Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm điều hòa sinh trưởng và phân bón qua lá đến hiệu quả sản xuất của hoa lan hồ điệp giống V3 tại Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 73 trang )


i


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM






NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG






NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA CHẾ PHẨM
ĐIỀU HÒA SINH TRƯỞNG VÀ PHÂN BÓN QUA
LÁ ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CỦA HOA LAN
HỒ ĐIỆP GIỐNG V3 TẠI THÁI NGUYÊN




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG








Thái Nguyên - 2014

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn




Nguyễn Thị Huyền Trang



















ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Đào Thanh Vân đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài, cũng như trong quá
trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban giám đốc Trung tâm dạy nghề huyện Đồng
Hỷ - Tỉnh Thái Nguyên, đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các đồng chí cán bộ nơi
tôi tiến hành thực hiện đề tài đã luôn động viên, giúp đỡ rất nhiều cả về tinh thần và
vật chất cho tôi hoàn thành chương trình học tập và luận văn tốt nghiệp.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 12 năm 2014
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Huyền Trang








iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục đích của đề tài 2
3. Yêu cầu của đề tài 2
Chương 1.TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỂ TÀI 3
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 3
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 4
1.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT HOA LAN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 4
1.2.1. Tình hình sản xuất lan trên thế giới 4
1.2.2. Tình hình sản xuất hoa lan ở Việt Nam 5
1.2.3. Tình hình sản xuất hoa tại tỉnh Thái Nguyên 9
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ GIỐNG HOA LAN HỒ ĐIỆP
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 10
1.3.1. Các nghiên cứu về giống hoa lan Hồ Điệp trên Thế giới 10
1.4. NHỮNG NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ CÂY HOA LAN HỒ ĐIỆP 11
1.4.1. Nguồn gốc và phân loại 11
1.4.2. Đặc điểm thực vật học của Hoa lan Hồ Điệp 13
1.4.3. Yêu cầu sinh thái của cây Hoa lan Hồ điệp 18
1.5. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CHẾ PHẨM ĐIỀU HÒA SINH TRƯỞNG
VÀ PHÂN BÓN QUA LÁ 20
1.5.1 Những nghiên cứu về chế phẩm điều hoà sinh trưởng 20

1.5.2. Những nghiên cứu về dinh dưỡng qua lá, sử dụng phân bón lá 22
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 25
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 25
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 25
2.1.3. Phạm vi nghiên cứu: 25
2.1.4. Vật liệu nghiên cứu 25

iv

2.2. Nội dung nghiên cứu 26
2.3. Phương pháp nghiên cứu 28
2.4. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 31
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 32
3.1. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của chế phẩm điều hòa sinh trưởng
đến sinh trưởng, phát triển của hoa Lan Hồ Điệp giống V3 32
3.1.1. Đánh giá ảnh hưởng của chế phẩm điều hòa sinh trưởng
đến sinh trưởng, phát triển của Hoa lan Hồ Điệp giống V3 32
3.1.2. Đánh giá ảnh hưởng của chế phẩm điều hòa sinh trưởng đến
các chỉ tiêu năng suất, chất lượng của Hoa lan Hồ Điệp giống V3 36
3.1.3. Tình hình sâu bệnh hại đối với hoa lan Hồ Điệp giống V3 40
3.1.4. Phân cấp và sơ bộ hạch toán đối với Hoa lan Hồ Điệp giống V3 42
3.2. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến sinh trưởng, phát triển
của giống hoa Lan Hồ Điệp giống V3 44
3.2.1. Đánh giá ảnh hưởng của phân bón qua lá đến sinh trưởng, phát triển
của Hoa lan Hồ Điệp giống V3 44
3.2.2. Đánh giá ảnh hưởng của phân bón qua lá đến các chỉ tiêu năng suất,
chất lượng của Hoa lan Hồ Điệp giống V3 48
3.2.3. Tình hình sâu bệnh hại đối với hoa lan Hồ Điệp giống V3 52
3.2.4. Phân cấp và sơ bộ hạch toán đối với Hoa lan Hồ Điệp giống V3 53

3.3 Thí nghiệm 3: Nghiên cứu sử dụng phối hợp chế phẩm điều hòa sinh trưởng
và phân bón qua lá đối với hoa lan Hồ Điệp giống V3 55
3.3.1 Đánh giá ảnh hưởng của chế phẩm điều hòa sinh trưởng và phân bón
qua lá đến các chỉ tiêu năng suất và chất lượng của hoa lan Hồ Điệp giống V3 55
3.3.2 Phân cấp và sơ bộ hạch toán kinh tế 57
Chương 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 60
4.1. Kết luận 60
4.2. Đề nghị 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1

v

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CT : Công thức
Đ/c : Đối chứng
ĐVT : Đơn vị tính
ĐHST : Điều hòa sinh trưởng
PBL : Phân bón lá
ATONIK : Chế phẩm ATONIK 1.8 DD
Gibberellin 10ppm
: Chế phẩm Gibberellin 10ppm
Thiên nông : Kích phát tố hoa trái Thiên nông
Đầu trâu 902 : Phân bón qua lá Đầu trâu 902
AMC BO : Phân bón qua lá AMC BO
SEAWEED : Phân bón qua lá Rong biển SEAWEED
Nam bắc siêu lân : Phân bón lá cao cấp Nam bắc siêu lân
ATO & ĐT : Chế phẩm ATONIK 1.8 DD và phân bón qua lá Đầu trâu 902




vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1 Tốc độ phát triển của ngành sản xuất hoa, cây
cảnh giai đoạn 2000-2011 5
Bảng 1.2 Cơ cấu số lượng, chủng loại hoa ở Việt Nam qua các năm 7
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của chế phẩm điều hòa sinh trưởng đến động thái ra lá
của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 32
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của chế phẩm ĐHST đến sự tăng trưởng chiều rộng lá
của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 34
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của chế phẩm ĐHST đến sự tăng trưởng chiều dài lá
của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 34
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của chế phẩm ĐHST đến động thái tăng trưởng 35
đường kính thân của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 35
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của chế phẩm ĐHST đến sự ra hoa và sinh trưởng
phát triển hoa của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 36
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của chế phẩm ĐHST đến sự ra hoa và chất lượng
hoa lan Hồ Điệp giống V3 38
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của chế phẩm ĐHST đến diễn biến thành phần
bệnh hại chủ yếu trên cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 40
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của chế phẩm ĐHST đến diễn biến thành phần
sâu hại chủ yếu trên cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 41
Bảng 3.9. Phân cấp hoa lan Hồ Điệp giống V3 thí nghiệm sử dụng
chế phẩm Điều hòa sinh trưởng 42
Bảng 3.10. Sơ bộ hạch toán thu – chi thí nghiệm sử dụng chế phẩm Điều hòa
sinh trưởng cho Hoa lan Hồ Điệp giống V3 43
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến động thái ra lá
của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 45

