Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông”ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.5 KB, 14 trang )

Chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông” là một bộ phận
của chương trình GDCD ở trường THCS. Đây là bài học cho học sinh
những kiến thức cơ bản về luật giao thông đường bộ. Qua những giê
dạy học chuyên đề “ Giáo dục an toàn giao thông” HS được cung cấp
kiến thức cơ bản về luật giao thông đường bộ, cụ thể là những qui định
cơ bản về trật tự an toàn giao thông, qua đó các em hình thành những kĩ
năng xử lí tình huống khi tham gia giao thông, biết điÒu chỉnh hành vi
khi đi đường, tham gia giao thông an toàn, chấp hành tốt hệ thống báo
hiệu giao thông đường bộ như : Hiệu lệnh của người điều khiển giao
thông, biển báo hiệu, đèn tín hiệu…Đồng thời các em biết phê phán,
lên án những hành vi vi phạm an toàn giao thông, biết tuyên truyền
nhắc nhở những qui định cơ bản về Luật giao thông cho các đối tượng
khác.
Thực hiện mục tiêu cứu tìm hiểu đề tài “ Phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn giao
thông”ở trường THCS” là một trong những bịên pháp đổi mới phương
pháp dạy học. Đó chính là lý do chính để tôi chọn đề tài nghiên cứu
này.
II/ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

Một số phương pháp dạy môn GDCD ở trường THCS
IV/ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
+ Các bài học thuộc chuyên đề “ Giáo dục an toàn giao thông” ở
trường THCS.
Sách giáo khoa GDCD 6 bài 14 - Thực hiện trật tự an toàn giao thông
Sách “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông” - NXB Giao thông vận tải.
+ Học sinh - Giáo viên trường THCS Phùng Hưng.
V/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Mét số phương pháp dạy môn GDCD 6
- Các bài học thuộc chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông” ở
trường THCS


- Thời gian nghiên cứu: Năm học 2004/2005 - 2005/2006
VI/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp đọc tài liệu
- Phương pháp khảo sát thực tiễn
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
B - PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
:

Cơ sở lí luận về việc phát huy tính tích cực
của học sinh trong dạy học chuyên đề “ Giáo
dục trật tự an toàn giao thông” ở trường
THCS.
Trong những năm gần đây. nghị quyết của ĐHĐCSVN và những văn
kiện chính thức khác đều nhấn mạnh rằng cần đổi mới phương pháp
giáo dục phổ thông cho phù hợp với sự phát triển mới của đất nước để
đào tạo ra những con người “Năng động, sáng tạo, có năng lực giải
quyết vấn đề”xứng đáng là “ Người lao động làm chủ nước nhà”, có
trình độ văn hoá cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội. Đó là những con người thông minh sáng tạo, có phẩm chất đạo
đức, tư tưởng tốt Con người như vậy phải được rèn luyện trong quá
trình được đào tạo và tự đào tạo. Mục tiêu đào tạo này đã chi phối nội
dung và phương pháp dạy học. Trong việc đổi mới phương pháp dạy
học, điều quan trọng nhất là phải phát huy tính tích cực của học sinh.

Việc dạy học được tiến hành trong một quá trình thống nhất, gồm
hai khâu có tác dụng tương hỗ cho nhau: Giảng dạy và học tập. Cả việc
giảng dạy và học tập đều là một quá trình nhận thức tuân theo những
qui luật nhận thức Nhận thức trong hoạt động dạy học được thực hiện

