Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

bài tập lớn học kì môn Luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.2 KB, 10 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Theo các ý kiến thống nhất hiện nay, tội giết người xâm phạm quyền
sống của con ngươì. Trong số các quyền nhân thân, quyền sống của con người
là quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quia nhất, không một quyền nào có thể
so sánh được. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển. Khi quyền sống của con người bị xâm phạm thì mục tiêu phấn đấu của
loài người sẽ trở nên vô nghĩa; động lực phát triển của xã hội sẽ bị triệt tiêu.
Thêm vào đó, con người còn là chủ thể của quan hệ xã hội, nếu quyền sống
của con người bị xâm phạm thì các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Chính vì
những lí do trên mà mục tiêu bảo vệ quyền sống của con người luôn được đặt
lên hàng đầu đối với mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi thời đại và mọi chế độ.
Cũng vì ý nghĩa đặc biệt quan trọng của quyền sống của con người mà trong
BLHS năm 1999, ngay sau các tội phạm an ninh quốc gia, nhà làm luật đã qui
định các tội xâm phạm nhân thân. Trong số các tội xâm phạm nhân thân thì tội
giết người được qui định đầu tiên và là một trong ba tôi có hình phạt nghiêm
khắc nhất- tử hình.
Thực tế xã hội hiện nay cho thấy, cùng với sự phát triển của xã hội, nhất
là trong giai đoạn thời kì kinh tế nước ta hội nhập với kinh tế thế giới thì các
loại tội phạm nói chung cũng như cũng như tội giết người nói riêng càng trở
nên phức tạp hơn. Nhận thức được tầm quan trọng của viêc phòng chống tội
phạm, dưa trên kiến thức về lí luận và thực tiễn , em đã mạnh dạn chọn đề tài
số 6 cho bài tập lớn học kì môn Luật hình sự Việt Nam. Đây là tình huống liên
quan đến tội giết người được qui định tại Điều 93 BLHS 1999
Do kiến thức lí luận và thực tế còn hạn chế nên bài viết không thể tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô để bài
viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn !
BÀI TẬP SỐ 6
Vì ghen tuông, A có ý đinh giết B. A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng, A rút
dao đâm B ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp
cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án xác đinh A phạm tội giết người theo
khoản 2 Điều 93 BLHS


Câu hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết
người.
2. Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại
sao?
3. Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ
án .
4. Giả sử A mới đâm B một nhát, thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá
bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. B bị thương tích với tỉ lệ thương tật
là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích rõ tại sao?
5. Giả sử A đâm B ba nhát, tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi nhưng do được
phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống. Tòa án áp dụng khoản
2 Điều 93 BLHS tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù. Hình phạt tòa
tuyên đối với A có đúng không? Giải thích rõ tại sao?
6. Giả sử A là người nước ngoài đang là nhân viên làm thuê cho một công ty
liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra ở Hà Nội thì A có bị
xử lí theo luật hình sự Việt Nam không? Giải thích rõ tại sao?
Theo Điều 93 BLHS, tội giết người là hành vi cố ý tước đoat sinh mạng
của người khác một cách trái pháp luật, do đó trực tiếp xâm phạm quyền được
sống của con người. Về mặt khách quan, tội giết người được thể hiện ở hành
vi tước đoạt sinh mạng của người khác một cách trái pháp luật bằng mọi thủ
đoạn và mọi phương tiện gây nên hậu quả cho xã hội.
Hành vi tước đoạt sinh mạng của người khác thường được thực hiện
bằng hành động và bằng phương tiện rất đa dạng không thể kể hết như
bắn, chém, đâm, đầu độc…Và cũng có thể được thể hiên bằng không
hành động.
Hậu quả trực tiếp của tội giết người thông thường là người chết
( trong trường hợp giết người hoàn thành), nhưng cũng có trường hợp nạn
nhân chỉ bị thương hoặc cố tật ( trong trường hợp giết người chưa đạt),
nạn nhân chỉ bị giật mịnh như: bị bắn lén, không trúng hoặc có người