Bảng 3.12. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến sự tăng trưởng chiều rộng lá
của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 46

vii

Bảng 3.13. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến sự tăng trưởng chiều dài lá
của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 46
Bảng 3.14. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến động thái tăng trưởng
đường kính thân của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 47
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến sự ra hoa và sinh trưởng
phát triển hoa của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 49
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến sự ra hoa và chất lượng
hoa lan Hồ Điệp giống V3 50
Bảng 3.17. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến diễn biến thành phần bệnh hại
chủ yếu trên cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 52
Bảng 3.18. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến diễn biến thành phần sâu hại
chủ yếu trên cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 53
Bảng 3.19. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến phân cấp hoa lan Hồ Điệp
giống V3 53
Bảng 3.20. Sơ bộ hạch toán thu – chi đối với thí nghiệm sử dụng phân bón
qua lá cho Hoa lan Hồ Điệp giống V3 54
Bảng 3.21 Ảnh hưởng của chất ĐHST và phân bón qua lá đến chất lượng
của hoa lan Hồ Điệp giống V3 55
Bảng 3.22 Phân cấp hoa lan Hồ Điệp giống V3 57
Bảng 3.23 Sơ bộ hạch toán Thu - Chi 58


viii

DANH MỤC CÁC HÌNH


Hình 3.1. Biểu đồ ảnh hưởng của chế phẩm điều hòa sinh trưởng đến
động thái ra lá của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 33
Hình 3.2. Biểu đồ ảnh hưởng của chế phẩm Điều hòa sinh trưởng đến
động thái tăng trưởng đường kính thân của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 35
Hình 3.3. Biểu đồ ảnh hưởng của Phân bón qua lá đến động thái ra lá
của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 45
Hình 3.4. Biểu đồ ảnh hưởng của Phân bón qua lá đến động thái
tăng trưởng đường kính thân của cây hoa lan Hồ Điệp giống V3 48

1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Việt Nam trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế, xã hội… nhu cầu sử dụng hoa nói chung và hoa lan nói riêng tăng
nhanh, không chỉ dùng trong những dịp lễ tết như trước đây mà nhu cầu về hoa
trong cuộc sống thường ngày của người dân cũng rất lớn. Bên cạnh đó, nhu cầu về
số lượng cũng đòi hỏi ngày càng cao, số liệu thống kê cho thấy các loài hoa có chất
lượng cao xuất hiện trên thị trường chủ yếu nhập từ Đài Loan, Thái Lan, Trung
Quốc, được tiêu thụ nhiều nhất ở các đô thị, thành phố lớn. Điều này cho thấy sản
xuất hoa ở Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người dân
Hiện nay, Lan Hồ Điệp là một trong những loại phong lan được trồng phổ
biến trên thế giới, so với đa số các loại lan khác thì Hồ Điệp khá nổi bật bởi các đặc
tính đa dạng, kích thước hoa to, màu sắc hấp dẫn, lâu tàn và ra hoa quanh năm, lan Hồ
Điệp được mệnh danh là hoàng hậu của các loại lan. Lan Hồ Điệp có nguồn gốc ở Tây
Á, trải rộng trên những núi cao từ Trung Quốc, Tây Tạng đến châu Úc, cây tăng
trưởng và phát triển tốt ở những vùng có độ ẩm cao và nhiệt độ khoảng 15 – 30
0

C.
Đất nước ta là một trong hai khu vực xuất phát các loài lan quý trên thế giới.
Do vị trí địa lý mà khí hậu, ẩm độ, nhiệt độ và cường độ ánh sáng của nước ta rất
thích hợp cho sự tăng trưởng và phát triển của cây lan, Thái Nguyên cũng là một
trong những tỉnh có điều kiện tự nhiên để phát triển ngành trồng lan. Trong quá
trình điều tra và nuôi trồng thử nghiệm các loại lan tại tỉnh Thái Nguyên, Lan Hồ
Điệp được đánh giá có khả năng phát triển thuận lợi với nhiều giống lan Hồ Điệp
khác nhau như: giống Chấm trắng, V31, V3, Mười giờ, Hoàng Hậu, đặc biệt
giống V3 là giống hoa to, hoa mầu trắng, nhuỵ hoa mầu vàng rất được ưa chuộng
khi đem ra thị trường và có khả năng thích nghi cao với điều kiện tự nhiên của tỉnh
Thái Nguyên.
Mặc dù vậy, việc phát triển lan tại tỉnh Thái Nguyên vẫn còn nhiều khó
khăn: cũng như các vùng khác chủ yếu sản xuất hoa dựa vào kinh nghiệm là chính.

2

Công nghệ sản xuất còn thiếu tính đồng bộ, diện tích trong nhà có mái che còn thấp
nên chất lượng hoa cắt không cao, nhiều loại hoa chưa thể trồng trái vụ nên chưa
đáp ứng được nhu cầu hoa cắt thường xuyên. Bên cạnh đó, đầu tư cho KHKT chưa
nhiều, chưa có đơn vị chuyên sâu nghiên cứu phong lan, chưa cung cấp được nguồn
lan tại chỗ, kỹ thuật chăm sóc còn hạn chế, đặc biệt chưa quan tâm nhiều đến việc
sử dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa lan Hồ Điệp.
Ngày nay, việc sử dụng chế phẩm điều hòa sinh trưởng và phân bón qua lá
cho cây trồng đã khá phổ biến và có vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất,
chất lượng nông sản. Tuy nhiên, việc lựa chọn chế phẩm điều hòa sinh trưởng và
phân bón qua lá thích hợp để sử dụng kết hợp các biện pháp kỹ thuật trồng lan trong
thời kì ra mầm hoa của hoa lan chưa phù hợp làm cho chất lượng của hoa lan Hồ
Điệp chưa cao.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế khách quan trên cũng như góp phần phát triển
ngành trồng lan tại Thái Nguyên, giúp cho người trồng Lan có thêm các biện pháp

kỹ thuật chăm sóc Lan hiệu quả theo hướng công nghiệp, tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm điều hòa sinh trưởng và phân bón
qua lá đến hiệu quả sản xuất của hoa Lan Hồ Điệp Giống V3 tại Thái Nguyên”.
2. Mục đích của đề tài
- Xác định loại chế phẩm điều hòa sinh trưởng phù hợp đối với sinh trưởng,
phát triển lan Hồ Điệp giống V3 tại Thái Nguyên.
- Xác định loại phân bón qua lá phù hợp đối với sinh trưởng, phát triển lan
Hồ Điệp giống V3 tại Thái Nguyên.
3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá khả năng sinh trưởng đối với hoa lan Hồ Điệp giống V3.
- Theo dõi tình hình sâu, bệnh hại đối với hoa lan Hồ Điệp giống V3.
- Đánh giá một số chỉ tiêu chất lượng hoa đối với hoa lan Hồ Điệp giống V3.
- Hạch toán kinh tế đối với hoa lan Hồ Điệp giống V3.