ở hoạt dộng của giáo viên và học sinh với việc truyền thụ và tiếp thu
một nội dung khoa học được qui định trong chương trình nhằm vào một
mục tiêu phù hợp với từng cấp học, với những phương pháp Dạy – Học
thích hợp, những phương tiện hình thức cần thiết để đạt kết quả nhất
định đã được đề ra.
Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức,
nhận thức thế giới xung quanh, nhưng được diễn ra trong những điều
kiện tổ chức sư phạm đặc biệt. Trong khi nhận thức thế giới khách
quan, người học sinh đều là chủ thể nhận thức – Phản ánh thế giới
khách quan bằng ý thức của mình, nắm được bản chất và các qui luật
của nó, biết cách vận dụng những qui luật đó để làm biến đổi và cải tạo
thế giới khách quan. Khi đó diễn ra những bước nhảy vọt từ nhận thức
lí tính sang nhận thức cảm tính. Hoạt động học tập chỉ có thể có hiệu
quả nếu học sinh học tập một cách tích cực thể hiện ở lòng mong muốn
hiểu biết ở sự chủ động và tự giác với một động cơ nhận thức đúng đắn sâu sắc. Hoạt động
nhận thức trong dạy học “lấy HS làm trung tâm”
làm chủ thể quá trình nhận thức với sự hướng dẫn, giúp đỡ giáo dục
tích cực có hiệu quả của giáo viên. Sự thống nhất và kết hợp dạy của
GV và HS đối với việc truyền thụ và tiếp thu một nội dung khoa học
đượcc qui định trong chương trình, nhằm vào một mục tiêu phù hợp
vứi từng cấp học với những phươpng pháp dạy học thích hợp những
phương tiện, hình thức cần thiết để đạt đựoc kết quả nhất định đã được
đề ra. Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức – nhận thức thế giới xung
quanh, nhưng được diễn ra trong những điều
kiện tổ chức sư phạm đặc biệt.
So sánh kiÓu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát
huy tính tích cực của học sinh chóng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ
bản So sánh cách dạy học truyền thống và cách dạy học phát huy tính tích cực, chúng ta nhận
thấy cách dạy học sau sẽ đem lại hiệu quả cao
hơn, tất nhiên nó cũng đòi hỏi GV và HS phải được “tích cực hóa”

trong quá trình dạy học, phải chủ động sáng tạo.
Học tập tích cực thể hiện ở thái độ suy nghĩ, tập chung, tìm tòi để hiểu sâu sắc điều cần học ở
líp, ở nhóm và khi tự học…ở thái độ bỏ qua
hay không bằng lòng với những điều chưa hiểu…
“ Phương pháp” dạy học tích cực thể hiện sự tự giác, chủ động sáng tạo
của người học, ở đây rất coi trọng vai trò của hoạt động của học sinh,
khích lệ tăng cường việc nhận thức của người học. Vì vậy trong quá
trình dạy học GV phải luôn phát huy tính tích cực, chủ động học tập
của học sinh trong mỗi tiết học.
Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh phù hợp với qui luật hoạt động của học tập vì đặc
điểm của học tập chính là tính tự giác, tích
cực và độc lập của người học. Không ai có thể học tập thay mình, muốn
học tập đạt hiệu quả, người học phải vận dụng tất cả các giác quan khác
nhau. đặc biệt các giác quan như thị giác, thính giác…
Trong dạy họcphát huy tính tích cực của HS, HS sẽ giữ vai trò tiếp nhận thông tin một cách
chủ động, qua đó có sự tìm tòi, khám phá
Giáo dục trật tự an toàn giao thông ở trường THCS p-6 các khía cạnh khác nhau thông tin, sắp
xếp lại thông tin và phát triển
thành những kĩ năng trong học tập của mình.
Kiểu dạy truyền thống Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh 1- GV cung
cấp kiến thức, HS ghi nhớ, học thuộc lòng là tiêu chí cho chất lượng giáo dục 1- GV cung cấp
những kiến thức cơ bản, được chọn lùa phù hợp với yêu cầu trình độ của HS, nhằm vào mục
tiêu đào tạo 2- GV là nguồn kiến thức duy nhất, phần lớn thời gian trên líp dùng cho GV giảng,
HS thụ động tiếp nhận kiến thức và ghi lại lời của GV. 2- Ngoài lời giảng của GV, HS được
tiếp xúc cã chọn lọc nhiều nguồn kiến thức khác nhau: Kiến thức đã học, trong SGK, tham
khảo, báo chí, truyền hình, intenet…từ thực tế cuộc sống. 3- HS chăm chỉ làm việc một mình
trên líp, ở nhà hoặc với GV khi kiểm tra. 3- HS làm việc, trao đổi, thảo luận với các bạn trong
tổ, líp. Đề xuất thắc mắc, ý kiến trao đổi với GV. 4- Việc dạy học thành từng bài, mục độc lập,
rời rạc. HS chỉ nắm được vấn đề đang học. 4- Các vấn đề được đặt ra trong một hệ thống có
quan hệ hữu cơ với nhau. Kiến thức bài trước đặt cơ sở cho việc tiếp thu kiến thứcbài sau, củng

