BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đ ề tài : Chiến lược thâm nhập của các công ty đa quốc gia vào các nước đang
phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá” của các công ty này ở các
nước nhận đầu tư.
Giáo viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Lan
Nhóm SV thực hiện:
Nguyễn Hà Thương 1211510066 118 50%
Phạm Thị Hoàng Yến 1211510078 138 50%
Hà Nội, 9/2013
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU
DN Doanh nghiệp
MNC Công ty đa quốc gia
FDI Vốn đầu tư trực tiếp
UBND Ủy ban nhân dân
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
LA Hợp đồng công nghệ
APA Phương pháp tính giá
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với nền kinh tế thế giới hiện nay, không ai không nhận thấy rằng toàn cầu
hóa là một quá trình tất yếu, đang và đã tạo ra những cơ hội không hề nhỏ cho các
nước có nền kinh tế đang phát triển hội nhập. Bên cạnh những lợi ích mà toàn cầu
hoá mang lại, chính nó cũng đang đặt ra cho các nước đang phát triển những thách
thức và nguy cơ hết sức to lớn. Một trong số đó xuất phát từ hoạt động kinh doanh
của các công ty ĐQG trên thế giới.
Các công ty đa quốc gia (MNCs) được thành lập nhiều nơi trên thế giới với
dòng vốn FDI luân chuyển mạnh. Với việc tự do hóa thương mại, các công ty này
đã góp phần tạo ra sự dịch chuyển dòng vốn giữa các quốc gia, giữa các tổ chức trên
thế giới, tạo ra sự cân bằng trong nguồn tài chính giữa các nước phát triển và các
nước đang phát triển, đồng thời làm tổng sản lượng thế giới tăng lên một lượng đáng
kể.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, hoạt động của các công ty đa quốc
gia cũng mang lại không ít những tiêu cực mà nổi bật trong đó là hành vi “chuyển
giá” nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với Nhà nước và thâu tóm doanh nghiệp nước sở
tại. Có thể nói, tình hình chuyển giá đã và đang là một thực trạng đáng báo động ở
các nước đang phát triển hiện nay. Các công ty đa quốc gia tiến hành hoạt động
chuyển giá dưới mọi hình thức, gây thiệt hại không nhỏ cho nước tiếp nhận đầu tư
và cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước.
Với mục đích tìm hiểu về vấn đề mang tính thời sự và nhiều bất cập này, nhóm
chúng em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Chiến lược thâm nhập của các công ty đa
quốc gia vào các nước đang phát triển và các hình thức thủ đoạn “chuyển giá”
của các công ty này ở các nước nhận đầu tư”.
Do lượng kiến thức và thời gian có hạn nên bài tiểu luận của chúng em còn
nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài viết được hoàn thiện
hơn.
NỘI DUNG
I. Chiến lược thâm nhập của các công ty vào các nước đang phát triển
1. Khái niệm công ty đa quốc gia
Công ty đa quốc gia thường được viết tắt là MNC (Multinational corporration) hoặc
MNE (Multinational enterprises) là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp
dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt qua ngân
sách cuả nhiều quốc gia. Các công ty đa quốc gia có thể ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ
quốc tế và các nền kinh tế quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng vai trò lớn trong quá
trình toàn cầu hóa.
Ban đầu, các công ty đa quốc gia cũng được thành lập tại một quốc gia tức là công ty
quốc gia. Công ty quốc gia này mang quốc tịch của một nước và vốn đầu tư vào công ty
này thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản nước sở tại. Công ty quốc gia này kinh doanh
ngày càng phát triển và hàng hóa, dịch vụ do công ty này sản xuất ra ngày càng nhiều và
chất lượng. Vì vậy mà nhu cầu mở rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm của công ty là tất
yếu. Lúc bấy giờ, thị trường các nước lân cận hay các nước có nhu cầu sản phẩm của công
ty trở nên thật hấp dẫn. Các công ty này sẽ bắt đầu tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ
sản phẩm sang các thị trường này bằng cách xuất khẩu các sản phẩm. Thị trường ngày
càng được mở rộng vì vậy mà các công ty bắt đầu nghĩ đến việc mở rộng sản xuất kinh
doanh sang các nước lân cận, các nước mà có nhu cầu sản phẩm của công ty nhiều. Do quá
trình phát triển thị trường tiêu thụ, các công ty này tìm được các nguồn nguyên liệu và
nhân công có chi phí thấp hơn tại quốc gia mà công ty trú ngụ. Vì vậy mà công ty sẽ tiến
hành xây dựng các chi nhánh hay các công ty con tại các quốc gia mà có những lợi thế so
sánh về chi phí nguyên vật liệu, nhân công đầu vào nhằm tìm kiếm mức lợi nhuận ngày
càng cao. Như vậy do nhu cầu phát triển và mở rộng thị trường của mình mà các công ty
này đã thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn rộng lớn và vượt ra khỏi biên
giới của một quốc gia nên được gọi là công ty đa quốc gia.
Công ty đa quốc gia bao gồm công ty mẹ ở một nước, và thực hiện các đầu tư FDI ra
nước ngoài để hình thành các công ty con. Các công ty mẹ con này ảnh hưởng lẫn nhau và
cùng chia sẻ kiến thức, nguồn lực và trách nhiệm lẫn nhau.
2.Mục tiêu thâm nhập và hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa
quốc gia vào các nước đang phát triển
2.1. Mục tiêu xâm nhập thị trường
Xâm nhập thị trường đa quốc gia là hình thức đặc biệt của phát triển, nghĩa là công ty
tìm cách gia tăng thị phần của sản phẩm hiện thời trên thị trường quốc gia đó bằng cách
đưa ra một chiến lược marketing hỗn hợp tích cực và có hiệu quả hơn.
Với mục tiêu tăng số lượng mại vụ đối với khách hàng hiện tại, thu hút khách hàng
của các đối thủ cạnh tranh và những khách hàng mới công ty sẽ phải gia tăng nỗ lực
marketing như: Đưa ra chiến dịch quảng cáo mới hữu hiệu, nhân rộng số cửa hàng, các
điểm bán và mạng lưới tiêu thụ tại quốc gia đó, giảm giá hay bán trả chậm, không ngừng
tăng cường chất lượng sản phẩm.
Nói chung tất cả các nỗ lực marketing này đều nhằm gia tăng thị phần của công ty trên
thị trường quốc gia đó và đó cũng chính là mục tiêu chính của chiến lược xâm nhập thị
trường quốc gia.
2.2.Hình thức thâm nhập thị trường của các Công ty đa quốc gia vào các nước đang
phát triển.
Nhiều nghiên cứu cho thấy việc mở rộng thị trường ra nước ngoài là mục tiêu của
MNC nhằm khai thác tối ưu các nguồn lực để sản xuất sản phẩm độc quyền mang tính
quốc tế; vừa để thu lợi nhuận độc quyền, vừa nỗ lực giảm thiểu các đe doạ cạnh tranh do
các đối thủ áp đặt. Đối phó với những thách thức này, MNC liên tục thâm nhập vào các
nền kinh tế đặc biệt là các nước đang phát triển để phát triển thị trường dưới nhiều hình
thức.
