Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.86 KB, 37 trang )

Tiểu luận Triết học
LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi
con người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực, tu dưỡng rèn luyện
phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu
cầu của sự biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với
những mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
hiện nay, con người và nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng
đầu, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước
ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu
cầu về con người và nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế
nói chung. Chúng ta khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực
của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và
đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng
tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản
thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn đề cốt lõi là ta phải thực hiện chiến lược giáo
dục đào tạo nguồn nhân lực, phát triển con người một cách toàn diện cả thể
lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của giáo dục đào tạo là đưa con người đạt đến
những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối
với con người Việt Nam để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong thời kỳ quá độ của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế
nói chung trên thế giới. Vì vậy chúng em đã quyết định chọn đề tài: “Nhân
tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến lược đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao” cho báo cáo tiểu luận môn học của
mình.
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
1
Tiểu luận Triết học
Đề tài của chúng em gồm:
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM LỰC LƯỢNG SẢN XUẨT VÀ VAI TRÒ


NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN
XUẨT.
CHƯƠNG 2: CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN
Trong thời gian thực hiện đề tài được sự chỉ bảo tận tình của cô giáo
Th.S Nguyễn Thị Hồng Vân, cùng với sự giúp đỡ của các bạn trong lớp
cũng như sự nỗ lực của bản thân, chúng em đã cố gắng hết mình để hoàn
thành đề tài. Song do kiến thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu, nên việc
báo cáo không thể tránh được thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự
đóng góp của cô và các bạn để đề tài của chúng em được hoàn thiện hơn.
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
2
Tiểu luận Triết học
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI
TRÒ NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT.
1.1. Khái niệm lực lượng sản xuất.
1.1.1. Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật được sử
dụng trong các quá trình sản xuất của xã hội tức là trong quá trình con người
cải tạo, cải biến giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển
của mình.
Như vậy, xét về mặt tính chất thì khái niệm lực lượng sản xuất, nó
phản ánh một số tính chất căn bản sau:
Trước hết, nó phản ánh quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất. Là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn loài, con
người là sản phẩm của quá trình phát triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên.
Con người phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời
sống tự nhiên như thức ăn, thức uống, nhà để ở. Theo một số nhà nhân học

khẳng định nhánh người bắt đầu hình thành rõ cách đây khoảng 10 triệu năm
bắt đầu từ “vượn người ”. Khi đó vượn người đã biết sử dụng gậy gộc, đá,
xương động vật làm công cụ và bắt đàu biết chế tạo công cụ lao động thô sơ
cũng như dùng lửa. Nhưng cuộc sống của loài vượn vẫn theo quy luật sinh
vật, sống hoà lẫn vào thiên nhiên, sinh sống hoàn toàn tuỳ theo bản năng vốn
có trong cơ thể và những thứ sẵn có trong tự nhiên, có thể nói là hoàn toàn
phụ thuộc vào tự nhiên.Theo thời gian vượn người tiến hoá thành người
khéo, người đứng thẳng, người khôn và con người hiện đại ngày nay. Nhưng
sự tiến hoá ấy không làm thay đổi mối quan hệ mật thiết giữa con người với
tự nhiên. Ngày nay, con người vẫn đang chinh phục tự nhiên bằng nhiều
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
3
Tiểu luận Triết học
hình thức và phương pháp khác nhau. Như vậy, ngay từ thời kỳ sơ khai nhất,
con người đã biết dựa vào những thứ vốn có trong tự nhiên để cải biến nó
theo nhu cầu sinh tồn và phục vụ nhu cầu sống của mình. Do đó ta thấy rõ
một sự thật tất yếu khách quan là con người không thể tồn tại nếu không có
mối quan hệ mật thiết, gắn kết chặt chẽ với tự nhiên.
Đồng thời nó cũng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con
người cụ thể hơn là biểu hiện mức độ, khả năng chinh phục tự nhiên của con
người.
Trong thời nguyên thuỷ con người chỉ mới sử dụng những công cụ hết
sức thô sơ, hầu hết là những công cụ thủ công vào quá trình lao động sản
xuất. Do đó năng suất lao động thấp kém, con người chưa tạo ra nhiều của
cải dư thừa có khả năng trao đổi với nhau phục vụ nhu cầu sống hết sức sinh
động, phong phú của mình. Điều đó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên
vẫn còn non thấp kém. Cho đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ,
chế độ phong kiến, con người đã dần sáng tạo ra các công cụ lao động tiến
bộ hơn song về bản chất nó vẫn mang tính thủ công. Do vậy, mặc dù sản
phẩm lao động làm ra ngày một phong phú hơn song trong quá trình lao