cố kiến thức đã họcvà chuẩn bị cho bài mới. 5- Các môn học chỉ dừng lại ở câu hỏi, bài tập,
thực hành một cách thụ động. Việc đánh giá kết quả học tập được đo lường bằng trí nhớ 5-
Ngoài câu hỏi kiểm tra thực hành, HS tự đặt vấn đề, câu hỏi để trình bày, trao đổi, được nêu ý
kiến riêng của mình. KÕt quả học tập được đánh giá bằng trình độ hiểu biết của HS, đòi hỏi HS
phải tư duy, lập luận. 6- Việc học lí thuyết rất Ýt khi được gắn với thực hành, nhất là với các
môn khoa học xã hội. 6- Việc dạy HS nắm vững lí thuyết để nâng cao trình độ nhận thức cho
HS… làm cơ sở để vận dụng những kiến thức đã học vào thực hành ( bé môn và cuộc sống )
Qua đó củng cố thêm kiến thức đã học. 7- Nguồn kiến thức thu được của HS rất hạn hẹp,
thường giới hạn trong bài giảng theo SGK, TK… 7- Nguồn kiến thức của HS rất phong phú, đa
dạng: Lời nói, tài liệu viết, đồ dùng trực quan, thực
Giáo dục trật tự an toàn giao thông ở trường THCS p-7 tế cuộc sống…phù hợp với yêu cầu,
trình độ học tập.
Dạy học nâng cao tính tích cực của học sinh sẽ đảm bảo hiệu quả
toàn diện về chất lượng tiếp thu kiến thức của học sinh. Học sinh sẽ
phát huy được các phẩm chất đạo đức cá nhân như tính kiên trì, lòng
nhẫn nại, tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể…
Trong nhiều năm qua vẫn tồn tại hai khuynh hướng chính:
+ Mô hình lấy GV làm trung tâm, nhấn mạnh đến vai trò quyết
định của GV, lấy GV là chủ thể đặc quyền cung cấp thông tin, tri thức,
đánh giá học sinh…qua đó dẫn tới quan niệm HS là phụ chỉ, thụ động
ghi chép, học thuộc lòng và lặp lại các điều đã nghe, đã chép…Quan
niệm này dẫn đến phương pháp độc giảng của GV trên líp, đến việc
mất dân chủ trong việc đánh giá kiến thức của HS trên líp, dẫn tới HS
có tình trạng thụ động, không phát triển trí thông minh, sáng tạo, thui
chột những tài năng đáng lẽ được vun trồng từ trường phổ thông.
+ Mô hình lấy HS làm trung tâm trong quá trình dạy và học:
GV chỉ có vai trò hướng dẫn, tổ chức, trọng tài, cố vấn cho HS tự
học và tự hợp tác học tập với các bạn khác, điều này phát triển được
tính tích cực của HS, các em nhận thức được vai trò chủ yếu và đảm
nhận được trách nhiệm của mình trong học tập.