2.2.1. Hình thức xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là hình thức đầu tiên của quá trình thâm nhập thị trường quốc tế
thông qua hoạt động tiêu thụ những hàng hoá được sản xuất trong nước ra thị trường bên
ngoài. Phần lớn các doanh nghiệp bắt đầu mở rộng thị trường toàn cầu bằng xuất khẩu và
sau đó chuyển sang hình thức khác để đáp ứng nhu cầu thị trường của mình.
Đặc điểm chung lớn nhất của xuất khẩu là việc di chuyển sản phẩm qua biên giới quốc
gia, phạm vi hoạt động mở rộng, chịu tác động phức tạp của nhiều yếu tố môi trường nước
ngoài như chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội, địa lý, khí hậu.
● Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức tham gia thị trường quốc tế khá phổ biến với mọi
doanh nghiệp trên thế giới, trong đó các doanh nghiệp tiến hành đưa hàng hóa sang thị
trường nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia, nhằm nâng cao lợi nhuận
trong hoạt động kinh doanh.
Lợi thế đối với doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp:
Doanh nghiệp trực tiếp tiếp xúc với thị trường nước ngoài, do vậy có thể nắm bắt được
tình hình thị trường, thường xuyên cập nhật những nhu cầu mới và thị hiếu thay đổi của
khách hàng để kịp thời cải tiến sản phẩm, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đó.
Doanh nghiệp xuất khẩu có thể chủ động đối phó với những diễn biến trên từng thị
trường nước ngoài.
Doanh nghiệp không phải chịu những chi phí xuất khẩu trung gian và lợi nhuận không
bị chia sẻ như hình thức xuất khẩu gián tiếp.
Điểm bất lợi của hình thức xuất khẩu trực tiếp:
Doanh nghiệp phải dàn trải các nguồn lực của mình trên phạm vi thị trường rộng lớn
phức tạp hơn, phải chấp nhận môi trường cạnh tranh quốc tế khốc liệt hơn và nhiều rủi ro
hơn.
Doanh nghiệp mất nhiều thời gian, tốn nhiều nhân lực, sử dụng nhiều nguồn tài lực hơn
xuất khẩu gián tiếp. Do đó, để có thể thâm nhập thành công thị trường nước ngoài, các
doanh nghiệp cần phải lựa chọn kỹ thị trường sao cho phù hợp với tiềm lực và khả năng
của mình.
Hình thức này đòi hỏi chi phí tốn kém, do vậy chỉ thực hiện khi có đủ số lượng hàng
lớn. Hơn nữa, các hàng rào thuế quan hoặc chi phí vận chuyển cao cũng có thể làm cho
việc xuất khẩu trở nên không kinh tế.
Trường hợp áp dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp:
Doanh nghiệp đã nghiên cứu thị trường và có đầy đủ những thông tin cần thiết nhằm
đảm bảo chắc chắn cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả như dự kiến.
Doanh nghiệp phải có đủ nguồn lực để mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài.
Doanh nghiệp có khả năng quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu hiệu quả.
● Xuất khẩu gián tiếp
Đây là hình thức tham gia thị trường nước ngoài không đòi hỏi sự tiếp xúc trực tiếp
giữa người mua nước ngoài và người sản xuất trong nước. Ðể bán được sản phẩm của
mình ra nước ngoài, người sản xuất phải thông qua các tổ chức trung gian thông thạo
nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu. Hình thức này có những ưu điểm và nhược điểm
sau:
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu gián tiếp:
Giúp cho người sản xuất thâm nhập nhanh chóng vào thị trường nước ngoài. Chẳng
hạn, doanh nghiệp có thể sử dụng công ty quản lý xuất khẩu có nhiều kinh nghiệm hoạt
động trên thị trường nước ngoài và do đó, giảm bớt được rủi ro gắn liền với việc bán hàng
trong môi trường xa lạ. Hơn nữa, doanh nghiệp còn sử dụng được kinh nghiệm, vốn và cơ
sở vật chất của chuyên gia, trung gian. Thông qua xuất khẩu gián tiếp, doanh nghiệp có
thể tạo dựng được hình ảnh, uy tín của mình trên thị trường quốc tế.
Khó khăn của hình thức xuất khẩu gián tiếp:
Phải trả chi phí cho người trung gian do đó lợi nhuận của doanh nghiệp bị giảm.
Doanh nghiệp không biết được kịp thời nhu cầu biến động của thị trường nước ngoài cũng
như tâm lý thị hiếu của khách hàng khi tiêu thụ sản phẩm.
Trường hợp áp dụng hình thức xuất khẩu gián tiếp:
Doanh nghiệp chưa có đủ thông tin cần thiết về thị trường nước ngoài, như nhu cầu và
cầu cụ thể, tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh.
Lần đầu tiên doanh nghiệp tham gia vào thị trường nước ngoài.
Qui mô kinh doanh của doanh nghiệp còn nhỏ, các nguồn lực có hạn, chưa thể dàn trải
các hoạt động ở nước ngoài.
Thị trường nước ngoài phức tạp, cạnh tranh gay gắt và có độ rủi ro cao.
Doanh nghiệp có thể gặp phải rào cản thương mại từ phía nhà nước.
2.2.2. Hình thức kết hợp giữa hoạt động trong và ngoài nước
● Cấp giấy phép
Cấp giấy phép là một hình thức hợp đồng nhượng quyền sử dụng sản phẩm trí tuệ để
tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nước ngoài. Thông thường đối tượng
của hợp đồng mua bán giấy phép hiện nay là: bằng sáng chế phát minh (Patent), quyền tác
giả hay tác quyền (Copyrights), nhãn hiệu thương mại (Trademarks), các qui trình công
nghệ (Technological Process), bí quyết kỹ thuật (Know how).
Thuận lợi của hình thức Licensing:
Doanh nghiệp được cấp phép có cơ hội nhanh chóng tiếp cận thị trường nước ngoài,
giảm thiểu rủi ro, không phải đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc do chi phí bỏ ra thấp. Do
vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng áp dụng chiến lược này trong việc mở
rộng kinh doanh quốc tế nhằm duy trì được mục tiêu doanh số và lợi nhuận của mình.
Doanh nghiệp cấp phép vẫn có thể thu được một khoản tiền không nhỏ sau thời gian
sử dụng sản phẩm trí tuệ của mình với mức lợi nhuận và hiệu quả cao, khai thác triệt để
sản phẩm trí tuệ, tăng thêm mức đầu tư phát triển công nghệ mới, tiếp tục nâng cao lợi thế
cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế.
Một doanh nghiệp với công nghệ, bí quyết và có trình độ chất xám cao có thể sử dụng
các thỏa ước cấp giấy phép và đổi lại có một khoản thu dành cho việc đầu tư vào các danh
mục khác.
Doanh nghiệp có thể đẩy mạnh việc phổ biến các sản phẩm và công nghệ mới trên thị
trường nước ngoài. Hợp đồng cấp phép được thiết lập trong bối cảnh toàn bộ chiến lược
của doanh nghiệp có tính đến sự mở rộng và phát triển thị trường thế giới trong thời gian
dài. Do đó với doanh nghiệp có kế hoạch thâm nhập thị trường quốc tế, cấp giấy phép là
phương thức thích hợp để thâm nhập nhanh vào những thị trường có qui mô nhỏ. Điều
này tạo điều kiện cho doanh nghiệp tập trung nguồn lực, thâm nhập vào những thị trường
khác có qui mô lớn hơn.