động sản xuất vẫn còn dựa vào sức người - mặt thể lực là chính, cần nhiều
thời gian và quan trọng hơn vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa
dạng của con người. Sang chế độ tư bản chủ nghĩa, con người đã tạo ra hàng
loạt những máy móc hết sức hiện đại để phục vụ vào quá trình lao động sản
xuất, khai thác tài nguyên thiên nhiên, cải biến nó thành những vật dụng và
sản phẩm có giá trị, chất lượng cao, phong phú về hình thức, đa dạng về
chủng loại, mẫu mã. Đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra bắt đầu từ
thế kỷ XVII suốt cho đến ngày nay đã nhanh chóng làm biến đổi bộ mặt
kinh tế xã hội của thế giới. Theo đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen: “chỉ
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
4
Tiểu luận Triết học
sau hơn hai thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một khối kượng của cải
vật chất nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”. Như thế trình độ chinh
phục tự nhiên của con người đã bước lên một mốc son mới, đánh dấu một
bước phát triển cao của tiến bộ loài người. Cũng chính trong giai đoạn này
con người đã dần dần chiếm thế chủ động trong quá trình lao động sản xuất.
Mặt khác, lực lượng sản xuất có tính khách quan trong quá trình sản
xuất. Thật vậy không có một quá trình sản xuất nào mà lại không cần đến
sức lao động của con người hay những yếu tố sẵn có trong tự nhiên. Nói
cách khác trong quá trình sản xuất vật chất không thể không cần đến lực
lượng sản xuất.
1.1.2 .Cấu trúc lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động
trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất
ra của cải vật chất.

Lực lượng sản xuất bao gồm nhiều nhân tố cụ thể nhưng thường được
phân tích thành 2 nhóm nhân tố: người lao động với kỹ năng lao động của
họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản
xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao
động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “ Lực lượng sản xuất hàng
đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là con người lao động” ( V.I. Lênin:
Toàn tập, nxb.Tiến bộ, Matxcova, 1977, trang 38, trang 430). Chính con
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
5
Tiểu luận Triết học
người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và
kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ
lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của
con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không
ngừng phát triển, hàm lượng trí tụê của lao động ngày càng cao. Ngày nay
với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tụê ngày càng đóng
vai trò chính yếu.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là 1 yếu tố cơ bản
của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất.
Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “ Sức mạnh của tri thức đã
được vật thể hoá”, nó “ nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao
động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất.
Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế
kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính
sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng, công cụ lao động đã làm biến đổi
toàn bộ tư liệu sản xuất, xét đến cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến
đổi xã hội.
Trước kinh tế tri thức, sự phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện ở

hai mặt :
• Trí lực đóng vai trò chủ đạo, tức là sẽ xuất hiện một tầng lớp lao động
trí óc đông đảo hợp thành chủ thể trong đội ngũ những người lao
động.
• Những nhân tố mới thúc đẩy lực lượng sản xuất sẽ được phát triển
rộng khắp.
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
6
Tiểu luận Triết học
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con
người không thể sản xuất vật chất mà không cần đến những yếu tố sẵn có
trong tự nhiên như đất, nước, khoáng sản, không khí, … Đó chính là những
đối tượng lao động. Đặc trưng nổi bật của công cụ sản xuất và đối tượng lao
động biểu hiện chủ yếu ở sự gia tăng hàm lượng khoa học và công nghệ,
cuối cùng là hàm lượng tri thức được kết tinh trong sản phẩm ngày càng
nhiều.
Còn tư liệu lao động là những phương tiện, công cụ lao động mà con
người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, sản xuất ra của cải vật
chất. Thông qua các công cụ của họ đã chứng tỏ họ có hoạt động lao động
và đây cũng chính là ranh giới tách người ra khỏi giới sinh vật nói chung,
thế giới động vật nói riêng.
1.1.3. Tính chất đặc biệt của lực lượng sản xuất hiện đại.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò
ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển
đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản
xuất, trong đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời
những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới
nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa

học vào sản xuất, cụ thể là vào người lao động và tư liệu sản xuất, trở thành
một yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất đã làm cho lực lượng sản
xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại.
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
7
Tiểu luận Triết học
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại
không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Như
vậy, dù không phải là yếu tố thứ ba của lực lượng sản xuất nhưng có thể nói
khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
1.2. Vai trò của con người trong lực lượng sản xuất
1.2.1. Khái niệm con người.
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ
thời cổ đại đến hiện đại. Trong đó quan niệm của triết học Mác-Lênin về
con người và bản chất con người, xuất phát từ giác độ khái quát nhất, đứng
trên lập trường duy vật biên chứng, làm cơ sở phương pháp luận cho việc
giải quyết những vấn đề khác của con người, có thể nói là đúng đắn nhất cho
tới ngày nay.
Trước hết con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với
mặt xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản
phẩm của thế giới tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên.Con
người không thể tồn tại mà thoát ly khỏi quá trình tất yếu đó là sinh ra, phát
triển rồi chết đi. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn
thành người điều đó được chứng minh trong các công trình nghiên cứu của
Đác-uyn. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý,
các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của cá nhân con
người.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản

chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới
loài vật là mặt xã hội. Thông qua hoạt động lao động sản xuất con người sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình hình thành
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
8
Tiểu luận Triết học
và phát triển ngôn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động
là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người đồng thời hình
thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác nhau
nhưng thống nhất với nhau. Chúng cùng tác động, tạo nên thể thống nhất
hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã
hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về
sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở,
nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu
hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Như vậy ta thấy rõ mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
người còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con người với
loài vật. Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo nên con người tự nhiên- xã
hội hay một thực thể song trùng.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người Mác đã nêu trong luận
đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “Bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”.
Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau: quan
hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và chính bản thân con người, suy
đến cùng đều mang tính xã hội. Nhưng có thể nói quan hệ giữa con người
với con người là quan hệ bản chất nhất bao trùm lên các mối quan hệ khác.
Thực tế lịch sử đã chứng minh không có một cá nhân nào có thể tự đáp ứng

đầy đủ nhu cầu của bản thân cũng như không thể lao động một cách độc lập
tuyệt đối để sản xuất vật chất mà phải liên kết lại với nhau, phân công lao
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
9
Tiểu luận Triết học
động và trao đổi sản phẩm cho nhau. Từ đó hình thành các quan hệ xã hội,
điều chỉnh và chi phối hoạt động, hành vi của con người. Chỉ trong toàn bộ
các mối quan hệ đó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất của mình. Trong
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người sản xuất ra của cải vật chất đồng thời hoàn thiện bản thân mình.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có giới tự
nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy con
người là sản phẩm của lịch sử. Song điều quan trọng là con người luôn luôn
là chủ thể của lịch sử - xã hội.
Con người sáng tạo ra lịch sử, nhưng không bao giờ sáng tạo ra lịch
sử trong những hoàn cảnh và điều kiện được lựa chọn, mà trong hoàn cảnh
và điều kiện sẵn có do quá khứ để lại. Do đó ta phải luôn chú ý tới mối quan
hệ hai chiều giữa hiện tại và quá khứ, đặc biệt là môi trường sống của con
người. Thông qua môi trường sống con người có sự tác động qua lại lẫn
nhau thực hiện các quan hệ xã hội tạo nên bản chất người, làm cho con
người khác với con vật.
1.2.2. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định lực lượng sản
xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng
đầu của toàn thể nhân loại là công nhân là người lao động”. Con người là
nhân vật chính của lịch sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã
hội. nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật
chất và tinh thần, sáng tạo và hoàn thiện ngay chính bản thân mình đồng thời
vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vô giá ấy. Trên phương
diện đó vai trò nhân tố con người lao động trong lực lượng sản xuất là yếu tố

động nhất sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhân tố trung tâm của con
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
10
Tiểu luận Triết học
người chính là sức lao động bao gồm thể lực và trí lực. Không có người lao
động nào trong quá trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao đông thể
lực hay lao động cơ bắp. Chính những người lao động là chủ thể của quá
trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng
tư liệu lao động trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao
động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất,
sức mạnh và kỹ năng lao động của con người không ngừng được tăng lên,
đặc biệt là trí tuệ của con người ngày càng phát triển. Trong quá trình đó
không những con người sử dụng trí tuệ nội tại của mình mà còn được kế
thừa những kinh nghiệm qua học hỏi lẫn nhau giữa những người lao động
cho nên có thể nói kinh nghiệm cũng là một lực lượng sản xuất. Kinh
nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng và cao hơn nữa nó có thể trở
thành tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
Lực lượng sản xuất bao gồm các nhân tố: người lao động và tư liệu
sản xuất, trong đó nhân tố người lao động giữ vai trò quyết định trong lực
lượng sản xuất. Sở dĩ như vậy vì:
Một là: Mỗi quá trình sản xuất muốn thực hiện được cần đủ 2 điều
kiện: Tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu
lao động và đối tượng lao động, đây là 2 nhân tố không thể thiếu của quá
trình sản xuất. Sản phẩm muốn tạo ra còn phải có tư liệu sản xuất nhưng nếu
con người không tác động sức lao động của mình vào tư liệu sản xuất thì quá
trình sản xuất không thể thực hiện được. Như vậy sản xuất không thể tiến
hành nếu không có tư liệu sản xuất, nhưng nếu không có tư liệu lao động của
con người thì tư liệu sản xuất cũng không phát huy tác dụng.
Hai là: Tất cả các nhân tố khác trong lực lượng sản xuất đều là sản
phẩm lao động của con người, là sự kết tinh năng lực lao động của họ. Tất cả

Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
11
Tiểu luận Triết học
tư liệu sản xuất dù là tư liệu lao động hay đối tượng lao động đã qua chế
biến đều là sản phẩm lao động của con người, là sự sáng tạo của con người.
Ba là: Những nhân tố khác chỉ có ý nghĩa là lực lượng sản xuất khi nó
được người lao động sử dụng vào quá trình sản xuất nhất định. Đúng vậy,
công cụ lao động dù thô sơ hay hiện đại, đối tượng lao động dù giản đơn hay
phức tạp nhưng nếu không có sự tác động về sức lao động của con người
vào thì nó cũng chỉ là những “ vật vô tri, vô giác”, không thể có sản phẩm
như mong muốn. Một ví dụ đơn giản, để sản xuất ra 1 cái bàn, 2 thợ mộc cần
sử dụng những công cụ lao động như cưa, bào… tác động vào đối tượng lao
động là gỗ… Bằng việc tác động sức lao động của mình qua các thao tác, 2
người thợ mộc đã tạo ra sản phẩm là cái bàn. Nhưng nếu 2 người thợ mộc
không tác động sức lao động của mình vào cái cưa, bào…không tác động
vào gỗ thì nó mãi vẫn chỉ là cái cưa, cái bào, khúc gỗ mà không phải là tư
liệu sản xuất, và lúc đó cũng không có sản phẩm nào được tạo ra.
Vai trò con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá trị
lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng
tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc
gia….Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng
xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội.
Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động. Chỉ
có nhân tố con người mới có thể làm thay đổi được công cụ sản xuất làm
cho sản xuất ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay đổi
quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác. Công cụ lao động thô sơ hay
hiện đại, xấu hay tốt, phụ thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự
nhiên nói chung và đối tượng lao động nói riêng, chỉ là những vật vô tri vô
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông

12
Tiểu luận Triết học
giác mà thôi. Nó chỉ có ý nghĩa khi trở thành sản phẩm phục vụ nhu cầu của
con người. Muốn vậy tất yếu người lao động phải tác động vào tư liệu sản
xuất để sản sinh ra nó. Như thế quá trình sản xuất vật chất không thể thoát ly
khỏi lao động của con người. Trong thời đại mới, nhân tố con người có tri
thức ngày càng đóng vai trò quyết định hơn trong lực lượng sản xuất. Có thể
khẳng định rằng nhân tố con người đóng vai trò quyết định quá trình lao
động sản xuất ra của cải vật chất.
1.2.3. Sự tác động của các nhân tố khác tới con người:
Tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động là một nhân tố của
lực lượng sản xuất. Sự phát triển ngày càng cao của công cụ lao động đã làm
giảm sức lao động của con người trong quá trình sản xuất. Trước đây công
cụ lao động là thô sơ thì ngày nay nó được thay thế bằng máy móc hiện đại.
Nhờ đó sức lao động của con người sử dụng trong quá trình sản xuất đã
giảm đi đáng kể, năng suất lao động tăng lên, chất lượng sản phẩm cũng
tăng lên, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Sự phát triển của công cụ lao động
một mặt nâng cao năng suất lao động, làm giảm sức lao động của con người,
nhưng nó cũng đặt ra 1 vấn đề: người sử dụng. Một nền sản xuất với máy
móc, trang thiết bị hiện đại nhưng trình độ của người sản xuất hạn chế,
không có khả năng sử dụng, khả năng quản lý thì sẽ không khai thác được,
hoặc khai thác không hết chức năng tác dụng của nó. Do đó gây ra tình trạng
lãng phí trong sản xuất. Vì vậy cùng với sự phát triển của công cụ lao động,
bản thân người sản xuất cần không ngừng học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, nâng
cao năng lực chuyên môn để không chỉ khai thác hết chức năng, tác dụng
của nó mà còn sáng tạo công cụ lao động mới.
Trước đây đối tượng lao động chủ yếu là có sẵn trong tự nhiên như cá
dưới nước, gỗ trong rừng… tất cả đều sẵn có chỉ việc khai thác và sử dụng.
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
13