HS phải là trung tâm trong quá trình dạy học, phải tự nhận thức
trong mọi hoạt động, tư duy quan hệ giữa GV – HS được thể hiện
trong việc GV giúp HS tự nhận thức bằng trí lực của mình một cách
vững chắc, có hiệu quả cao. HS tích cực chủ động học tập bằng hoạt
động của mình.
Quan niệm lấy“ học sinh làm trung tâm“ và thực chất là phát huy
tính tích cực của người học. Điều này hoàn toàn phù hợp với mục tiêu
giáo dục thời kì đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó ảnh
hưởng, tác động đến nội dung và phương pháp dạy học, đặc biệt mèi
quan hệ giữa nội dung và phương pháp trong việc phát huy tính tích
cực của HS, chi phối các hình thức và tổ chức dạy học. Như Đ/c Phạm
Văn Đồng đã khẳng định: “ Phương pháp dạy học mà các đồng chí nêu
ra, nói gọn lại là lấy người học làm trung tâm nói cho cùng phương
pháp này là tích cực. Sự tích cực này thể hiện nó có chiều sâu, nó tạo
cơ hội cho người học, tức là trung tâm, phát huy được trí tuệ, tư duy,
óc thông minh của mình Điều thứ hai của phương pháp này là giúp
cho người ta phương pháp tự học và lòng ham học. Đó là cái quý
nhất.”( Phạm Văn Đồng, Phương pháp tự học và lòng ham học. Đó là
cái quý nhất, báo Nhân Dân, số ra ngày 18/11/1994 )
Trong hoạt động dạy học môn GDCD và chuyên đề “ Giáo dục
trật tự an toàn giao thông ” nói riêng ở trường THCS chất lượng giáo
dục chưa cao, trong giê học vẫn còn tồn tại cách truyền đạt kiến thức
một chiều của GV, cách tiếp thu bài học thụ động của HS nên các em
vẫn chưa hiểu hoặc chưa tự giác thực hiện thật triệt để những qui định
của bộ luật an toàn giao thông. Điều đó chứng tỏ HS thiếu kiến thứccơ
bản về pháp luật và chưa được hình thành kĩ năng xử lí các tình huống
khi tham gia giao thông, do đó HS còn có những hành vi vi phạm
những qui định cơ bản về trật tự an toàn giao thông như: Vượt đèn đỏ,
đi vào đường một chiều, đi xe đạp dàn hàng ngang từ ba đến bốn
người, điều khiển phương tiện giao thông lạng lách đánh võng trên

đường Những hành vi sai phạm trên là kết quả của sự thiếu hiểu biết
hoặc chưa tự giác thực hiện những cơ bản của luật giao thông đường bộ
nói chung và hệ thống báo hiệu giao thông đường bộ nói riêng. Cho
nên có nhiều vụ TNGT ở lứa tuổi học đường vẫn thường xuyên xảy ra,
gây nên những thiệt hại to lớn về người và của Đau thương hơn là
những vụ tai nạn Êy gây mất mát cho gia đình và xã hội Vì vậy, việc
đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực của
HS trong dạy học chuyên đề: “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông “
càng trở thành một nhu cầu rất quan trọng và cấp thiết đối với bé môn
GDCD trong trường THCS.
CHƯƠNG II
Thực trạng của việc dạy học chuyên đề “ Giáo dục
trật tự an toàn giao thông “ ở trường THCS
VÒ phân phối chương trình chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn
giao thông” ở trường THCS:
Líp 6: 4Tiết / 35 tiết
Líp 7: 2 Tiết / 35 tiết
Líp 8: 2 Tiết / 35 tiết
Líp 9: 2 Tiết / 35 tiết
GV thiết kế hoạt động dạy và học theo những tài liệu sau:
- SGK GDCD 6 – NXB Giáo dục: Bài 14- Thực hiện trật tự an toàn
giao thông ( 2tiÕt )
- Sách “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông” - NXB Giao thông vận tải
Bài học: Trật tự an toàn giao thông ( Bài 1 ) Líp 7,8,9
Chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông” là một bộ phận
của chương trình GDCD ở cấp THCS. Theo phân phối chương trình,
các líp 6,7,8,9 có 2 tiết học chuyên đề này và được tiến hành ngay 2
tuần đầu tiên của năm học mới.
Thực tế việc dạy và học môn GDCD và chuyên đề “ Giáo dục trật
tự an toàn giao thông” ở trường THCS còn nhiều khó khăn và hạn chế