Khó khăn của hình thức Licensing:
Doanh nghiệp cấp phép không còn độc quyền về sở hữu trí tuệ ngay sau khi đã cấp
phép. Vì vậy, doanh nghiệp được cấp phép sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với
doanh nghiệp cấp phép trên thị trường.
Doanh nghiệp cấp phép gặp khó khăn trong việc kiểm soát khối lượng bán của công ty
nước ngoài, điều này ảnh hưởng tới lệ phí bản quyền.
Doanh nghiệp cấp phép khó có thể kiểm soát được tiêu chuẩn sản phẩm và chất lượng
dịch vụ ở thị trường nước ngoài. Điều này có thể làm giảm uy tín, chất lượng sản phẩm của
doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.
● Xuất khẩu có sự trợ giúp của văn phòng đại diện
Văn phòng đại diện hoạt động tại thị trường nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp tập
trung hơn nữa vào việc nghiên cứu thị trường, tìm ra phương pháp hiệu quả nhất để củng
cố vị trí của doanh nghiệp trên thị trường mục tiêu. Thông thường, văn phòng đại diện chỉ
có chức năng nghiên cứu, tư vấn. Rõ ràng cấp phép đảm bảo cho các công ty xuyên quốc
gia thực hiện các giao dịch hành chính ban đầu chứ không có chức năng kinh doanh. Hình
thức này có những thuận lợi và khó khăn sau:
Thuận lợi:
Đặt văn phòng đại diện tức là doanh nghiệp đã trực tiếp tiếp cận với thị trường, do
vậy dễ dàng nắm được tình hình, những diễn biến trên thị trường, từ đó có những phản ứng
mang tính chiến lược và hiệu quả hơn.
Doanh nghiệp nắm được thông tin về thị trường, khách hàng và đối thủ cạnh tranh, từ
đó có những đóng góp cho việc xây dựng chiến lược thâm nhập vào thị trường.
Văn phòng đại diện có thể thực hiện các nghiệp vụ marketing trên thị trường nước
ngoài phục vụ cho công tác thâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Khó khăn:
Do văn phòng đại diện không tiến hành các hoạt động kinh doanh, trong khi đó để
đảm bảo cho hoạt động của nó đòi hỏi một chi phí cao so với các chi phí tại chỗ nên bước
đầu làm tăng chi phí hành chính của doanh nghiệp.
Phạm vi hoạt động bị hạn chế và nhiều khi doanh nghiệp bị lệ thuộc vào sự năng động
và tính hiệu quả của văn phòng đại diện.
● Gia công quốc tế
Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử
dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một
hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng
thù lao (Luật thương mại 2005 - điều 178).
Loại hình này có một số đặc trưng khác biệt so với hình thức xuất khẩu là:
Quyền sở hữu đối với nguyên vật liệu và hàng hóa không thay đổi, vì vậy không chỉ
bên nhận gia công mà bên đặt gia công cũng phải quan tâm đến việc bảo quản hàng hóa,
nguyên vật liệu trong suốt quá trình sản xuất và gia công lắp ráp hàng hóa.
Thực chất gia công là việc bên đặt gia công mua sức lao động tại nước nhận gia công
để nâng cao tỷ suất lợi nhuận của mình. Đó là hình thức khai thác những lợi thế so sánh
trong thương mại quốc tế về giá cả sức lao động. Tuy nhiên, việc mua bán sức lao động lại
gắn liền với quá trình sản xuất hàng hóa, do vậy trong khi thực hiện hoạt động này đòi hỏi
những kĩ năng rộng hơn cả ở lĩnh vực sản xuất và thương mại.
Chính vì những đặc trưng trên mà các nhà kinh doanh trên thị trường hàng hóa thế
giới đã sử dụng hình thức này như một công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài có
hàng rào bảo hộ chặt chẽ.
● Nhượng quyền thương mại (Franchising)
Hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới đã có từ lâu. Khi nhắc tới hoạt
động nhượng quyền thương mại thành công, người ta thường nghĩ tới hoạt động nhượng
quyền của McDonald’s, Kentucky Fried Chicken (KFC), hay khách sạn Hilton…
Theo luật thương mại Việt Nam năm 2005 (điều 284): Nhượng quyền thương mại là
hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận nhượng
quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau
đây:
Thứ nhất, việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền qui định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên
thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh,biểu tượng kinh doanh, quảng cáo
của bên nhượng quyền.
Thứ hai, bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận nhượng
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Hình thức này có một số ưu điểm và nhược điểm sau:
Ưu điểm:
Franchising là hình thức có thể kết hợp tối đa những lợi thế so sánh của cả hai bên để
nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ và như vậy tạo khả năng
thành công lớn hơn khi thực hiện. Cả hai bên có thể khai thác những lợi thế của nhau để
phục vụ cho kết quả kinh doanh kể cả những lợi thế vô hình như uy tín của bên chuyển
nhượng, vị trí cửa hàng của bên nhận chuyển nhượng.
Hai bên thực hiện việc quản lý và bàn bạc trao đổi những kinh nghiệm, những sáng
kiến trong hoạt động marketing nhằm thích ứng các hoạt động kinh doanh của mình với
những điều kiện thay đổi của thị trường.
Với hình thức thâm nhập này, cùng lúc doanh nghiệp có thể phát triển thương hiệu ở
nhiều thị trường, hạn chế rủi ro và tiết kiệm thời gian.
Lợi thế nổi bật nhất của hình thức Franchising là chi phí. Thứ nhất, về cơ cấu chi phí:
Franchising giảm thiểu được hàng loạt các yếu tố chi phí, như phí chuyên chở và bảo quản
nguyên liệu do khai thác tại chỗ, các chi phí thuế quan (xuất nhập khẩu), giảm chi phí về
tiền lương do chi phí thuê lao động tại chỗ thấp… Thứ hai, về tổng giá thành: do sự phát
triển nhanh của Franchising gắn liền với việc mở rộng về qui mô kinh doanh quốc tế nên
việc mở rộng qui mô cũng đồng nghĩa với quá trình giảm giá thành trên một đơn vị sản
phẩm.
Khó khăn:
Bất lợi lớn nhất của Franchising đó là vấn đề kiểm soát chất lượng. Nền tảng của thỏa
thuận Franchising là thương hiệu nổi tiếng của doanh nghiệp chuyển giao, là chuyển thông
tin đến người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, bên nhận chuyển giao nước
ngoài có thể không quan tâm về chất lượng như bên chuyển giao đề nghị, kết quả là chất
lượng sản phẩm kém, doanh thu thấp và làm giảm uy tín của bên chuyển giao trên thị
trường nước ngoài.
● Đặt chi nhánh của doanh nghiệp tại nước ngoài
Đặt chi nhánh của doanh nghiệp ở nước ngoài là doanh nghiệp bắt đầu chuyển các
hoạt động kinh doanh của mình ra nước ngoài, do vậy xác suất rủi ro lớn hơn, cuộc cạnh
tranh cũng bắt đầu khốc liệt hơn. Đây là một bước thử thách có tính toàn diện cho hoạt
động kinh doanh ở nước ngoài của doanh nghiệp.