3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỂ TÀI
1.1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
Trong những năm gần đây việc nghiên cứu sản xuất phân bón lá và chế phẩm
để tăng năng suất cây trồng đang phát triển mạnh. Các loại chế phẩm này bản chất
giống như các chất giúp cây tăng trưởng có sẵn trong cây song ở nồng độ thấp, chưa
đáp ứng cho cây sinh trưởng phát triển tốt được. Với nghề trồng hoa, việc sử dụng
chế phẩm điều hoà sinh trưởng có nhiều thuận lợi, đó là:
- Hoa không phải là thực phẩm cho người và vật nuôi, do đó các ảnh hưởng
độc hại (nếu có) của chất điều tiết sinh trưởng không ảnh hưởng đến con người và
vật nuôi.

- Ở nồng độ thấp các chất điều tiết sinh trưởng đã phát huy tác dụng đối với
cây trồng nói chung và với hoa nói riêng nên dư lượng của nó trong đất, nước là
không đáng kể.
- Tác dụng của chất điều tiết sinh trưởng đối với hoa nhanh, rõ rệt.
- Các chất điều tiết sinh trưởng có thể thay đổi một số đặc điểm thực vật học
của cây hoa như: chiều cao cây, màu sắc lá, thời gian sinh trưởng, sự ra hoa, chất
lượng và tuổi thọ của hoa…
Chất điều tiết sinh trưởng thực vật là chất dinh dưỡng nên không thể thay thế
cho phân bón. Vì vậy muốn đạt hiệu quả cao khi sử dụng các chất điều tiết sinh
trưởng phải phối hợp hợp lý chúng với phân bón, đặc biệt trong các trường hợp
muốn làm tăng chiều cao và sinh khối của hoa. Vì vậy ngoài việc bón phân qua rễ
cần bổ sung thêm dinh dưỡng cho cây qua lá, sẽ giúp cây hấp thụ nhanh hơn và đủ
chất hơn.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là dẫn liệu khoa học có giá trị về việc lựa chọn
những chế phẩm điều hòa sinh trưởng, phân bón qua lá phù hợp để nâng cao năng
suất và chất lượng hoa lan Hồ Điệp giống V3, đồng thời góp phần bổ sung thêm tài

4

liệu khoa học phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học về hoa lan Hồ
Điệp giống V3 trồng tại Thái Nguyên.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
Kết quả đề tài góp phần giải quyết yêu cầu thực tế sản xuất của các hộ nông
dân, các doanh nghiệp trồng hoa lan để lựa chọn các biện pháp kỹ thuật tốt nhất trong
việc nuôi trồng lan Hồ Điệp giống V3 tại Thái Nguyên.
1.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT HOA LAN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.2.1. Tình hình sản xuất lan trên thế giới
Hiện nay tình hình sản xuất hoa trên thế giới đang phát triển một cách mạnh
mẽ và đã trở thành một ngành thương mại có lợi cho nền kinh tế các nước trồng và
xuất khẩu hoa. Diện tích trồng hoa trên thế giới ngày được mở rộng và không

ngừng tăng lên, nhiều tạp chí về hoa lan được xuất bản, nhiều cuộc hội thảo về lan
đã được tổ chức. Trước đây việc nuôi trồng và xuất khẩu chủ yếu là lan rừng nên
nguy cơ khoảng 13 loài tuyệt chủng, ngày nay việc trồng lan dần theo quy mô công
nghiệp, việc xuất khẩu lan đã đạt tới số lượng hàng trăm ngàn giò, hàng vạn cành
lan trong một năm nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
Thị trường xuất khẩu hoa lan trên thế giới ngày càng mở rộng. Kim ngạch
thương mại hoa lan cắt cành trên thế giới năm 2000 đạt 150,0 triệu USD, trong đó
Nhật Bản là nước nhập khẩu hoa lan cắt cành đứng thứ nhất thế giới, sau đó là Ý,
tiếp theo là Pháp, Đức đứng thứ tư và thứ năm là Mỹ .
Vì có giá trị kinh tế cao nên rất nhiều nước đã tập trung vào việc nghiên cứu
hoa lan chất lượng cao để phục vụ cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Các
nước như Thái Lan, Nhật Bản, Inđônêsia, Hà Lan đã đầu tư mạnh cho các trang trại,
công ty để sản xuất hoa chậu và hoa cắt. Họ tập trung chủ yếu vào việc nhân nhanh
lan sạch bệnh, hoa đẹp, có mùi thơm, đa dạng về màu sắc và hình dạng để cung cấp
cho hơn 50 nước trên thế giới. Do đó, chúng ta có thể nói rằng sản xuất lan đã đem
lại lợi nhuận rất cao cho các nước đang phát triển và phát triển.
Trong số các loài lan, lan Hồ Điệp được ưa thích về màu sắc, kiểu dáng trang
nhã nhưng cũng không kém phần kiêu sa và được mệnh danh là “ nữ hoàng “ của

5

các loài hoa lan. Chính vì vậy, việc trồng lan Hồ Điệp không chỉ dừng lại ở qui mô
gia đình mà đã nhanh chóng được mở rộng và trở thành lãnh vực quan trọng trong nông
nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều nước trên thế giới như Đài Loan, Nhật
Bản, Hà Lan, Mỹ.
Trong những năm gần đây, lan Hồ Điệp trở thành lan trồng chậu phổ biến và
được ưa chuộng nhất. Tổng sản lượng chiếm trên 75% trong các loại lan được trồng
trên thế giới. Tại Hà Lan, Hồ Điệp cũng là loại lan được trồng trong chậu phổ biến
và có giá trị cao nhất trong ngành trồng hoa. Tại Mỹ, Hồ Điệp là hoa trồng chậu
trang trí và quà tặng cao cấp.