khác bắt tay súng, đạn nổ lên trời ( giết chưa đạt đã hoàn thành)
Hành vi cố ý giết người của A trong tình huống trên đặt ra những vấn
đề sau:
1/ Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội
giết người
Theo cách phân loại tội phạm của BLHS Việt Nam, tội phạm tuy có
chung các dấu hiệu ( tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp
luật và tính chịu hình phạt) nhưng những hành vi pphamj tội cụ thể có
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Chính vì sự khác
nhau như vậy mà vấn đề phân hóa và cụ thể hóa hình phạt được đặt ra
như là nguyên tắc của luât hình sự Việt Nam. Theo khoản 2 Điều 8
BLHS, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
được qui định trong bộ luật, tôi phạm được phân chia thành 4 loại: tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng
và tội phạm đăc biêt nghiêm trọng. Mỗi loại tội được gắn với một khung
hình phạt khác nhau ( khoản 3 Điều 8).
Nguyên tắc phân loại tội phạm phải dựa trên khung hình phạt được
ghi trong một điều luật của Bộ luật hình sự, mà không phải dựa trên mức
án cụ thể mà tòa án tuyên phạt. Trường hợp của A đã được tòa án xác
định là phạm tội giết người theo khoản 2 Điều 93 BLHS: “… bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm” . Như vậy, căn cứ vào mức cao nhất của
khung hình phạt thì tội giết người mà A đã thực hiện là loại tội phạm rất
nghiêm trọng. “ Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến
mười lăm năm tù”
2/ Hành vi phạm tội của A thuộc giai đoạn phạm tội nào? Giải thích rõ tại
sao?
Cũng như những hoạt động khác của con người trong xã hội, hành vi
phạm tội diễn ra theo quá trình nhất định. Người cố ý phạm tội luôn mong
muốn thực hiện được trọn ven quá trình đó để đạt mục đích của mình, Nhưng

trong thực tế có những trường hợp vì nguyên nhân ngoài ý muốn, người phạm
tội đã không thực hiện được toàn bộ quá trình đó mà phải dừng lại ở những
thời điểm khác nhau. Để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm và qua đó có sơ
sở để xác định phạm vi trách nhiệm hình sự( TNHS) của người phạm tội, luật
hình sự Việt Nam phân biệt ba mức độ thực hiện tội phạm : chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành ( Điều 17 và Điều 18 BLHS).
Ở đây, vì ghen tuông, A có ý định giết B. Như vậy A giết B với mục đích
trả thù để thỏa mãn sự ghen tuông của mình. Ý đinh giết B của A đã được
chuẩn bị từ trước ( tức là đã được lên kế hoạch từ trước), thể hiện ở một chuỗi
những hành động được thực hiện rất tuần tự như sau: “ Rủ B đi chơi, đến chỗ
vắng, A rút giao đâm B ba nhát”, nhưng tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi.
Từ những chi tiết trên, ta có thể xác định rằng hành vi phạm tôi của A
thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Vì: Về mặt lí luận thì phạm
tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã thực hiên hết những hành vi
thuộc mặt khách quan của cấu thành, nhưng vì nguyên nhân khách quan hậu
quả không xảy ra, tức là chưa đạt về hậu quả nhưng đã hoàn thành về hành vi.
Người phạm tội đã thực hiện hết những hành vi là dấu hiệu khách quan của
cấu thành, tức là cấu thành tội phạm qui định bao nhiêu hành vi khách quan
thì người phạm tội đã thực hiện hết.
Ở đây, hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm tội giết
người mà A đã thực hiện đó là: rút dao và đâm B ba nhát. Hành vi này thể
hiện tính nguy hiểm cho xã hội, thể hiện ở chỗ nó gây ra và đe dọa gây ra thiệt
hại về tính mạng và sức khỏe cho B ( B bị chảy nhiều máu và ngất đi). Vậy là
với hành động dùng dao đâm B ba nhát, A đã thực hiện hành vi tước đoat tính
mạng của B ( đã đâm) là hành vi được mô tả trong cấu thành tôi phạm tội giết
người theo Điều 93 BLHS. Tuy đã thực hiên được hành vi đâm B nhưng B lại
không chết, tức là hậu quả chết người chưa xảy ra. Về mặt tâm lí,A mong
muốn hậu quả chết người xảy ra ( mong B chết), và nghĩ rằng hậu quả đó đã
xảy ra, nhưng trên thực thì B vẫn còn sống. Như vậy dựa vào dấu hiệu hành vi
và dấu hiệu về tâm lí của A mà ta có thể khẳng đinh rằng hành vi phạm tội

của A thuộc giai đoạn phạm tôi chưa đạt đã hoàn thành.
3/ Hãy chỉ ra đôi tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong
vụ án.
Đối tượng tác động cuả tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động đến để gây thiêt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Trong vụ án này, mục đích của A là giết B để trả thù, B chính là đối tượng
mà A hướng tới, vậy B chính là đối tượng tác đông của tôi giết người mà A

×