Thuận lợi:
Chi nhánh có thể khai thác những lợi thế so sánh, tiến hành các hoạt động kinh doanh
nhằm mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
Chi nhánh có thể thay mặt doanh nghiệp thực hiện những biện pháp bảo vệ lợi ích của
doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.
Khó khăn:
Chi phí cho việc thành lập chi nhánh ở nước ngoài lớn, dàn trải và đòi hỏi doanh
nghiệp phải có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm và đủ sức tin cậy.
Hoạt động của chi nhánh chưa được hạch toán một cách độc lập, do vậy không đảm
bảo khả năng linh hoạt cho doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.
2.2.3. Hình thức đầu tư trực tiếp
Đây là hình thức mà các doanh nghiệp đưa vốn đầu tư trực tiếp vào thị trường nước
ngoài nhằm khai thác tối đa những lợi thế trên thị trường đó. Hình thức đầu tư trực
tiếp nước ngoài cụ thể là: thành lập công ty liên doanh, công ty con 100% vốn nước ngoài
và Công-xoóc-xi-om (Consortium).
● Công ty liên doanh
Khi xét thấy thị trường nước ngoài có những lợi thế về kinh tế, xã hội, tự nhiên… so
với các điều kiện đó của nước mình, lãnh đạo doanh nghiệp quyết định tạo lập cơ sở kinh
doanh trên thị trường đó. Tuy nhiên, hình thức tiếp theo là gì nếu doanh nghiệp nhận thấy:
Tự mình thì không đủ vốn hoặc tiềm lực để thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị
trường nước ngoài, có nhiều rủi ro kinh doanh trên thị trường nước ngoài hơn vì mình là
“người nước ngoài”.
Khi ở thị trường đó, luật pháp bắt buộc các công ty nước ngoài muốn kinh doanh trong
lĩnh vực đó phải liên doanh với một công ty nước sở tại.
Khi đó biện pháp tốt nhất đối với doanh nghiệp là thành lập một liên doanh ở nước
ngoài. Dạng phổ biến nhất của liên doanh là sự tham gia góp vốn của hai đối tác. Ví dụ
một công ty có thể liên doanh với một công ty nước ngoài. Thông thường công ty nước
ngoài cung cấp các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ, nhãn mác sản phẩm, uy tín của mình.
Đối tác địa phương cung cấp hệ thống phân phối, kinh nghiệm và sự hiểu biết về thị trường
nội địa.
Thuận lợi của hình thức liên doanh:
Công ty có thể kiểm soát được quá trình sản xuất, các hoạt động marketing ở thị
trường nước ngoài.
Khai thác được tối đa các khả năng của đối tác địa phương. Công ty có lợi ích từ kiến
thức của đối tác địa phương như điều kiện cạnh tranh ở nước sở tại, văn hóa, ngôn ngữ,
hệ thống chính trị, hệ thống kinh doanh.
Chia sẻ những rủi ro trong quá trình kinh doanh, tạo ra cộng đồng trách nhiệm trong
quá trình điều hành hoạt động của công ty với đối tác ở nước sở tại.
Khai thác và tận dụng được các ưu đãi của nước chủ nhà để thâm nhập vào thị trường
nước sở tại.
Tham gia liên doanh, công ty dần dần học hỏi được kinh nghiệm, nắm bắt được nhu
cầu của thị trường, phát hiện ra các đối thủ cạnh tranh, thiết lập quan hệ trực tiếp với khách
hàng ở thị trường nước ngoài, tạo tiền đề để công ty thành lập chi nhánh sở hữu hoàn toàn
của mình tại nước ngoài.
Khó khăn của hình thức liên doanh:
Lợi nhuận bị phân chia do phải chia sẻ với cả đối tác nước ngoài.
Những khác biệt trong văn hóa kinh doanh và quản lý giữa các doanh nghiệp thành
viên sẽ dẫn đến các bất đồng như khó đi tới hòa nhập thành một chiến lược kinh doanh
chung cho toàn công ty, mục tiêu kinh doanh của từng bên có thể trái ngược nhau, từ đó
gây ra những rắc rối trong phối hợp và kiểm soát hoạt động của liên doanh. Đây chính là
nguyên nhân dẫn tới những bất đồng tiềm tàng trong nội bộ và nguy cơ hủy bỏ cam kết
giữa các thành viên.
Bất lợi chủ yếu trong liên doanh là vấn đề liên quan tới tỷ lệ góp vốn. Tỷ lệ góp vốn
có thể dẫn tới mâu thuẫn và tranh chấp quyền kiểm soát giữa các doanh nghiệp đầu tư. Nếu
đối tác nào chiếm dưới 50% vốn thì phải để cho đối tác chiếm đa số vốn quyền đưa ra
quyết định. Nếu hai bên chiếm 50 - 50 vốn trong hội đồng quản trị, sẽ rất khó khăn để đưa
ra quyết định một cách nhanh chóng, thậm chí là đưa được ra quyết định.
Trong trường hợp liên doanh giữa một bên là đối tác nước ngoài với một bên là đối
tác trong nước, khi kiến thức của đối tác nước ngoài về điều kiện thị trường địa phương
tăng lên, họ không muốn phụ thuộc vào đối tác trong nước nữa và muốn chấm dứt liên
doanh để thành lập doanh nghiệp 100% vốn của mình tại nước sở tại. Như vậy, quyền lực
của phía nước ngoài ngày càng gia tăng trong khi đó đối tác trong nước mất dần lợi thế và
dễ dẫn tới đổ vỡ liên doanh.
● Thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Khi thấy các điều kiện chín muồi cho việc khai thác các nguồn lực ở thị trường nước
sở tại, đồng thời mong muốn thực hiện mục tiêu củng cố vị trí của mình trên thị trường thế
giới, doanh nghiệp sẽ tiến hành thành lập doanh nghiệp độc lập tại thị trường nước ngoài.
Việc thành lập công ty con biểu thị sự chiếm lĩnh thị trường nước ngoài một cách vững
chắc của các doanh nghiệp. Các công ty con có tư cách pháp nhân đầy đủ, được quyền tiến
hành các hoạt động kinh doanh một cách độc lập nhằm khai thác tối đa những nguồn lực
và tăng tối đa lợi nhuận trên thị trường nước ngoài.
II.Khái niệm và dấu hiệu chuyển giá
1.Khái niệm của chuyển giá
- Theo nghĩa rộng: Chuyển giá là toàn bộ hoạt động định giá cho các giao dịch giữa
các công ty con của một công ty xuyên quốc gia khi các giao dịch nội bộ ngày càng phát
triển
- Theo nghĩa hẹp: Chuyển giá là việc các công ty lợi dụng việc định giá cao hơn hay
thấp hơn nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình mà không nghĩ đến quyền lợi của nhà nước.
Nhìn chung, chuyển giá là hoạt động chủ quan, cố ý của các tập đoàn, với mục đích tối
thiểu hóa số thuế phải nộp, tăng cường khả năng cạnh trạnh, chiếm lĩnh thị trường, loại bỏ
đối thủ cạnh tranh nhờ việc xác định các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ không đúng với giá
thị trường.