Tiểu luận Triết học
Nhưng một điều mà ai cũng phải nhận thấy là thiên nhiên của chúng ta đang
ngày càng cạn kiệt. Do vậy việc tạo ra đối tượng lao động mới, đã qua chế
biến để thay thế cho đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên là hết sức quan
trọng. Con người từ chỗ chỉ biết bắt cá dưới sông nay đã biết nuôi cá. Nó
không chỉ giúp con người chủ động về thức ăn mà còn tạo ra với số lượng
lớn. Con người từ chỗ chỉ biết khai thác chặt cây trong rừng nay đã trồng
rừng với số lượng lớn. Mặt khác, con người cũng đã tìm ra những nguyên
liệu mới, tạo ra nguyên liệu tổng hợp thay thế cho nguyên liệu tự nhiên.
Ngày nay, khoa học công nghệ đã phát triển với tốc độ chóng mặt. Sự
phát triển của khoa học công nghệ đã tác động không nhỏ tới con người.
Nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ mà nhiều ngành sản xuất mới,
nhiều máy móc thiết bị mới, nhiều công nghệ mới, nguyên vật liệu mới,
năng lượng mới… đã ra đời. Cũng nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ
mà năng suất lao động tăng, sức lao động của con người giảm, sản phẩm tạo
ra ngày càng nhiều. Điều đó đòi hỏi con người phải không ngừng nâng cao
tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn. Một nền sản xuất dù phát triển đến
đâu, máy móc thiết bị hiện đại đến mấy nhưng trình độ quản lý, trình độ
chuyên môn của người sản xuất thấp thì nó cũng không phát huy tác dụng.
Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, việc ứng dụng nó vào trong
sản xuất là hết sức cần thiết. Muốn vậy bản thân người sản xuất phải có đủ
trình độ kinh tế, năng lực quản lý thì mới có thể ứng dụng những thành tựu
đó vào trong sản xuất. Do vậy con người trong nền sản xuất hiện đại không
chỉ đơn thuần là có sức khỏe, có kinh nghiệm, mà hơn thế nữa là phải có
năng lực, có trình độ, phải không ngừng học hỏi, không ngừng sáng tạo và
phải nhanh nhạy nắm bắt những thành tựu mới nhất của nhân loại.

Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
14
Tiểu luận Triết học

CHƯƠNG 2: CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA
2.1. Tính tất yếu khách quan và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Việt Nam trong thời kí quá độ.
2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố thuộc về vật chất, tinh thần, đạo
đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội…tạo nên năng lực của con
người, của cộng đồng và có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
2.1.2. Tính tất yếu khách quan nước ta phải công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Mỗi phương thức sản xuất đều ra đời và tồn tại trên một cơ sở vật chất
kĩ thuật tương ứng với nó. Cơ sở vật chất kĩ thuật của Chủ nghĩa xã hội là
một nền công nghiệp lớn hiện đại, trước hết là công nghiệp nặng có đủ khả
năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho công nghiệp và các ngành khác trong nền
kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng phát triển nền sản xuất lớn xá hội chủ
nghĩa và cải thiện đời sống nhân dân.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện hoạt động kinh tế, dịch vụ và quản lý từ trạng thái sử dụng sức lao động
là chính sang trạng thái sử dụng sức lao động kết hợp với kỹ thuật công nghệ
hiện đại tạo ra năng suất lao động ngày càng cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tính quy luật để xây dựng cơ sở
vật chất kĩ thuật cho Chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất kĩ thuật của một
phương thức sản xuất là toàn bộ những tư liệu vật chất trong đó chủ yếu là
công cụ sản xuất mà lao động trong xã hội sử dụng. Cơ sở vật chất kĩ thuật
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
15
Tiểu luận Triết học
của phương thức sản xuất trước tư bản là hết sức lạc hậu, chủ yếu là công cụ

lao động thủ công. Trong chủ nghĩa tư bản nền đại công nghiệp cơ khí hoá
đã tạo cái cốt cho chủ nghĩa tư bản tồn tại. Nó tự khẳng định mình là một
phương thức sản xuất thống trị trong lịch sử. Việt Nam quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản thiếu một tiền đề vật chất kĩ thuật mà chủ
nghĩa tư bản để lại. Mặt khác Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém phát
triển, chưa có nền sản xuất lớn dựa trên nền tảng công nghiệp lớn. Do đó để
xây dựng Chủ nghĩa xã hội tất yếu nước ta phải công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Gắn nghiệp hóa với hiện đại hóa làm cho kinh tế nước ta dần đạt tới
trình độ tiên tiến của thế giới. Thời đại ngày nay cách mạng khoa học công
nghệ là một đặc trưng, khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, nó vừa là nền tảng vừa là động lực của quá trình công nghiệp hóa.
Đồng thời gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa sẽ tránh được nguy cơ tụt
hậu xa về kinh tế giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước có nền kinh tế phát triển.
Hơn nữa công nghiệp hóa là cần thiết và có nhiều tác dụng. Đó là :
• Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cao dẫn đến năng suất lao động
cũng cao.
• Củng cố quan hệ sản xuất mới đảm bảo cho sự thắng lợi hoàn toàn
trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội nước ta.
• Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển văn hoá giáo dục. Bản thân
sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật đòi hỏi quần chúng phải có
trình độ giác nhộ cách mạng, trình độ văn hoá, trình độ khoa học ngày
càng cao.
• Tạo ra cơ sở cho việc phát triển kinh tế đối ngoại.
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
16
Tiểu luận Triết học
• Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phải có một nền công
nghiệp hiện đại tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an