nên hiệu quả còn thấp, số tiết dạy chuyên đề về giao thông còn Ýt, bài
dạy về pháp luật còn khô khan, nặng nề, Ýt gây hứng thó cho học sinh,
chưa mang đến cho các em những điều bổ Ých rõ rệt. Do đó hiệu quả
giáo dục thấp, Ýt tranh ảnh minh họa cho bài dạy… Vì vậy đòi hỏi GV
cần đầu tư nhiều công sức cho bài soạn. Bên cạnh đó, môn GDCD nói
chung và chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông” nói riêng từ
trước tới nay bị xem nh- môn học phụ, có vai trò thứ yếu và mờ nhạt
trong nhà trường.

Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ
yếu là nhận thức của GV và cán bộ quản lí giáo dục về tầm quan trọng
của môn GDCD chưa đầy đủ. Ngoài ra còn một số khó khăn khác như
GV dạy GDCD là không chuyên nên có rất nhiều khó khăn lúng túng
về phương pháp, xem nhẹ vai trò, vị trí của môn học nên chưa chú
trọng đầu tư công sức, thời gian để dạy tốt môn này. Bên cạnh đó trang
thiết bị, phương tiện và các điều kiện khác phục vụ dạy học còn nhiều
thiếu thốn, chương trình, SGK và các tài liệu phục vụ dạy học lạc hậu,
còn nhiều bất cập chưa theo kịp sự đổi mới của yêu cầu xã hội và nhu
cầu của người học…

Đặc biệt trong hoạt động dạy môn GDCD nói chung vẫn còn tồn
tại phương pháp giáo dục cũ, cụ thể như thầy đọc, trò chép… biến giáo
viên thành người thuyết trình bài dạy, HS trở thành cái máy tiếp nhận
kiến thức một cách thụ động máy móc. GV truyền đạt một chiều, chưa
phát huy được khả năng tích cực chủ động, sáng tạo của HS. Vì vậy
hiệu quả chưa cao. GV và HS chưa thực hiện được đổi mới phương
pháp dạy học nhằm thực hiện mục tiêu

giáo dục mà Đảng và nhà nước
đã đề ra. Mỗi giê dạy chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông”

chưa thực sự thu hót và hấp dẫn sự quan tâm của HS. Mục tiêu của tiết
học là giáo dục cho HS những qui định cơ bản của luật giao thông
đường bộ, hình thành ở các em những kĩ năng xử lí tình huống khi
tham gia giao thông và ý thức tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh luật
giao thông chưa được thực hiện đầy đủ. Do đó vẫn còn tình trạng HS vi
phạm luật giao thông khi đi trên đường như: Vượt đèn đỏ, không chấp
hành biển báo, hiệu lệnh, tín hiệu giao thông…
Hậu quả của các hành vi sai phạm Êy là chính các em trở thành những
nạn nhân của các tai nạn giao thông, gây những tổn thất đau thương,
mất mát cho gia đình các em và xã hội. Một thực tế đáng báo động là
phần lớn các em bị TNGT trong tình huống đang trên đường đi học
hoặc về nhà; Đó là giê cao điểm khi mật độ người và các phương tiện
tham gia giao thông rất đông trên đường phố. Chỉ một hành vi vi phạm
trật tự an toàn giao thông là có thể sẽ gây ra TNGT.

Thực trạng đó đòi hỏi phải có yêu cầu đặt ra là đổi mới phương
pháp dạy học môn GDCD nói chung và chuyên đề “ Giáo dục trật tự an
toàn giao thông” ở trường THCS nhằm nâng cao chất lượng của môn
học, làm cho mỗi giê dạy GDCD trở nên hấp dẫn, có tác dụng tích cực
đến HS và thực sự có tác dụng đối với các em, qua đó các em sẽ chấp
hành tốt pháp luật và cùng nhau thực hiện tèt luật giao thông.