- Điểm khác biệt, giữa “chuyển giá” và “định giá chuyển giao”:
Định giá chuyển giao là việc tính toán giá chuyển giao giữa các bộ phận, hành vi tích cực
của một chính sách toàn cầu của tập đoàn nhằm phát triển, tăng cường quản lý hoạt động
đối với từng thành viên, định giá chuyển giao là khoa học quản lý tài chính kế toán của
những tập đoàn xuyên quốc gia.
- Các MNC có thể áp dụng nhiều kỹ thuật chuyển giá, trong đó có những kỹ thuật hết
sức tinh vi nhằm tránh thuế phải nộp. Về cơ bản, có hai hình thức chuyển giá là chuyển giá
trực tiếp và chuyển giá gián tiếp
+ Chuyển giá trực tiếp: thực hiện các đơn vị trực thuộc trong công ty, giữa công ty mẹ và
công ty con.
+ Chuyển giá gián tiếp: thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh thứ 3 đặt tại nơi có thuế
suất thuế TNDN thấp (thiên đường thuế – tax havens).
2. Dấu hiệu của chuyển giá
Các đối tác nước ngoài khi đầu tư vào một nước, thường đưa vào công ty liên doanh
những tài sản góp vốn là các sản phẩm cũ, lạc hậu, không đồng bộ, những công nghệ cũ.
Mục tiêu của các công ty đa quốc gia muốn đầu tư vào một thị trường mới, thực chất là
muốn tái tạo thêm vòng đời cho sản phẩm, vì vậy, họ chuyển giao toàn bộ những sản phẩm
cũ ở công ty mẹ sang những công ty con, hoặc công ty liên doanh, một mặt tiếm kiệm chi
phí đầu vào trong quá trình đầu tư ở nước tiếp nhận, mặt khác có thể thay thế công nghệ cũ
thành công nghệ mới, hiện đại ở công ty mẹ.
Lợi dụng quá trình chuyển giao công nghệ trong quá trinh đầu tư, các công ty đa quốc
gia tiến hành động cơ chuyển giá, đưa những sản phẩm cũ, công nghệ cũ trong quá trình
đầu tư nhưng lại kê khai cao hơn giá thực tế. Các FDI với sự hậu thuẫn của công ty mẹ
nước ngoài thường hạch toán các nguyên liệu vượt quá tiêu chuẩn dựa vào hóa đơn bán
hàng do công ty mẹ cấp
Vì vậy, làm tăng vị thế quan trọng, tăng chi phí khấu hao tài sản cố định một cách giả
tạo để công ty mẹ có thể thu một khoản lãi tại chính quốc, trốn thuế thu nhập tại nước tiếp
nhận
Định giá yếu tố đầu vào thấp hơn giá thị trường
Một số FDI khi xuất hàng ra khỏi lãnh thổ nước sỏ tại thường xuất về công ty mẹ hoặc
công ty con khác tại các nước có thuế suất, thuế thu nhập công ty thấp, với hóa đơn xuất
bán thấp hơn nhiều với giá thành hoặc một số dịch vụ thu tiền nước ngoài không được
phản ánh đúng doanh thu để giảm số thuế phải nộp tại nước này. Vì vậy giảm lợi tức phải
kê khai tại nước sở tại, trong khi số lợi tức này trên sổ sách của đơn vị được hiểu ngầm
rằng đã được bù trừ bởi số lãi đầu vào thu được từ việc khai khống.
Vậy vì sao doanh nghiệp có thể tồn tại yếu tố đầu vào kê khai cao, yếu tố đầu ra tiêu
thụ với giá thành thấp?
Trong ngắn hạn, mục tiêu của các công ty đa quốc gia không phải lợi nhuân mà giành
phần thắng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, xây dựng thương hiệu, loại bỏ đối thủ cạnh
tranh, họ có thể chấp nhận khoản lỗ trước mắt. Các khoản lỗ do công ty con gánh chịu
hoàn toàn có thể bù đắp bằng các khoản lãi mà nghiệp vụ định giá chuyển giao mang lại
cho công ty mẹ.
III. Động cơ chuyển giá của các công ty đa quốc gia
1. Động cơ bên ngoài
1.1. Tối đa hóa lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Nếu như trong ngắn hạn các công ty đa quốc gia theo đuổi mục tiêu giành phần thắng
trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, xây dựng thương hiệu, loại bỏ các đối thủ cạnh
tranh trước mắt, chèn ép các doanh nghiệp trong nước tiếp nhận đầu tư, chấp nhận chịu
những khoản lỗ trước mắt, thì mục tiêu dài hạn của các công ty đa quốc gia đó chính là lợi
nhuận. trong tất cả các giai đoạn, ngắn hạn hay dài hạn, họ đều sẵn sàng thực hiện hành vi
“ chuyển giá” để tối thiểu hóa số thuế phải nộp, tăng cường khả năng cạnh tranh, chiếm
lĩnh thị trường, và sau đó là thu lại lợi nhuận tối ưu nhất.
Lợi nhuận thu được ở những công ty con, đều được chuyển về công ty mẹ, để được
hưởng mức thuế ưu đãi, tránh đánh thuế thu nhập ở công ty con, vì vậy công ty mẹ thấu
tóm những công ty con, khiến những công ty con ngày càng phụ thuộc tài chính vào công
ty mẹ, đó chính là động cơ dành quyền kiểm soát và loại bỏ đối thủ cạnh tranh trên thị
trường.
Các công ty đa quốc gia thành lập nhiều chi nhánh ở nước tiếp nhận, vì vậy có hiện
tượng chuyển giá diễn ra trong nội bộ các chi nhánh, do lợi dụng chính sách ưu đãi của
Nhà nước, thành lập một số công ty con hoạt động trong những lĩnh vực địa bàn khác
nhau, trong đó có những lĩnh vực, địa bàn được ưu đãi thuế TNDN, từ đó tìm cách chuyển
lợi nhuận trước thuế từ DN không được ưu đãi thuế sang DN liên kết được ưu đãi thuế,
hoặc chuyển lợi nhuận trước thuế từ DN có lãi sang DN bị lỗ thông qua giá chuyển giao
sản phẩm và cung cấp dịch vụ giữa các bên để giảm thiểu nghĩa vụ thuế tổng hợp của cả
tập đoàn. Hành vi chuyển giá của DN liên kết không chỉ đơn thuần là việc điều chuyển lợi
nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp hơn để tránh thuế mà nó còn bao
gồm cả chiều ngược lại. Nguyên nhân chính là do công ty mẹ muốn thu hồi vốn nhanh
hoặc việc chuyển lợi nhuận để thực hiện chiến lược kinh doanh đã được công ty mẹ xây
dựng.
1.2.Tối đa hóa lợi nhuận từ hoạt động tài chính
Các công ty đa quốc gia hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần, công ty mẹ thành
lập nhiều chi nhánh ở nước nhận đầu tư. Năm đầu nhóm sẽ “hy sinh” một doanh nghiệp
bằng cách mua cổ phiếu của doanh nghiệp sắp lên sàn rồi bán ra rẻ hơn giá mua vào và
luân phiên 3-4 năm sau những doanh nghiệp khác cũng sẽ mua đắt bán rẻ như vậy cuối
cùng báo cáo tài chính của doanh nghiệp chuẩn bị lên sàn có đường biểu diễn lợi nhuận
tăng liên tục, nhà doanh nghiệp nhỏ lẻ thấy lợi nhuận doanh nghiệp đó tăng đều thì đổ vào
mua, đẩy giá cổ phiếu lên cao so với giá gốc. Sau một thời gian giao dịch bằng giá trị ảo,
cổ phiếu trở về giá trị thật thì doanh nghiệp gom được một khoản tiền không nhỏ từ nhà
đầu tư.