toàn lương thực.
• Nó là cơ sở vật chất cho củng cố an ninh quốc phòng, độc lập dân tộc
và Chủ nghĩa xã hội được bảo vệ vững chắc.
2.1.2. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta.
Thực chất công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chuyển nền kinh tế từ lao
động thủ công sang lao động cơ khí hay nói cách khác là tiến hành trang bị
kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Không tiến hành cách mạng kỹ
thuật thì không thể biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có
nền sản xuất lớn. Nó sẽ làm thay đổi đến tận gốc rễ lực lượng sản xuất của
xã hội . Trước tiên phải làm biến đổi công cụ lao động - thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người và là cơ sở phân biệt các thời đại với
nhau. Muốn vậy ta phải thực hiện nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại trên thế giới. Một yếu tố không thể thiếu nữa, đó là ta
phải phát huy được lợi thế so sánh. Ta đi sau cạnh tranh, thu hút, sử dụng
công nghệ hiện đại của nước bạn thông qua việc chuyển giao công nghệ.
Việc đó được tiến hành từ các nước khác chuyển sang nước ta bao gồm
quyền sở hữu, quyền sử dụng, bao gồm cả phần cứng tức máy móc thiết bị
và phần mềm tức phương pháp và công nghệ. Nhờ đó cho phép ta khai thác
được các nguồn lực trong nước và khắc phục được nguy cơ tụt hậu kinh tế
cũng như thúc đẩy nền sản xuất hướng về xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Ngoài ra, ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế
là tổng thể các ngành, vùng kinh tế trong đó cơ cấu kinh tế ngành là quan
trọng được cân đối về quy mô, về tỉ trọng, phù hợp điều kiện của tự nhiên và
xu hướng phân công hợp tác lao động quốc tế. Trước hết, nó phải phù hợp
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
17
Tiểu luận Triết học
với các quy luật khách quan và xu thế phát triển của khoa học công nghệ
đồng thời phát huy được lợi thế so sánh trong nước. Để xây dựng một cơ cấu
kinh tế hợp lý phải chuyển dịch cơ cấu gắn liền với phân công lại lao động

xã hội theo một tính quy luật. Trong đó tỉ trọng lao động trong ngành công
nghiệp gia tăng, nông nghiệp giảm còn dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên phải luôn
luôn đảm bảo tỉ trọng hợp lý giữa chúng một cách tương đối so với nhau.
Mặt khác tỉ trọng lao động giản đơn, lao động cơ bắp giảm còn lao động
phức tạp tăng lên.
2.2. Chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực nước ta.
2.2.1. Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta.
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn
lực khoa học công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là
quyết định nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả
khi nguồn lực con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng
cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú.
Các lĩnh vực khoa học khác nhau có thể hiểu nguồn lực theo những
cách khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố
mà mỗi nhân tố đó có vai trò riêng nhưng có mối quan hệ qua lại lẫn nhau
tạo nên sự phát triển của một sự vật, hiện tượng nào đó. Từ cách hiểu như
vậy, nguồn lực con người là những yếu tố có thể huy động, sử dụng để thúc
đẩy nền kinh tế đất nước và sự phát triển xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn
lực con người là nói tới con người với tư cách là chủ thể của quá trình sáng
tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Tỷ trọng (%) các khối kinh tế trong GDP
Ngành Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
18
Tiểu luận Triết học
Năm
1998 25,75 33,35 41
2013 18.39 38.3 43.31
Nói đến nguồn lực con người là nói đến chất lượng và số lượng nguồn
nhân lực. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thực trạng đó ở nước ta như

sau:
• Cơ cấu ngành còn bất hợp lý.
• Cơ cấu vùng miền chưa hợp lý. Bình quân chung nước ta là 118
sinh viên/ 1 vạn dân, nhưng Tây Bắc là17 sinh viên/ 1 vạn dân.
• Hình thức đào tạo: - Chính quy : 509637
- Chuyên tu, tại chức: 235975
• Tỉ lệ giáo viên/ sinh viên còn cao dẫn đến giáo viên phải làm việc
“chạy xô”.
• Trong dạy nghề có 157 trường dạy nghề, hơn 190 trường đại học
nhưng đầu tư kinh tế còn nhỏ.
Như thế nền kinh tế nước ta chủ yếu dùng sức người với một số yếu tố
của tri thức.
2.2.2. Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân
lực.
Khi bắt đầu công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã nhận thức được vai trò to
lớn của con người trong phát triển kinh tế - xã hội. Qua mỗi kỳ Đại hội
Đảng, nhận thức này ngày càng được bổ sung, hoàn thiện hơn. Ở Đại hội XI,
với quan điểm coi “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển”, Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
19
Tiểu luận Triết học
lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới: “Phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là
một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững”.
Với chiến lược đó, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc xây dựng

và phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Trong những năm qua, dân số
nước ta không ngừng tăng nhanh khiến cho lực lượng lao động ngày càng
dồi dào. Đây được coi là một trong những thế mạnh của đất nước và là yếu
tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Người Việt Nam vốn được đánh
giá là những người có tư chất thông minh, cần cù, nhạy bén, sáng tạo. Đây là
những đặc điểm nổi trội của nguồn nhân lực nước ta và luôn được thế giới
đề cao. Theo Báo cáo phát triển con người của Liên hợp quốc, chỉ số phát
triển con người (HDI) của Việt Nam có sự tăng nhanh và liên tục: “Năm
1995, Việt Nam mới chỉ đứng thứ 7/10 ở khu vực Đông Nam Á, 35/50 ở
châu Á và 122/175 nước trên thế giới được xếp hạng theo chỉ số HDI thì đến
năm 2001 đã vượt lên đứng thứ 6/7 ở khu vực Đông Nam Á, 28/36 ở châu Á
và 109/130 trên thế giới”.
Tính đến ngày 1/4/2009, Việt Nam có 43,8 triệu người trong độ tuổi
lao động đang làm việc, chiếm 51,1% dân số. Nước ta có một nguồn lao
động trẻ với trên 70% lao động trong độ tuổi từ 15 đến 45. Không chỉ có
vậy, chất lượng lao động của nước ta trong những năm gần đây cũng không
ngừng được nâng lên. Cả nước hiện có 2,6 triệu người có trình độ đại học trở
lên, chiếm 4,5 % lực lượng lao động; trong đó có 18.000 thạc sĩ, 16.000 tiến
sĩ, trên 6.000 phó giáo sư và giáo sư phân bố cả trên lĩnh vực hành chính sự
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
20
Tiểu luận Triết học
nghiệp và sản xuất kinh doanh. Điều đó chứng tỏ chất lượng nguồn nhân lực
của nước ta không ngừng tăng lên đáng kể, đáp ứng phần nào nhu cầu phát
triển đất nước.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, chất lượng nguồn nhân lực của
nước ta còn nhiều hạn chế. So với các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước trong khu vực như Trung Quốc, Singapore, Nhật Bản,… chiều cao, cân
nặng và thể lực của người lao động nước ta còn thấp. Tỉ lệ lao động đã qua

đào tạo chưa cao. Theo thống kê 6 tháng đầu năm 2010, hiện nay cả nước
chỉ có 17,2% số người lao động biết sử dụng máy tính. Một thực tế đáng lưu
tâm là mặc dù số lượng lao động có trình độ cao như thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo
sư và giáo sư ở nước ta không ngừng tăng lên qua các năm nhưng hiện có
70% số thạc sĩ và tiến sĩ không làm khoa học mà chuyển sang làm công tác
quản lý, hành chính, sự vụ. Do đó, số bài báo của các nhà khoa học được
đăng hàng năm ngày càng ít đi và chất lượng không cao. Hơn 72% sinh viên
ra trường không có việc làm ngay hoặc phải làm trái ngành nghề. Điều đó đã
dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lao động đã qua đào tạo và tạo nên tình
trạng thừa thầy, thiếu thợ đang rất nan giải ở nước ta hiện nay.
Hơn nữa, do mức dinh dưỡng cho người Việt Nam còn thấp nên nhìn chung,
thể lực người lao động ở nước ta còn kém, mặt trí lực cũng còn nhiều hạn
chế như phần lớn lực lượng lao động đều là lao động phổ thông, số lao động
đã qua đào tạo còn ít, ít có điều kiện học tập để nâng cao tay nghề,… Những
hạn chế đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nguồn nhân lực
nước ta, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế tri thức nhằm rút ngắn
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
21
Tiểu luận Triết học
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định : “Con người và
nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần tạo chuyển biến cơ bản toàn diện về giáo
dục đào tạo….Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản làm chủ kỹ
năng, nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới có ý
thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành
nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà
quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng
lực phát huy, mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước. ”

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ mục tiêu của chiến
lược phát triển kinh tế -xã hội 10 năm (2001-2010 ) là : “Đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa
học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng an ninh được
tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Để thực hiện mục tiêu đó trong 10 năm tới cần :
Phát triển giáo dục mần non. Củng cố vững chắc kết quả xoá mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả
nước phần lớn thanh thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và vùng nông thôn
đang được học hết trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp và được
đào tạo nghề. Điều chỉnh cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng,
cơ cấu dân tộc…trong hệ thống giáo dục đào tạo phù hợp với yêu cầu học
tập của nhân dân và phát triển kinh tế xã hội và các mục tiêu của chiến lược.
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
22
Tiểu luận Triết học
Chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ thông. Mở
rộng đào tạo công nhân kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều
trình độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học sau đại học tập
trung đầu tư xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia ngang tầm
khu vực tiến tới đạt trình độ quốc tế. Phát triển giáo dục thường cuyên và
giáo dục từ xa.
Khẩn trương biên soạn và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước bộ
chương trình và sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu mới của sự
nghiệp phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI.
2.2.3. Mục tiêu và phương hướng phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân
lực nước ta.