Lan Hồ Điệp được trồng mọi nơi trên thế giới, hầu hết là ở Đức, Nhật Bản,
Đài Loan, Thái Lan, Hoa Kỳ vv. Lợi nhuận đem về từ việc xuất khẩu cây con hay
cây có hoa đều lớn [22].
1.2.2. Tình hình sản xuất hoa lan ở Việt Nam
Nghề sản xuất hoa, cây cảnh ở Việt Nam có từ lâu đời, nhưng chỉ được coi là
một ngành kinh tế và có giá trị hàng hoá từ những năm 1980. Cũng giống như trên
thế giới, ngành kinh tế này có tốc độ phát triển khá nhanh.
Bảng 1.1 Tốc độ phát triển của ngành sản xuất hoa,
cây cảnh giai đoạn 2000-2011
Chỉ tiêu
Năm
2000
Năm
2005
Năm
2008
Năm
2011
Tổng diện tích (ha) 6.800

11.200

12.600

16.200

Giá trị sản lượng (Tr.đ) 950.000

1.960.000


4.410.000

6.800.000
Giá trị thu nhập TB (Tr.đ/ha/năm) 140 275 350 420
Mức tăng diện tích so với 2000 (lần) 1,0 2,1 1,9 2,4
Mức tăng giá trị sản lượng so với
2000 (lần)
1,0 2,0 4,6 7,2

(Số liệu thống kê và điều tra tổng hợp của Viện Nghiên cứu Rau quả năm 2012)

6

So với năm 2000, diện tích hoa, cây cảnh năm 2011 đã tăng 2,4 lần, giá trị
sản lượng tăng 7.2 lần (đạt 6.800 tỷ đồng, trong đó xuất khẩu xấp xỉ 50 triệu USD)
Mức tăng giá trị thu nhập/ha là 3,0 lần (đã có nhiều mô hình đạt 800 triệu đến 2,5 tỷ
đồng/ha/năm). Tốc độ tăng trưởng này là rất cao so với các ngành nông nghiệp khác.
Cũng theo kết quả điều tra, nhu cầu thị trường hoa, cây cảnh của Việt Nam
trong giai đoạn 2000 – 2011 trung bình tăng 9%/năm. Mức độ tiêu dùng hoa, cây
cảnh trung bình của người dân đô thị năm 2000 là 25.000đ/ người/ năm, đến năm
2011 tăng lên 52.000đ/ người /năm. Ở nông thôn, mức độ tiêu dùng tương ứng chỉ
bằng 20% so với đô thị. Sự tăng trưởng của ngành sản xuất hoa, cây cảnh luôn ổn định
trong suốt 11 năm qua.
Theo ước tính, có được kết quả trên là do sự đóng góp của nhân tố xã hội (do
thu nhập ngày càng cao, đời sống người dân ngày càng cải thiện), chiếm 40%; sự
đầu tư của Nhà nước về cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách chiếm 15%; sự nỗ lực
của người dân 25% và do kết quả đóng góp của khoa học 20%.
Trước năm 1995, Việt Nam chủ yếu sử dụng những loại hoa, cây cảnh truyền
thống, thông dụng như quất, đào, mai, hồng, cúc, layơn, huệ, thược dược. Những
năm gần đây, một số chủng loại hoa, cây cảnh cây cảnh mới, cao cấp đã dần dần

được chú trọng và đang có xu hướng tăng dần về số lượng và giá trị.
Kết quả điều tra cho thấy: các loại hoa truyền thống có xu hướng giảm dần
về diện tích (đồng thời cũng giảm dần về cơ cấu) để thay vào đó là các chủng loại
hoa mới, có giá trị cao hơn (lily, lan, cát tường, tình nhân thảo, salem, bay bi, trà,
hải đường, đỗ quyên, )
Có sự thay đổi trên là do nhu cầu của người tiêu dùng luôn luôn hướng đến
những chủng loại cây cảnh, cây hoa, cây cảnh mới lạ, có chất lượng cao (màu sắc
đẹp, độ bền lâu, có hương thơm…); do sự hội nhập với bên ngoài: càng ngày càng
có nhiều chủng loại hoa, cây cảnh mới được du nhập vào Việt Nam bằng nhiều con
đường khác nhau; và do có đóng góp rất lớn của các cơ quan khoa học trong việc lai
tạo, thu thập, tuyển chọn các giống hoa, cây cảnh mới. Các nhà đầu tư trồng hoa,

7

cây cảnh cần nắm bắt những thông tin và tính toán để cân đối giữa cung và cầu
trong quá trình sản xuất.
Bảng 1.2 Cơ cấu số lượng, chủng loại hoa ở Việt Nam qua các năm
Đơn vị tính: %
Năm 1995 Năm 2000 Năm 2011
Chủng loại
100% 100% 100%
1. Hồng 25 24 18
2. Cúc 24 23 21
3. Layơn 15 14 14
4. Thược dược 6 4 2
5. Huệ 11 9 5
6. Đồng tiền 5 7 9
7. Lily 2 5 12
8. Cẩm chướng 3 3 3
9. Lan 2 3 6

10. Hoa khác 7 8 10

Sản xuất hoa Lan đã có sự thay đổi đáng kể tuy nhiên vẫn chiếm phần trăm
nhỏ so với các loại hoa khác (6%) và việc trồng hoa Lan ở Việt Nam mới chỉ phát
triển mạnh mẽ ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt là Đà Lạt và thành phố Hồ Chí Minh.
Thành phố Hồ Chí Minh có khí hậu ấm áp quanh năm là trung tâm văn hóa
kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật của miền Nam có một tiềm năng lớn về nuôi
trồng và kinh doanh hoa lan.
Từ năm 1980 Việt Nam đã xuất khẩu lan sang Liên Xô, Tiệp Khắc. Năm
1987 ở thành phố Hồ Chí Minh đã có các vườn lan quốc doanh và tư nhân cùng với
sự ra đời của nhiều hội lan, cây cảnh và có nhiều cơ sở nghiên cứu ra đời. Theo số
liệu điều tra bước đầu tính đến năm 1986 thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 15 gia
đình có vườn lan với số lượng 1000 – 7000 chậu và đến năm 1987 ở thành phố Hồ
Chí Minh đã có vườn quốc doanh tư nhân: vườn lan T78, vườn lan Hàng Không dân