2. Động cơ bên trong
2.1. Để tạo ra một bức tranh tài chính tươi sáng hơn cho công ty khi đứng trước các cổ
đông và các bên hữu quan khác .
Khi các hoạt động sản xuất kinh doanh của MNC tại chính quốc hay tại các công ty
thành viên trên các quốc gia khác bị thua lỗ. Lý do dẫn đến sự thua lỗ có thể là do sai lầm
trong kế hoạch kinh doanh, sai lầm trong việc nghiên cứu và đưa sản phẩm mới vào thị
trường, các chi phí quản lý hay chi phí quảng cáo, quảng bá sản phẩm quá cao dẫn đến kết
quả kinh doanh bị thua lỗ.
Chuyển giá giúp cho các MNC san sẻ thua lỗ giữa các thành viên với nhau từ đó làm
giảm các khoản thuế phải nộp và tạo nên bức tranh kết quả kinh doanh giả tạo vi phạm
pháp luật của các quốc gia.
2.2.Chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh thị phần nhằm xây dựng nền móng ban đầu cho
hoạt động kinh doanh sau này.
Các MNC trong giai đoạn này sẽ tăng cường các hoạt động quảng cáo, quảng bá sản
phẩm làm cho giai đoạn này MNC sẽ bị lỗ nặng và kéo dài.
Trong các mối liên kết kinh doanh hay hợp tác kinh doanh thì các MNC sẽ dựa vào
tiềm lực tài chính hùng hậu của mình mà thực hiện các hành vi chuyển giá bất hợp pháp để
làm cho hoạt động kinh doanh thua lỗ kéo dài và chiếm lấy quyền quản lý và kiểm soát
công ty.
Tồi tệ hơn là đẩy các đối tác ra khỏi hoạt động kinh doanh và chiếm toàn bộ quyền
kiểm soát và chuyển quyền sở hữu công ty. Tình trạng này thường xảy ra phổ biến tại các
quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi mà trình độ quản lý còn yếu kém. Sau khi đánh
bật các các đối thủ và những bên liên kết kinh doanh ra khỏi thị trường thì MNC sẽ chiếm
lĩnh thị trường và nâng giá sản phẩm để bù lại phần chi phí trước đây đã bỏ ra.
Do được hưởng các đặc quyền, đặc lợi trong quá trình kêu gọi đầu tư của nước chủ
nhà và nắm trong tay các quyền về kinh tế chính trị và xã hội mà MNC xemcông ty con
đặt trên quốc gia này như là trung tâm lợi nhuận của cả MNC và thực hiện hành vi chuyển
giá để lại hậu quả đáng kể cho nước tiếp nhận đầu tư.
2.3. Giảm các rủi ro khi giao dịch
Do việc chuyển giao các sản phẩm và dịch vụ có tính đặc thù cao, độc quyền và tính
bảo mật cao như trong các ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, y
dược…
IV. Hình thức chuyển giá và thủ đoạn chuyển giá của công ty đa quốc gia
1. Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn
1.1. Đầu tư dưới dạng liên doanh
Việc nâng giá trị tài sản đóng góp sẽ làm cho phần vốn góp của bên phía có ý nâng giá
trị góp vốn tăng, nhờ đó, sự chi phối trong các quyết định liên quan đến hoạt dộng của
dự án liên doanh sẽ gia tăng và mức lời được chia sẽ tăng. Ngoài ra, khi dự án kết
thúc hoạt động thì tỷ lệ trị giá tài sản được chia cao hơn.
Thậm chí một số MNC góp vốn bằng các tài sản, máy móc, thiết bị, trong đó có rất
nhiều loại tài sản cũ, đã qua sử dụng, không hiệu quả, thậm chí bị cấm sử dụng ở nước
ngoài nhưng vẫn đưa vào thành lập doanh nghiệp với mức giá khai báo rất cao mà cơ quan
quản lý trong nước không thể xác định được.
Việc góp vốn bằng thương hiệu là một hiện tượng đã và đang diễn ra, nhưng đến nay
vẫn chưa có quy định nào hướng dẫn cụ thể việc định giá và ghi nhận giá trị này. Thương
hiệu mà các MNC đã xây dựng ở nước công ty mẹ sẽ được đem đễn nươc nhận đầu tư, giá
trị thương hiệu của công ty mẹ “áp” cho công ty con khá lớn, chứ không dừng lại ở vài
trăm triệu đồng hay một vài tỷ đồng. Có lẽ vì thế mà các MNC ngày càng sử dụng chiêu
bài này để nâng cao giá trị tài sản vốn góp.
1.2. Đối với các công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài
Việc nâng tài sản góp vào sẽ tăng tăng mứckhấu hao tài sản cố định, do đó sẽ giúp chủ
đầu tư:
• Nhanh hoàn vốn đầu tư cố định, nhờ đó giảm thiểu rủi ro đầu tư.
• Giảm mức thuế TNDN phải đóng cho nước tiếp nhận đầu tư.
2. Chuyển giá bằng cách nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu chuyển
giao…(tài sản vô hình)
Chuyển giao công nghệ được thực hiện qua nhiều kênh. Hai kênh chính là hợp đồng
công nghệ (licensing arrangement, LA) và đầu tư trực tiếp (foreign direct investment,
FDI). Trong kênh LA, thông thường chỉ có công nghệ sản xuất hay công nghệ cứng
được chuyển giao và chỉ chuyển giao một lần. FDI thì bao gồm cả công nghệ sản xuất
và tri thức quản lý, kinh doanh, MNCs thực hiện FDI là chuyển giao trọn gói tất cả các
loại công nghệ và tư bản, và được gọi chung là chuyển giao các nguồn lực kinh
doanh (managerial resources). FDI có thể thực hiện bằng việc lập công ty liên doanh
giữa MNCs với công ty tại bản xứ hoặc lập công ty 100% vốn nước ngoài. Công nghệ
được chuyển giao qua FDI do đó là hình thức chuyển giao trong nội bộ MNCs (từ
công ty mẹ sang công ty con).
Công nghệ là một hàng hoá có đặc tính là thông tin không đối xứng, nghĩa là người
bán và người mua không có cùng một thông tin, một sự hiểu biết về giá trị của công
nghệ nên thị trường về công nghệ khó thành lập hoặc được thành lập với phí tổn giao
dịch cao đối với công ty cung cấp công nghệ. Do đó, MNCs có khuynh hướng chọn
hình thái FDI hơn là LA để tránh phí tổn giao dịch. Đặc biệt trong trường hợp công
nghệ thuộc loại tối tân, MNCs có khuynh hướng chọn FDI để tránh trường hợp bí
quyết lọt ra bên ngoài. Tuy nhiên, đối với công nghệ đã được tiêu chuẩn hoá và do đó
dễ mô phỏng, phí tổn giao dịch thấp, MNCs cũng có khuynh hướng chọn hình thái
LA. Thêm nữa, khi đối tác là những công ty tại các nước đương có nhiều rủi ro (về xã
hội, chính trị), MNCs chọn LA hơn là FDI.