CHƯƠNG III

Những biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích
cực của học sinh trong dạy học chuyên đề “ Giáo
dục trật tự an toàn giao thông” ở trường THCS
I/ NHỮNG YÊU CẦU CHUNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA
HỌC SINH TRONG DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ “ GIÁO DỤC

TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG” Ở TRƯỜNG THCS

Hiện nay có rất nhiều phương pháp dạy họ, GV có thể lùa chọn,
sử dụng trong thực tiễn dạy học của mình. Việc lùa chọn và

sử dụng
đúng đắn các phương pháp dạy học có ý nghĩa to lớn với việc phát huy
tính tích cực của học sinh, đối với chất lượng và hiệu quả của dạy học.
Việc lùa chọn và sử dụng phương pháp dạy học phụ thuộc vào nội dung
và mục tiêu bài học, vào đặc điểm của từng phương pháp. Không
phương pháp nào là vạn năng trong hoạt động dạy học. Vì vậy GV cần
phối hợp một cách khoa học, khéo léo và hợp lí các phương pháp dạy
học khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất.

II/ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG CÁC HỆ THỐNG CÂU HỎI
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG
DẠY HỌC CHUYÊN ĐỀ “ GIÁO DỤC TRẬT TỰ AN TOÀN
GIAO THÔNG” Ở TRƯỜNG THCS

Để sử dụng tốt hệ thống các câu hỏi trong quá trình dạy học,
chúng ta cần lưu ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất:
Câu hỏi và bài tập cần vừa sức, phù hợp với từng đối tượng
học sinh, không nên có những câu hỏi quá khó, vượt khả năng tư duy
của các em, các câu hỏi phải tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, có mối
quan hệ logic chặt chẽ, làm nổi bật chủ đề, nội dung, tư tưởng của bài.
Thứ hai:
Cần triệt để khai thác nội dung các câu hỏi trong SGK để lùa
chọn nội dung, phương pháp thích hợp cho từng bài cụ thể; Kết hợp với
câu hỏi được sáng tạo trong quá trình soạn giảng của GV phải đảm bảo

tính khoa học, tính tư tưởng, đồng thời phát huy được tư duy, rèn luyện
được kĩ năng học tập của HS. Hệ thống câu hỏi phù hợp sẽ phát huy
được trí thông minh, năng lực tư duy sáng tạo trong hoạt động học tập
của HS.

Vào đầu giê học, GVcó thể kiểm tra kiến thức bài cũ, trước khi
cung cấp kiến thức của bài mới. GV nên đặt ngay câu hỏi có tính chất
định hướng cho nhận thức của HS, câu hỏi này là có tính chất bai tập,
muốn trả lời nó phải huy động kiến thức của từng bài, qua đó đã xác
định rõ ràng nhiệm vụ nhận thức của HS trong giê học, và hướng HS
vào những kiến thức trọng tâm của bài, huy động tối đa các giác quan
của HS trong quá trình học tập: Nghe, nhìn, kết hợp với tư duy có định
hướng. Đương nhiên khi đặt câu hỏi GV không yêu cầu HS trả lời ngay
mà sau khi GV cung cấp đủ tư liệu mới yêu cầu các em trả lời.

Xuất phát từ những yêu cầu trên, trong dạy học môn GDCD nã
chung và dạy học chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn giao thông” nói
riêng chúng ta thường có các phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi
sau:
1/ Câu hỏi đặt trong tình huống giả định
: Đây là kiểu đặt câu hỏi
đưa HS vào tình huống giả dịnh để các em giải quyết vấn đề một cách
khoa học và hợp lí nhằm phát huy vai trò chủ thể sáng tạo của các em.
Kiểu câu hỏi này thường được GV nêu ra sau khi cho HS quan sát một
tình huống. Để trả lời câu hỏi đó HS phải nắm vững kiến thức về pháp
luật.Qua đó rèn luyện cho các em thái độ tự tin trước những tình huống
có vấn đề trong cuộc sống đời thường mét cách thông minh, chủ động,
tích cực, biết cách bảo vệ chính kiến của bản thân một cách đúng đắn,
đồng thời phát triển tư duy khoa học.
2/ Câu hỏi phát hiện:

Đây là kiểu câu hỏi HS thường phát hiện ngay
trong câu trả lời của nội dung bài học hoặc quan sát được dùa vào
thông tin tình huống, hình vẽ, biểu đồ, bảng thống kê số liệu…trong
SGK hoặc do GV cung cấp. Kiểu câu hỏi này không khó nên GV
thường dành cho đối tượng TB, khá.
3/ Câu hỏi giải thích
: Câu hỏi này thường bắt đầu bằng những từ ngữ
“ Vì sao, tại sao ”…nhằm phát huy trí thông minh, khả năng tư duy
trừu tượng, khái quát…nhằm lí giải nội dung một cách khoa học, hợp lí
của HS.
4/ Câu hỏi nêu nhận xét, đánh giá:
Đây là câu hỏi được nêu ra
nhằm phát huy khả năng nhạn xét, đánh giá vấn đề một cách khoa học
của HS, qua đó phát huy khả năng sáng tạo, tư duy khoa học cho các
em. Kiểu câu hỏi này tương đối khó nên GV thường dành cho đối
tượng học sinh khá giỏi.
5/ Câu hái lùa chọn:
Kiểu câu hỏi này yêu cầu HS phải lùa chọn đáp
án đúng khi GV nêu ra nhiều đáp án khác nhau, loại câu hỏi này thường
đi kèm với câu hỏi giải thích. Nó sẽ giúp các em phát huy sự tự tin khi
đứng trước một sự lùa chọn trong cuộc sống và rèn kĩ năng biết cách
bảo vệ ý kiến của bản thân một cachs khoa học, hợp lí.
Khi dạy bài “ Thực hiện trật tự an toàn giao thông” ( Tiết 1 ) (
Bài 14- SGK GDCD 6 ) để tìm hiểu nội dung bài học, GV đã thiết kế
một hệ thống câu hỏi để định hướng tư duy cho học sinh nh- sau:
Câu hỏi đặt trong tình huống giả định:
1/ Nếu là cảnh sát giao thông, em sẽ xử phạt hành vi vượt đèn đỏ và
đi ngược chiều của người tham gia giao thông trong tình huống trên
như thế nào?
2/ Nếu là cảnh sát giao thông, em sẽ xử phạt hành vi sai phạm của

anh Dũng và bạn Mai nh- thế nào?
Câu hỏi phát hiện:
1/ Nguyên nhân nào dẫn đến cái chết thương tâm của 9 thanh niên ở
Vũng Tầu và của tay đau H ở TP HCM?
2/ Qua các phương tiện thông tin đại chúng, em hãy cho biết những
nguyên nhân nào khác cũng gây TNGT?
3/ Khi đi đường ta phải chú ý điều gì?
4/ Hệ thống báo hiệu đường bộ gồm những gì?
5/ Qua đoạn băng hình trên, người cảnh sát giao thông đã thực hiện
những động tác hiệu lệnh nào?
6/ Có mấy loại biển báo giao thông? Hãy nêu đặc điểm riêng của
từng loại biển báo?
7/ Khi tham gia giao thông em thường gặp những tín hiệu đèn giao
thông nào? Khi những tina hiệu Êy bật sáng, em phải chú ý điều gì?
8/ Trong tình huống giao thông ( HS quan sát trên băng hình), người
tham gia giao thông có hành vi nào vi phạm quy định về trật tự an
toàn giao thông?
Câu hỏi giải thích:
Vì sao hành vi đua xe máy trái phép của những thanh thiếu niên
trong tình huống trên là hành vi mà cả xã hội lên án?
Câu hỏi nhận xét đánh giá:
1/ Em có nhận xét gì về số vụ TNGT, số người chết và bị thương do
TNGT ở nước ta trong những năm qua?
2/Qua những hình ảnh các vụ TNGT, em có nhận xét gì về mức độ
thiệt hại do TNGT gây ra cho người và của?
Câu hái lùa chọn đáp án:
Trong hai nhóm nguyên nhân chủ quan và khách quan gây TNGT,
nhóm nguyên nhân nào là chủ yếu? Hãy giải thích tại sao?
III/ PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN NHẰM
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HS TRONG DẠY HỌC