8

dụng, đến năm 2004 có 50 ha, năm 2005 là 80 ha, và mở rộng diện tích lên 200 ha
vào năm 2011.
Ở Hà Nội, mười năm gần đây, khi đời sống người dân thủ đô nâng cao, nhu
cầu thưởng thức hoa lan tăng, nhiều khi cung không đủ cầu và phong trào nuôi
trồng lan tự phát lan rộng cả đến các vùng phụ cận khiến các nhà khoa học phải vào
cuộc, đi sâu nghiên cứu và sản xuất, kinh doanh hoa lan. Do do mà hiện nay thủ đô
và các tỉnh, thành lân cận, đến thời điểm này, nông dân nhiều huyện ngoại thành Hà
Nội đã trồng mới được gần 1.300 ha hoa các loại. Những huyện có truyền thống trồng
hoa tử lâu năm như Từ Liêm đã trồng được hơn 400 ha hoa, Mê Linh gần 500 ha
Tại Viện Sinh học Nông nghiệp thuộc Trường Đại học Nông nghiệp I Hà
Nội đã cho ra đời hàng vạn cây giống hoa lan có giá trị kinh tế như: Hồ Điệp
(Phalaenopsis), Cát lan (Cattleya), lan Thái (Dendrobium)… Ngoài ra viện còn làm
cố vấn kỹ thuật, chuyển giao qui trình nuôi trồng một số giống lan có hiệu quả kinh

tế ở các tỉnh như Hải Phòng, Bắc Giang, Lạng Sơn… và tại Trung tâm Kỹ thuật Rau
– Hoa – Quả Hà Nội, 2 năm trở lại đây, phòng nuôi cấy mô hoạt động cho ra đời
mỗi năm hàng vạn cây lan Hồ Điệp giống và hàng vạn cây giống khác, đặc biệt đã
thành công trong việc nhân giống lan Hài, lan Kiếm (Hoàng Vũ, Bạch Ngọc…).
Tại Trung tâm Kỹ thuật Rau – Hoa – Quả Thường Tín, Hà Tây, tiền thân là
liên doanh hoa JAVECO được thành lập năm 1997, năm 2000 phía Nhật đã chuyển
giao, để lại toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật (phòng cấy mô hiện đại, 2 nhà kính trồng
lan, 30 nhà ống Vinyl và một số thiết bị khác…).
Ngành sản xuất hoa lan ở các tỉnh, thành phố phía Nam phát triển mạnh hơn
miền Bắc. Nói chung vấn đề sản xuất – kinh doanh – xuất khẩu hoa lan ở Việt Nam
từ trước đến nay vẫn còn ở mức tiềm tàng, trong khi đó sức cạnh tranh thị trường
trên thế giới là rất lớn, những hoạt động, kinh doanh và xuất khẩu trong thời gian
qua chỉ có ý nghĩa khởi động và hứa hẹn sự phát triển trong tương lai.
Năm 2009, quy mô diện tích sản xuất hoa lan Hồ Điệp ở miền Bắc đạt
khoảng 4.400 m2, cung cấp cho thị trường khoảng 131.000 cây, đáp ứng được 21%
nhu cầu của thị trường. Hiệu quả kinh tế đem lại từ sản xuất lan Hồ Điệp là rất cao.

9

Qua tính toán cho thấy, lãi thu được từ sản xuất lan Hồ Điệp đạt trung bình từ 280 –
540 triệu đồng/1000m2 như mô hình tại Viện Nghiên cứu rau quả. Đặc biệt một số
mô hình cho lãi từ 700 triệu – 1 tỷ đồng/1000m2 như công ty Cửu Long, Trung tâm
ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh…
Lan Hồ điệp, là một loài lan có độ bền hoa cao trong điều kiện thích hợp,
cũng là một loài cây rất thích hợp để trồng trong nhà, dễ ra hoa. Hơn nữa, trong vài
thập kỉ gần đây nền công nghệ trồng lan phát tiển giúp người trồng đã giảm giá
thành đáng kể đối với loại lan này nên giá cả phù hợp với những người mê hoa hay
người mới tập trồng, Hồ Điệp rất được ưa chuộng và được trồng ở nhiều nơi.
1.2.3. Tình hình sản xuất hoa tại tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên là tỉnh miền núi thuộc vùng Trung du - Miền núi Bắc bộ, phía

Nam giáp Thủ đô Hà Nội, phía Bắc giáp Bắc Kạn, phía Đông giáp các tỉnh Lạng
Sơn, Bắc Giang, phía Tây giáp các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ. Thái Nguyên có 9
huyện thị gồm: thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công, huyện Định Hoá, Phú
Lương, Võ Nhai, Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình và huyện Phổ Yên. Thái Nguyên là
một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục y tế của Việt Nam nói chung,
của vùng trung du miền Đông Bắc nói riêng. Đây là một trong những vùng chè nổi
tiếng của cả nước, một trung tâm công nghiệp gang thép của phía bắc, cửa ngõ giao
lưu kinh tế - xã hội giữa trung du miền núi với đồng bằng Bắc Bộ. Thái Nguyên là
nơi tụ hội các nên văn hoá dân tộc, đầu mối của các hoạt động văn hoá, giáo dục
của vùng núi phía Bắc rộng lớn còn có lợi thế để phát triển nông nghiệp.
Nghề trồng hoa ở Thái Nguyên mới được khai thác và phát triển bởi vậy nghề
trồng hoa nơi đây còn rất non trẻ, nhưng tốc độ phát triển rất nhanh. Như hoa lily,
hoa hồng, hoa cúc, hoa đào, hoa lan do lợi nhuận từ nghề trồng hoa đem lại cao,
nên diện tích hoa các loại ngày một tăng nhanh và cây hoa đã trở thành cây chủ lực
cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp của Thái Nguyên.
Sản xuất hoa ở Thái Nguyên chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống và áp
dụng phương pháp nhân giống hoa cổ truyền, dễ làm, quen với kinh nghiệm của
nông dân, chi phí thấp. Do đó trong sản xuất, phương pháp trồng thoa truyền thống

10

là chủ yếu và chiếm ưu thế.
Hiện nay, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, đội ngũ cán bộ nông nghiệp
được đào tạo cơ bản, người dân đã mạnh dạn sử dụng cây con giống bằng phương
pháp nuôi cấy mô tế bào tạo cây giống khoẻ, sạch bệnh cùng với những trang thiết
bị hiện đại phục vụ cho sản xuất trồng hoa. Đây là một lợi thế làm tiền đề cho ngành
sản xuất hoa lan phát triển.
1.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ GIỐNG HOA LAN HỒ ĐIỆP TRÊN THẾ
GIỚI VÀ VIỆT NAM
1.3.1. Các nghiên cứu về giống hoa lan Hồ Điệp trên Thế giới