MNCs thâm chí còn kê khai giá thành của công nghệ chuyển giao đó cao hơn rất nhiều
lần so với giá trị thực của nó.
Việc định giá chính xác được tài sản vô hình của các nhà đầu tư hết sức khó, lợi dụng
việc này mà các MNC chủ ý thổi phồng phần góp vốn bằng thương hiệu, công thức
pha chế, chuyển giao công nghệ… nhằm tăng phần góp vốn của mình lên.
Một số trường hợp phía góp vốn bằn tài sản vô hình có xuất trình gấy chứng nhận của
công ty kiểm toán nhưng độ tin cậy, trung thực của các giấy chứng nhận này rất khó
kiểm định.
3. Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc từ công ty đối tác
với giá cao.
• Đây là hình thức chuyển một phần lợi nhuận ra nước ngoài thông qua việc thanh toán
tiền hàng nhập khẩu các hàng hóa đầu vào được MNC nhập từ công ty mẹ với lý do
“hàng hóa chuyển giao nội bộ với công nghệ, kĩ thuật cao, chất lượng đảm bảo, nhằm
tạo mối liên kết trong hệ thống” . Chính vì thế khi ký kết các hợp đồng kinh doanh với
đói tác tại nước nhận đầu tư ( đôí với doanh nghiệp FDI) hay khi làm các thủ tục với
Chính phủ khi đầu tư mới, các MNC thường đòi hỏi mức nhập khẩu hàng hóa từ công
ty mẹ rất cao.
• Không những thế các MNC còn thực hiện chiến lược “ giao dịch toàn cầu hóa” để hình
thành trên nhiều quốc gia một mạng lưới hoạt động trực thuộc công ty mẹ. Các công ty
này sẽ được phân tán các lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra giá trị vị trí tối ưu của nó trên
thế giới. Như vậy một bộ phận của sản phẩm có thể dược thiết kế tại một quốc gia, một
số thành phần khác của nó lại được sản xuất ở quốc gia thứ hai, các thành phần khác
lại được sản xuất ở quốc gia thứ ba, tất cả được lắp ráp tại một quốc gia thứ tư, thứ
5… và sau đó được bán trên toàn thế giới. Khối lượng hàng hóa giao dịch như vậy là
rất lớn. Vấn đề đặt ra ở đây là: hàng hóa và dịch vụ chuyển giao như giữa các công ty
con trong nội MNC nên có giá la bao nhiêu( giá chuyển nhượng)? Lợi dụng vào việc
khó đặt giá cũng như kiểm định, các MNC thường kê khai giá chuyển nhượng rất cao
so với giá thực tế hàng hóa đó.
• Từ đó việc mua hàng nhập khẩu với giá đắt làm chi phí sản xuất tăng, dẫn tới lợi
nhuận chịu thuế TNDN giảm. Các MNC đã rất khôn khéo chuyển lợi nhuận thông qua
hình thức nhập khẩu hàng hóa.
4. Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết giá mua bán hàng hóa
Khi thuế nhập khẩu cao thì công ty mẹ bán nguyên liệu, hàng hóa với giá thấp nhằm
tránh nộp thuế nhập khẩu nhiều. Trong trương hợp này, công ty mẹ sẽ tăng cường hoạt
động tư vấn, huấn luyện, hỗ trợ tiếp thị với giá cao để bù đắp lại hoạc mua lại sản phẩm
với giá thấp. Đối với hàng hooas nhập khẩu mà thuế suất thấp thì công ty ký hợp đồng
nhập khẩu với giá cao nhằm nâng cao chi phí đánh thuế.
Thực tế là nhiều công ty con sinh ra để hố trợ cho công ty mẹ bằng nhiều hình thức,
thủ đoạn đa dạng. Mối quan hệ mẹ - con có xu hướng bị phân cấp. Công ty con phụ thuộc
phần lớn vào công ty mẹ. Công ty mẹ thường có quyền quyết định và thương lượng áp
đảm công ty con. Chính vì thế nó kéo theo một điều: công ty con có xu hướng hy sinh lợi
nhuận của họ cho các công ty mẹ.
Lợi dụng vào điều đó các MNC sẽ thực hiện điều tiết giá cả mua bán hàng hóa sao cho
lợi nhuận thu về đạt cao nhất.
5. Nâng chi phí cho các dịch vụ hành chính và quản lý và dịch vụ tư vấn kỹ thuật
đặc biệt.
Các công ty đa quốc gia khi đầu tư vào nước sở tại, bên cạnh việc họ chuyển giao công
nghệ, dây chuyền kỹ thuật sản xuất sang nước nhận đầu tư, đồng thời nước nhận đầu tư
buộc phải thuê những chuyên gia tư vấn ở bên công ty mẹ với giá rất cao.
Các chuyên gia tư vấn này thường là các công ty thành viên hay những công ty có mối
liên hệ với công ty mẹ. Có những trường hợp công ty liên doanh còn bị ép nhận chuyên gia
với chi phí cao mà không hiệu quả, do chuyên gia này là chuyên gia lâu năm do một tập
đoàn và bị dôi ra ở công ty mẹ, vì lý do nào đó được chuyển sang nước nhận đầu tư làm
chuyên gia, và nước nhận đầu tư phải chịu chi phí này.
Dịch vụ tư vấn kỹ thuật thường áp dụng trong nước tiếp nhận đầu tư cao như trong
ngành dầu khí, các ngành khác đòi hỏi kỹ thuật cao, lợi dụng điểm yếu này của nước tiếp
nhận, công ty mẹ nâng giá các loại chi phí đó, và công ty con buộc phải chấp nhận.
Một thủ đoạn chuyển giá khá phổ biến của các công ty đa quốc gia đó là: như đã biết
sản phẩm của các công ty đa quốc gia là sản phẩm cuối cùng, là mặt hàng dùng ngay được,
nhưng để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng đó, cần phải trải qua nhiều dây chuyền sản xuất,
nhiều khâu trung gian. Mỗi mắt xích dây chuyền sản xuất là một công việc kinh doanh
riêng biệt, vì vậy tồn tại những “khe hở” trong dây chuyền sản xuất chính là cơ hội chuyển
giá giữa các công ty có quan hệ với nhau.
6. Nâng chi phí bản quyền và các chi phí tài sản vô hình
Lợi thế cạnh tranh của một công ty đa quốc gia khi tiến hành đầu tư vào nước tiếp
nhận đầu tư, so với các tập đoàn trong nước tiếp nhận đó là: bản quyền, bí quyết công
nghệ, bằng phát minh, sáng chế, được chính phủ nước tiếp nhận bảo vệ độc quyền
Lợi dụng điều đó các công ty mẹ nâng khống giá, nhằm thu lại lợi nhuận từ những tài
sản vô hình đó
Ngoài ra, các chi phí quảng cáo thường rất lớn, nhưng thường là những công ty liên doanh
hay các công ty con phải chi ra, nhưng sản phẩm quảng cáo lại là của công ty mẹ. Vì vậy,
công ty liên doanh cứ lỗ dần đi trong khi thương hiệu của công ty mẹ vẫn tồn tại và phát
triển. Đó là một trong những thủ đoạn thâu tóm các công ty liên doanh, khiến các công ty
liên doanh ngày càng phụ thuộc tài chính vào công ty mẹ, đồng thời công ty mẹ đã loại bỏ
được nhiều cổ đông lớn, dần dần nắm bắt quyền sở hữu tối đa (100% công ty có vốn đầu
tư nước ngoài).