Phát triển toàn diện con người cần đạt tới những giá trị xã hội sau đây:
• Con người có bản lĩnh, lý tưởng, niềm tin và quyết tâm thực hiện sứ
mệnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Con người cần có tác phong
công nghiệp.
• Con người có sức khoẻ cường tráng.
• Có nhân cách đậm đà bản sắc dân tộc tiếp thu tinh hoa văn minh nhân
loại, sống nhân ái, tình nghĩa.
• Có đủ trí tuệ, đầu óc duy lý của thời đại và kĩ năng lao động lành
nghề.
• Có tinh thần công dân sống và làm việc theo pháp luật, thực hiện đúng
quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
• Ngoài ra ta cần chú ý đến sự công bằng trong giáo dục, chú ý đến vai
trò của người thầy.
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
23
Tiểu luận Triết học
Cần đổi mới nền giáo dục nước ta, vừa phù hợp hoàn cảnh riêng của
nước ta, vừa thống nhất chung với văn hoá và văn minh nhân loại. UNESCO
đưa ra “ Bốn trụ cột của giáo dục” thế kỉ XXI :
• Học để biết.
• Học để làm. Chú ý tới học đi đôi với hành.
• Học cùng chung sống, học cách sống với người khác.
• Học để tự khẳng định mình.
Toàn bộ hệ thống giáo dục đào tạo, từ tiểu học đến đại học, phải tập
trung phục vụ mục tiêu này, làm cho tinh thần hướng nghiệp cùng với hướng
học đi vào từ giờ học , từng học sinh như cha ông ta đã từng dậy “Nhất nghệ
tinh nhất thân vinh”, chấm dứt động cơ đi học vì mảnh bằng “Hư văn”
(Phạm Văn Đồng). Các môn học, cả khoa học xã hội - nhân văn lẫn khoa
học tự nhiên, đều phải dạy theo tinh thần kỹ thuật tổng hợp, gắn bó các nội
dung khoa học. Thời đại ngày nay là thời đại lao động ngày càng căng thẳng

đòi hỏi trí tuệ cao và có ý thức trong công việc. Do đó, phát triển giáo dục
con người trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Nhân tài nói chung và nhân tài trong quản lý nói riêng không phải tự
nhiên mà có mà nhân tài chính là sản phẩm của một quá trình đào tạo rèn
luyện và tự rèn luyện rất lâu dài và công phu. Cần nhận dạng nhân tài bằng
hình thức thi cử và đặt ra nhiều tiêu chí.
Để nhân tài có thể phát triển được thì phải có điều kiện: Thứ nhất
nhân tài trước hết phải được đào tạo rất cẩn thận, tu dưỡng, rèn luyện, tự tích
luỹ kinh nghiệm và kiến thức trong một môi trường thuận lợi thúc đẩy con
người luôn sáng tạo và hành động. Thứ hai, phải có các nguồn lực và dành
cho mỗi người một khả năng lựa chọn và huy động tổ chức các nguồn lực
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
24
Tiểu luận Triết học
thực hiện có hiệu quả mục đích đã đề ra. Tóm lại, điều kiện nảy sinh và phát
triển nhân tài là phải có một nền giáo dục tiên tiến có sự kết hợp hài hoà
giữa ba yếu tố nhà trường - gia đình - xã hội cùng quan tâm đến thế hệ trẻ và
giáo dục.
2.3. Những giải pháp trung tâm của chiến lược phát triển nguồn nhân lực
theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa:
2.3.1. Chính sách đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ:
Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước.
Khoa học – công nghệ hướng vào việc nâng cao năng suất lao động,
đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị
trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia, ứng dụng một cách sáng tạo
những công nghệ nhập khẩu từng bước tạo ra công nghệ mới. Đi nhanh vào
một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao( tin học,
sinh học, vật liệu mới, tự động hóa). Tạo thị trường cho khoa học và công

nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng
khoa học- công nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ. Có chính
sách khuyến khích và buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu đổi mới
công nghệp.
Sắp xếp, đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt chẽ
nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ với khoa học xã hội và
nhân văn. Hoàn thành xây dựng những khu công nghệ cao và hệ thống
phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Sử dụng có hiệu quả các quỹ hỗ trợ
phát triển khoa học công nghệ. Cải tiến công tác quản lý khoa học, thực hiện
quy chế dân chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa học, đảm bảo chất lượng
Nhóm 3-Lớp kỹ thuật viễn thông
25

×