Cây lan được biết đến đầu tiên ở Phương Đông vào khoảng 2500 năm về trước
(Thời đại của Đức Khổng Tử, 551- 479 trước công nguyên).
Hoa lan thường mọc ở các vùng nhiệt đới, đã được các thuỷ thủ, các lái buôn,
nhà truyền giáo mang về nên người châu Âu biết đến rất muộn, lan được chú ý
trước hết để làm thuốc chữa bệnh. Ở đây người ta đã tiến hành nghiên cứu rất công
phu tỉ mỉ về lan. Có thể nói Theophara stus là cha đẻ ngành học về lan và ông cũng
là người đầu tiên dùng từ Orchid để chỉ một loài lan có củ tròn. Sau đó Robut Bron
(1773 - 1858) là người đầu tiên đã phân biệt rõ ràng giữa họ lan và các họ khác [8].
Người đặt nền tảng hiện đại cho môn học về lan là John Lindley (1799 - 1865). Năm
1836 ông công bố, sắp xếp các tông họ lan (A tabuler view of the tribes of
orchidaler). Tên của họ lan do ông đưa ra được dùng cho đến ngày nay [8].
1.3.2. Các nghiên cứu về giống hoa lan ở Việt Nam
Ở Việt Nam, dấu vết nghiên cứu về lan thời kỳ đầu không rõ rệt, có lẽ người
đầu tiên có khảo sát về lan ở Việt Nam là Gioalas Noureiro - Nhà truyền giáo người
Bồ Đào Nha, ông đã mô tả cây lan ở Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1789 trong
cuốn “Flora cochin chinensis”, gọi tên các cây lan trong cuộc hành trình đến nam
phần Việt Nam là Aerides, Phaius và Sarcopodium mà đã được Bentham và
Hooker ghi lại trong cuốn “Genera planterum” (1862 - 1883) [7]. Chỉ sau khi người
Pháp đến Việt Nam mới có những công trình nghiên cứu được công bố đáng kể là
F. Gagnepain và A. Gnillaumin mô tả 70 chi gồm 101 loài cho cả 3 nước Đông

11

Dương trong bộ “Thực vật Đông Dương chí” do H. Lecomte chủ biên, xuất bản
năm 1932 - 1934 [15].
Sau năm 1975 các nhà khảo cứu Việt Nam, Liên Xô, Tiệp Khắc bắt đầu tìm
kiếm và nghiên cứu về những giống lan tại Việt Nam.
Gần đây nhất tác giả Leonid Averyanov và các tác giả Nguyễn Tiến Hiệp,
Phan Kế Lộc, Dương Đức Huyến đã lần lượt công bố trên tờ nguyệt san Orchids
của Hội hoa lan Hoa Kỳ những khám phá mới lạ đã phát hiện thấy 4 loài lan ở Việt

Nam chưa được biết đến đó là Paphio pledilum helenae, Renamthera citrina,
Paphiopedilum hiepii và Vanda bidupensis.
1.4. NHỮNG NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ CÂY HOA LAN HỒ ĐIỆP
1.4.1. Nguồn gốc và phân loại
1.4.1.1. Nguồn gốc, vị trí phân bố
* Nguồn gốc
Cây lan Orchida thuộc họ phong lan Orchidaceae, bộ lan Orchidales, lớp một
lá mầm Monoctyledoneae.
Lan Hồ Điệp có tên khoa học là Phalaenopsis sp, là loại lan có hoa lớn, đẹp,
bền. Lan Hồ Điệp có màu sắc phong phú, không thua kém giống lan nào khác từ
trắng, hồng, đỏ, vàng, tím đến các loại lan Hồ Điệp có sọc nằm ngang hoặc thẳng đứng
hoặc có đốm to hay nhỏ. Giống Phalaenopsis có khoảng 70 loài trong đó có 44 chủng
loại, mọc từ dãy Hymalaya đến châu Á có hơn 20 loài lan ưa nóng có ở các nước Đông
Nam Á như bán đảo Mã Lai, Indonesia, Philippine, đông Ấn Độ [11].
Lan Hồ Điệp được khám phá vào năm 750, đầu tiên được ông Rumphius xác
định dưới tên là Angraecum album. Đến năm 1753, Linne đổi lại là Epidenndrum
amabilis vào năm 1825, Blume một nhà thực vật Hà Lan định danh một lần nữa
là Phalaenopsis amabilis Bl và tên đó được dùng cho đến ngày nay [22].
* Vị trí phân bố
Cây hoa lan mọc ở khắp mọi nơi trên thế giới, từ miền gió tuyết đến sa mạc
nóng bỏng khô cằn, từ miền núi cao rừng thẳm đến đồng cỏ của miền bình nguyên
và ngay cả các vùng sình lầy cũng có lan. Đa số lan mọc tập trung ở các rừng cây

12

nhiệt đới, ở các nước Châu Á như Thái Lan, Lào, Cam Pu Chia, Việt Nam có
Dendrobium, Vanda, Phalaenopsis, Archinis, Renanthera, ở Châu Nam Mỹ như
Costarica, Venezuela, Colombia có các giống Cattleya, Odontoglosum, Miltonia [9].
Lan Hồ Điệp sống ở độ cao 200- 400 m nên vừa chịu khí hậu nóng ẩm vừa
chịu khí hậu mát, nhiệt độ trung bình từ 20

0
– 30
0
C, trong đó khí hậu lý tưởng cho
việc nuôi trồng loại lan này là 22
0
C – 27
0
C
Việt Nam có khoảng 5- 6 giống nguyên chủng, gồm Phalaenopsisi gibbosa
Sweet, phalaenopsis mannii, Phalaenopsis braceana, christenson, phalaenopsis
fuscata, Phalaenopsis lobbii. Hầu hết có hoa nhỏ nhưng màu sắc sặc sỡ, hương
thơm độc đáo [22].
1.4.1.2. Phân loại hoa lan
Cây hoa lan thuộc họ lan (Orchidaceae), ở trong lớp đơn tử diệp, lớp 1 lá mầm
(Monocotyledoneae), thuộc ngành ngọc lan - thực vật hạt kín Magnolio phyta, phân
lớp hành Lilidae, bộ lan Orchidales [1],[2],[8].
Theo tác giả Takhtajan (1980), họ lan bao gồm cả họ Apostasicideae và họ
Cypripedicideae chia thành 3 họ phụ gồm:
1. Orchidadeae
2. Cypripedicideae
3. Apostasicideae
Trong đó họ phụ lan (Orchidadeae) là phức tạp nhất, có nhiều giống nhiều loại
nhất, hai họ phụ kia mỗi loại chỉ có một tông [8].
Gần đây, do phân tích hoa đầy đủ hơn và đi sâu vào đặc tính di truyền, các nhà
khoa học đã chia họ lan thành 6 họ phụ:
1. Apostasicideae
2. Cypripedicideae
3. Neottioi deae
4. Orchidadeae