7. Chuyển giá qua nguồn tài trợ bằng vốn vay từ công ty mẹ
Chuyển giá thông qua tài trợ các nghiệp vụ như: cho doanh nghiệp FDI ở nước tiếp nhận
đầu tư vay vốn từ một công ty liên kết (một công ty con khác hoặc vay từ công ty mẹ) với
mức lãi suất cao hơn lãi suất bình thường, bằng cách tạo ra cơ cấu và nguồn vốn bất hợp
lý, đẩy chi phí hoạt động tài chính lên cao, bên cạnh đó chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí
lãi vay cao và chuyển một phần lợi nhuận dưới lãi vay về nước, để tránh thuế thu nhập
doanh nghiệp và lỗ do chênh lệch tỷ giá về sau
Ngay khi cả doanh nghiệp vay của một ngân hàng nước ngoài do công ty mẹ bảo lãnh vẫn
có thể xảy ra hiện tượng chuyển giá. Vì một số giao dịch giữa công ty mẹ và ngân hàng
nước ngoài sẽ được tính giá rất thấp và bù đắp bằng cách nâng lãi suất cho vay cao hơn
bình thường, phần này sẽ được gửi vào phần lãi vay thu từ hoạt động cho vay của ngân
hàng nước ngoài với công ty trong nước.
8. Chuyển giá khi khống chế giá ghi trên hóa đơn
Hiện tượng này xảy ra thường xuyên, khá phổ biến, nhưng vẫn chưa có cách quản lý và
thắt chặt cụ thể của các cơ quan thuế. Vì tính chất định tính của hóa đơn
Hiện tượng viết hóa đơn liên 1 khác liên 2, đối với các khu vức doanh nghiệp không còn
phổ biến như trước, do rất dễ bị phát hiện do việc xác minh hóa đơn. Tuy nhiên, một số
hành vi khác phát sinh cũng rất khó kiểm soát.
Cụ thể, các công ty này không kê khai hàng hóa dịch vụ mua vào, đồng thời cũng không
kê khai doanh thu. Hành vi này rất khó phát hiện, vì ngay cả thông qua xác minh hóa đơn,
xác suất phát hiện cũng rất thấp, nhiều đối tượng bán hành trực tiếp cho người tiêu dùng
không lấy hóa đơn, hoặc có ghi hóa đơn nhưng qua xác minh không xác định được người
mua. Hoặc trường hợp xác định được người mua thì lại không lưu giữ hóa đơn, với nhiều
lý do. Vì vậy, doanh thu phản ánh trên sổ sách hóa đơn chắc chắn không phù hợp với thực
tế kinh doanh. Hành vi này cũng rất khó kiểm soát, do cơ quan thuế không thể hàng ngày
dám sát việc bán hàng của doanh nghiệp, và cũng do chưa có cơ chế quản lý giá, đặc biệt
là các công ty hoạt động trong lĩnh vực: du lịch, dịch vụ, vận tải, khách sạn.
V. Ảnh hưởng của chuyển giá trong nền kinh tế
1. Tác động đối với MNCs
• Tác động tích cực:
Được hưởng lợi từ chính sách ưu đãi đầu tư (như lãi suất thuế, lĩnh vực đầu tư ) tạo
điều kiện cho các MNC dễ dàng trong việc thực hiện giảm thiểu trách nhiệm ở quốc gia
MNC đang đầu tư
Thực hiện chuyển giá, các MNC sẽ bảo toàn được nguồn vốn đầu tư, nhanh chóng có
được dòng ngân lưu cho các cơ hội đầu tư khác
Thực hiện chuyển giá sẽ giúp các MNC nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường ở các nước
đang đầu tư, thâu tóm được các đối thủ cạnh tranh, và nhanh chóng dành vị trí độc quyền
trong công ty liên doanh
• Tác động tiêu cực
Nếu bị các quốc gia phát hiện và thực hiện chế tài thì các MNC phải chịu một khoản
phạt rất lớn, bị rút giấy phép kinh doanh tại quốc gia đó hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng trên
thương trường quốc tế dẫn tới sự chú ý nhiều và chặt chẽ hơn các cơ quan thuế ở hững
nước MNC đi đầu tư sau đó.
2. Đối với các quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư
• Tác động tích cực
Khi có các hoạt động chuyển giá ngược, do nước thu hút đầu tư có mức thuế thu nhập
thấp làm tăng thu nhập cho nước tiếp nhận vốn
• Tác động tiêu cực
Cơ cấu vốn của nền kinh tế ở quốc gia tiếp nhận vốn sẽ bị đột ngột thay đổi do việc
thực hiện hành vi chuyển giá của các MNC làm các luồng vốn chảy vào nhanh mạnh, sau
đó lại bị có xu hướng chảy ra trong thời gian ngắn. Hậu quả là tạo ra một bức tranh kinh tế
bị sai lệch ở các quốc gia trong thời kỳ khác nhau.
Đối với các quốc gia được coi là thiên đường về thuế, họ là người được hưởng lợi từ
hoạt động chuyển giá trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn, họ phía đương đầu với các khó
khăn tài chính khi các MNC thoái vốn do các thu nhập không bền vững trước đây của
ngắn hạn không phản ánh chính xác sức mạnh của nền kinh tế.
Với việc thực hiện hành vi chuyển giá và thao túng thị trường, chính phủ các nước
tiếp nhận đầu tư sẽ khó khăn trong việc thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước phát triển.
Hoạt động chuyển giá sẽ phá vỡ các cân thanh toán quốc tế và các kế hoạch kinh tế
của các quốc gia tiếp nhận đầu tư, chính vì thế nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ dấn tới lệ
thuộc vào nền kinh tế cuả chính quốc, lâu dài có thể dẫn tới lệ thuộc về chính trị.
Gây thất thu thuế ở nước tiếp nhận, đồng thời chèn ép các doanh nghiệp kinh doanh
cùng một ngành, sản phẩm.
3. Đối với các quốc gia xuất khẩu đầu tư
• Tác động tích cực
Nước xuất khẩu vốn thu được ngoại tệ nhiều hơn nhờ đó góp phần cải thiện cán cân
thanh toán thương mại, các cân thanh toán quốc tế. Sự hoạt động của các công ty mẹ tốt
hơn về hình thức thì cũng tác động tốt hơn đến hiệu quả kinh tế xã hội: đóng góp nhiều
thuế cho nhà nước, tác động tốt tới các tăng trưởng GNP của nước xuất khẩu vốn đầu tư.
• Tác động tiêu cực
Nếu thuế suất ở các quốc gia tiếp nhận đầu tư thấp hơn thuế suất ở chính quốc, sẽ làm
cho các nước xuất khẩu đầu tư bị mất cân đối trong kế hoạch thuế của nước này do việc
thất thu một khoản thu nhập từ thuế.