CHUYÊN ĐỀ “ GIÁO DỤC TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO
THÔNG” Ở TRƯỜNG THCS.
Đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham
gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ các hệ thống tín hiệu với
nhau: tai nghe, mắt thấy…tạo điều kiện cho HS dễ hiểu, nhớ lâu, phát
triển ở HS năng lực ý chí quan sát, hứng thú…
1/ Phương pháp sử dụng tranh ảnh, băng hình, ghi âm tư liệu

Từ xa xưa, ông cha ta đã đúc kết kinh nghiệm “ Trăm nghe không
bằng một thấy”, cho đến bây giê câu tục ngữ Êy vẫn nguyên vẹn giá trị,
nhất là trong hoạt động dạy học. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi
mà Bộ GD - ĐT đang tiến hành đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng lấy HS làm trung tâm thì việc phát huy tính tích cực của HS
trong bộ môn GDCD nói chung và chuyên đề “ Giáo dục trật tự an toàn
giao thông” nói riêng càng trở nên cấp thiết.

Tranh, ảnh, hình vẽ, băng tư liệu…là một phần của đồ dùng trực
quan trong quá trình dạy học, nó có ý nghĩa rất to lớn, không chỉ là
nguồn kiến thức mà còn phát triển tư duy cho HS. Từ việc quan sát, HS
sẽ đi tới công việc tư duy trừu tượng, thông qua miêu tả tranh ảnh, băng
hình… HS được rèn luyện sử dụng kĩ năng ngôn ngữ, giao tiếp…Qua
đó các em có khả năng xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những
nhận xét mang tính khái quát cao. Nhờ những việc làm nh- vậy mà các
thao tác tư duy được rèn luyện thường xuyên, khả năng phát huy trí
thông minh, sáng tạo của HS ngày càng nâng lên.

Trong bài dạy “ Thực hiện an toàn giao thông” GV đã sưu tầm và
sử dụng nhiều tranh ảnh tài liệu về các vụ TNGT, đoạn băng hình chụp
về các hành vi vi phạm của người tham gia giao thông tại các ngã ba,
ngã tư…trên địa bàn TP Sơn Tây và trò chơi do các em HS trường

THCS Phùng Hưng thực hiện làm giáo cụ trực quan để phát huy tư duy
cho HS.
Thông qua các bức ảnh Êy, HS đã phần nào quan sát lại được hậu
quả của các vụ TNGT. Điều đó đã thực sự gây Ên tượng mạnh mẽ đối
với các em. Dường nh- các em đã được chứng kiến tận mắt tính chất
thảm khốc kinh hoàng đe dọa cuộc sống bình yên của con người. Các
em sẽ hiểu rằng TNGT không loại trừ mét ai nếu người đó không tuân
thủ luật giao thông. Từ đó HS đã rót ra được kết luận về tính chất ngày
càng nghiêm trọng, mức độ thiệt hại ngày càng lớn về người và của
trong các vụ tai nạn giao thông.
Để làm phong phú và gây hứng thó cho HS, trong bài dạy GV
nên sử dụng các bài hát có chủ đề về an toàn giao thông như “ Từ một
ngã tư đương phố” làm nhạc nền cho trò chơi “ Ai thông minh hơn – Ai
hiểu biết hơn”
2/ Sử dụng biểu đồ, bảng thống kê số liệu;

Những bảng thống kê số liệu được trích dẫn trong bài giảng sẽ là
những minh chứng có tính thuyết phục, sinh động về cuộc sống. Có tác
dụng rất lớn so với những lí thuyết chung chung. Trong bài 14 “ Thực
hiện trật tự an toàn giao thông”( GDCD 6 ) những con số về số vụ
TNGT ở nước ta qua các năm là một minh chứng sống động nhất để
HS có thể rót ra trọng tâm của bài học, đó là: “ Số vụ TNGT, số người
chết và bị thương do TNGT ngày càng tăng ở nước ta”

×