5. Epidendroi deae
6. Vandoideae

13

Cả 6 họ phụ này đều phổ biến rộng rãi trên trái đất. Họ lan của Việt Nam
cũng khá phong phú, theo thống kê sơ bộ gần đây có khoảng 140 chi và 730 loài.
Như vậy, họ lan đã trở thành 1 đối tượng cực kỳ phong phú và đặc sắc của hệ thực
vật Việt Nam, không những là một trong những họ thực vật lớn nhất mà còn đóng
góp nhiều về mặt giá trị sử dụng cho nền kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, việc phân
loại cây trồng hết sức phức tạp, cho đến nay chưa có khoá phân loại cho các đơn vị
dưới loài, trong khi đó việc phân loại cho các đơn vị dưới loài hết sức quan trọng,
nhất là trong công tác chọn giống cây trồng [12].
Đối với Hoa lan Hồ Điệp được phân loại như sau:
Ngành: Magnoliophyta (thực vật hạt kín)
Lớp: Monocotyledoneae (lớp một lá mầm liliopsida)
Bộ: Orchidaceae
Họ: Orchidaceae
Giống: Phalaenopsis
Loài: Phalaenops is spp
Tên khoa học: Phalaenopsis wedding promenade [22].
1.4.2. Đặc điểm thực vật học của Hoa lan Hồ Điệp
Thân cây họ lan: cây lan sống ở những nơi hoang dã, ở các địa điểm rất khác
nhau, điều kiện môi trường rất khác nhau như các sườn núi cao giá lạnh, trên cây
cao gió thốc hoặc ẩm ướt tối tăm ven suối trong rừng rậm , cấu trúc loài lan cũng
đa dạng để thích nghi.
Lan Hồ Điệp thuộc loại lan đơn thân, tức là thân của chúng rất ngắn không hề
có giả hành, cũng không có thời kỳ ngủ nghỉ rõ rệt. Lan đơn thân sinh trưởng rất
chậm chạp, thân chính của nó trong môi trường thuận lợi hàng năm lại mọc ra các lá
mới, chúng mọc theo hướng cao hơn theo phương thẳng đứng còn cành hoa thì mọc

ở rìa thân hoặc nảy ra từ nách lá, lá mọc xếp thành hai hàng, xen kẽ nhau. Theo sự
sinh trưởng của cây, các lá già ở dưới gốc dần dần già héo và rụng đi, đến khi có
chồi nách mọc ra, nhưng thường không mọc dài ra được. Vì cây lan thường rất khó ra
chồi nhánh nên không dùng phương pháp tách cây để nhân giống. Thân của lan Hồ Điệp,

14

ngoài tác dụng giữ cho cây thẳng đứng, còn có chức năng tích trữ chất dinh dưỡng và
nước cho cây [22].
Rễ lan: đa số rễ của các loài lan có lớp mô xốp bao quanh rễ thật. Rễ của
phong lan có lớp mô xốp màu trắng ngà với nhiều công dụng khác nhau: bảo vệ
nguồn dẫn nước bên trong của rễ; hút nước và các muối khoáng bám trên mặt rễ và
hấp thụ cả hơi nước trong không khí ẩm.
Hệ rễ của lan Hồ Điệp không phân chia thành rễ chính, rễ phụ, rễ nhánh, lông
hút rõ ràng. Hệ rễ của lan Hồ Điệp thường có dạng hình tròn, to, mập, có nhánh
hoặc không phân nhánh. Rễ thường có màu trắng, đầu rễ có màu xanh, màu vàng
trắng hoặc màu đỏ tối. Rễ của lan Hồ Điệp thường mọc tràn ra ngoài chậu, buông lơ
lửng ra không khí, có lợi cho việc hút O
2
và nước. Có những nghiên cứu cho thấy rễ
lan Hồ Điệp cũng như phong lan có khả năng quang hợp.
Rễ của lan Hồ Điệp cũng như một số loài lan khác có nấm cộng sinh. Do hạt
của hoa lan nói chung đều không có nội nhũ, không được cung cấp đủ dinh dưỡng
khi nảy mầm, trong điều kiện nảy mần tự nhiên, cần dựa vào các nấm cộng sinh để
hút chất dinh dưỡng. Trong quá trình sinh trưởng của cây, các loài nấm này sống
cộng sinh tại rễ của cây lan để hỗ trợ lẫn nhau, vì thế rễ của cây lan còn được gọi là
rễ nấm. Nên việc tưới và bón phân cho cây lan Hồ Điệp cần cẩn thận chính là vì
trên rễ cây có nấm cộng sinh [22].
Lá lan: lá của họ lan có hình dáng và kích thước rất khác nhau. Lá của nhiều
loại lan rất dai, dày dặn, rất chắc có thể trữ được nước và các chất dinh dưỡng. Lá

của các loài lan mọc ở 2 phía của thân cây. Lá của lan kiếm mọc trên cây thường
dày và cứng hơn mọc dưới đất vì chúng phải lưu trữ nước và dinh dưỡng.
Lá của lan Hồ Điệp to dày, đầy dặn, lá mọc đối xứng, ôm lấy thân cây. Số lá
trên thân cây thường không nhiều, thông thường 1 cây lan trưởng thành có từ 4 lá
trở lên. Trong nách lá có 2 chồi phụ, chồi phụ trên to hơn là chồi sơ cấp, bên dưới là
chồi dinh dưỡng sơ cấp. Các chồi sơ cấp này sinh trưởng đến một mức độ nào đó thì
bắt đầu đi vào giai đoạn ngủ nghỉ. Màu sắc của lá gồm 3 loại: lá màu xanh, mặt trên
lá và mặt dưới lá màu đỏ, mặt trên lá đốm và mặt dưới lá màu đỏ. Căn cứ vào màu

