàng không thể thu hồi được ngay, chiếm tỷ lệ là bao nhiêu.
1.3.3. Chỉ tiêu về nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = Giá trị nợ quá hạn/ Tổng giá trị thanh toán
Khi Ngân hàng đã cho vay bắt buộc, nếu sau một thời gian, doanh
nghiệp có khả năng thanh toán cả gốc và lãi thì coi như Ngân hàng đã đòi
được số tiền trước đây. Còn nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, phá sản, không
có khả năng thanh toán thì số cho vay đó sẽ được kết chuyển nợ quá hạn.
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị Ngân hàng không thể thu hồi so với tổng
giá trị cho vay hay tổng giá trị thanh toán chiếm tỷ lệ bao nhiêu.
Từ những chỉ tiêu cơ bản trên, ta có thể thấy khái quát về tình hình rủi
ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ tại một Ngân hàng, từ đó
có biện pháp để quản lý rủi ro trong Ngân hàng một cách hiệu quả.
NguyÔn Huy Toµn 24 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KINH DOANH TÍN DỤNG CHỨNG TỪ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI CHI NHÁNH
NHNo & PTNT NAM HÀ NỘI
2.1.Vài nét về hoạt động của hệ thống NHNo&PTNT
2.1.1.Giới thiệu về hệ thống NHNo&PTNT

Được thành lập ngày 26/3/1988, hoạt động theo Luật các Tổ chức Tín
dụng Việt Nam, đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam(NHNo) là Ngân hàng Thương mại Quốc doanh không chỉ giữ vai
trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mọi lĩnh vực khác
của nền kinh tế Việt Nam.
NHNo là ngân hàng lớn nhất Việt nam cả về tổng vốn, tài sản,bao gồm
đội ngũ CBNV, mạng lưới hoạt động rông khắp và số lượng khách hàng lớn.
Đến cuối 2001, NHNo có 2.275 tỷ VNĐ vốn tự có (theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, đến 7/02 vốn tự có là 3.775 tỷ VNĐ và đến tháng 1/2004 là
5.865 tỷ VNĐ); trên 70 ngàn tỷ VNĐ tổng tài sản có; 1568 chi nhánh toàn
quốc; 24.000 CBNV và có quan hệ với trên 7.500 doanh nghiệp, 8 triệu hộ
sản xuất kinh doanh và trên năm mươi triệu khách hàng giao dịch các loại.
Là ngân hàng đầu tư tích cực vào đổi mới và ứng dụng công nghệ khoa
học ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển
mạng lưới dịch vụ ngân hàng tiên tiến. Hiện NHNo đã kết nối trên diện rộng
mạng máy tính từ trụ sở chính đến hơn 1.500 chi nhánh; và một hệ thống các
dịch vụ ngân hàng gồm dịch vụ thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT. Đến
nay, NHNo hoàn toàn có đủ năng lực cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân
NguyÔn Huy Toµn 25 Th¬ng m¹i Quèc tÕ 45

×