15

sắc lá có thể phân biệt được màu sắc hoa của chính nó, lá màu xanh thường ra hoa
màu trắng hoặc hoa nhạt màu, còn các lá màu khác thường cho hoa màu đỏ.
Lan Hồ Điệp để thích nghi với điều kiện sinh thái nguyên sinh, thông thường
bề mặt trên của lá không có khí khổng, chỉ có mặt dưới của lá mới có khí khổng.
Lan Hồ Điệp là loại thực vật CAM, giống như các thực vật CAM khác nên khí
khổng mở ra vào ban đêm để thu nhận CO
2
để tạo ra chất dự trữ trong cơ thể, vào
ban ngày CO
2
được sử dụng cho quá trình quang hợp. Ưu điểm của loại thực vật
này là khí khổng không mở vào ban ngày nên cây không bị mất nước do quá trình
thoát hơi nước. Điều kiện này đối với cây không được cung cấp nước thường xuyên
là rất có lợi. Khi cây có đủ nước thì khí khổng cũng mở ra vào ban ngày để hút khí
CO
2
tiến hành quang hợp bình thường. Nếu gặp phải điều kiện khô hạn nghiêm
trọng thì khí khổng sẽ đóng lại, quá trình quang hợp diễn ra chỉ vửa đủ cho lượng
CO

2
tạo ra trong quá trình hô hấp. Đây chính là nguyên nhân khiến cho cây lan Hồ
Điệp mặc dù không có giả hành nhưng lại có khả năng chịu hạn tốt [22].
Hoa lan: hoa của tất cả các loài trong họ lan dù rất khác nhau về kích thước
màu sắc và hình dáng nhưng chúng được cấu tạo theo cùng một khuôn mẫu: Hoa
lan có 7 bộ phận gồm: 3 cánh đài bên ngoài, 3 cánh hoa và trụ của bông hoa. Đoạn
cuống tiếp giáp bông hoa, lá bầu hoa có 3 tâm bì chính là 3 ô của quả lan chứa đầy
các hạt nhỏ li ti gọi là tiểu noãn.
Cánh đài: bộ phận bên ngoài của hoa là 3 cánh đài, bảo vệ hoa khi còn là nụ.
Đây là nét độc đáo của hoa lan. Đại đa số hoa lan có 3 cánh đài hoàn toàn giống
nhau. Hoa lan Vanda có 3 cánh đài to và đẹp hơn cánh hoa, ngược lại ở một số loài
lan như lan Hài có 2 cánh kém phát triển và dính liền vào nhau.
Cánh hoa: cánh hoa là bộ phận quan trọng nhất để tạo ra vẻ đẹp quyến rũ của
hoa lan. Hai cánh hoa trên giống nhau hoàn toàn về màu sắc và kích thước.
Một số loài hoa lan có 3 cánh đài và 2 cánh hoa trên có màu sắc và kích thước
gần giống nhau nên đã làm cho nhiều người hiểu nhầm loài hoa này có 5 cánh hoa.
Một số loài lan đặc biệt như lan hài có 2 cánh hoa dài ra thành hình dải, có khi chúc
xuống, có khi lướt sóng thành đường viền nhăn nheo kỳ lạ.

16

Cánh hoa phía dưới có màu sắc, hình dạng rất đặc sắc khác hẳn với 2 cánh hoa
trên được gọi là cánh môi hay lưỡi. Cánh môi của hoa quyết định phần lớn giá trị
thẩm mỹ của hoa. Thiên nhiên đã cho lưỡi hoa vẻ đẹp về màu sắc và kiểu dáng mà
con người khó hình dung được. Cánh môi thường lớn lộng lẫy với nhiều màu sắc
rực rỡ, hình dáng có thể đơn giản nhưng kỳ lạ, có thùy, rìa, tua, sóng
Trụ hoa: giữa bông hoa có một cái trụ. Trụ hoa có chứa cả nhụy hoa và nhị
hoa, có loài lan hài có 2 nhị. Đầu trụ là một nắp chứa phấn hoa. Khác với các loài
hoa khác, hạt phấn hoa được kết với nhau bằng một chất sáp tạo thành những viên
gọi là phấn khối. Do đặc tính phấn hoa lan nên ở một số nước như Hàn Quốc người

ta cho trồng hoa lan trong bệnh viện và cho mang hoa lan vào thăm bệnh nhân. Số
lượng phấn khối có thể là 2, 4, 6, 8 tùy loài hoa. Cát lan và Laelia rất giống nhau về
tất cả các mặt nhưng khác nhau về số phấn khối. Cát lan có 4 phấn khối còn Laelia
có 8. Phía dưới nắp là một điểm trũng bóng, nếu lấy đầu que diêm chấm vào điểm
đó ta sẽ thấy có một chất nhầy và dính. Đây chính là đầu nhụy nơi tiếp nhận phấn.
Bầu hoa: khi phấn khối rơi vào đầu nhụy tạo ra sự thụ phấn. Hoa sẽ héo đi
nhanh chóng, bầu hoa phình rộng ra thành quả lan. Trong mỗi quả có rất nhiều hạt
(hàng vạn, hàng triệu tùy loại). Sau vài tháng hoặc lâu hơn, quả lan sẽ chín và nứt
dọc theo 3 khe của 3 ô. Các hạt lan có thể bị gió cuốn đi rất xa. Hạt lan không chứa
chất dinh dưỡng như những loài thực vật khác nên chúng không thể mọc thành cây
lan con được nhưng chúng vẫn sinh sôi nảy nở và phát triển vì chúng có những hạt
đã gặp được loài nấm cộng sinh hỗ trợ các chất dinh dưỡng để cây lan con lớn dần
tới khi bộ rễ phát triển để có thể tự nuôi sống.
Họ lan được xếp vào đỉnh cao của mức độ tiến hóa trong các họ cây có hoa.
Kết luận này dựa vào sự hoàn chỉnh của cấu trúc hoa lan tạo cho sự thụ phấn bằng
côn trùng được thuận lợi nhất. Nếu thụ phấn chỉ do phấn của bông hoa rơi trên đầu
nhụy của chính bông hoa đó thì loài hoa này nhanh chóng bị thoái hóa hơn. Phấn
của hoa lan được kết dính nên không dễ dàng rơi xuống đầu nhụy dù gió có lay
mạnh bông hoa.
Khi hoa còn là nụ, nụ có thể là nghiêng hay dựng đứng ở các vị trí khác nhau.

×