Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ quốc tế Hợp tác tiền tệ ở Đông Á từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997-1998

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.66 KB, 18 trang )

Đề tài: Hợp tác tiền tệ ở Đông Á từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997/1998
I. Hợp tác tiền tệ ở Đông Á từ sau khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997/1998
Dự định về hợp tác tài chính - tiền tệ Đông Á (bao gồm các nước ASEAN và Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) đã được thai nghén từ khá lâu. Đến tháng 12/1997, các nhà
lãnh đạo ASEAN và các đối tác từ Đông Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc tổ
chức Hội nghị Thượng đỉnh không chính thức bên lề Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần
thứ hai tại Malaysia thì hợp tác tài chính - tiền tệ Đông Á chính thức ra đời. Đặc biệt,
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á 1997-1998 đã thúc đẩy tiến trình hợp tác tiền
tệ ở Đông Á và Hội nghị cấp cao ASEAN + 3 (ASEAN + Nhật Bản + Trung Quốc + Hàn
Quốc). Năm 1999 hội nghị này đã thông qua Tuyên bố chung về hợp tác Đông Á. Cơ chế
hợp tác ASEAN + 3 đã được hình thành.
Kể từ đó đến nay, theo tiến trình Đông Á sẽ trải qua nhiều hình thức hợp tác tài
chính - tiền tệ từ thấp đến cao cùng với sự thay đổi các điều kiện bên trong và bên ngoài
khu vực. Trong ngắn hạn, mục tiêu của các quốc gia là bình ổn tỷ giá hối đoái và các hợp
đồng hoán đổi (swap) tiền tệ để cung cấp khả năng thanh khoản quốc tế trong trường hợp
cần thiết. Với mục đích này, hợp tác tiền tệ Đông Á được thực hiện chủ yếu thông qua
các cơ chế đối thoại chính sách và giám sát kinh tế vĩ mô và các cơ chế hoán đổi tiền tệ
được xác lập trong khuôn khổ ASEAN + 3. Trong trung hạn, các quốc gia sẽ tính đến
việc thiết lập cơ chế chung cho hợp tác tài chính tiền tệ khu vực nhằm ổn định tỷ giá hối
đoái chắc chắn hơn. Tiếp theo, các quốc gia sẽ xây dựng Quỹ trái phiếu Châu Á và thị
trường trái phiếu khu vực. Cuối cùng, một Liên minh tiền tệ Châu Á là đề xuất quan
trọng để các quốc gia Châu Á đi đến đích hợp tác tiền tệ của mình.
1. Các cơ chế đối thoại chính sách và giám sát kinh tế vĩ mô
1.1 Nhóm khuôn khổ Manila (Manila Framework Group - MFG)
Nhóm khuôn khổ MFG được thành lập vào tháng 11/1997. Thành viên của MFG
bao gồm các thứ trưởng tài chính và phó thống đốc Ngân hàng trung ương (NHTW) của
14 nước trong và ngoài khu vực (ASEAN+3) và đại diện của ADB, IMF, BIS và WB.
MFG đã thành lập một cơ chế giám sát khu vực bổ sung cho cơ chế giám sát toàn cầu của
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Cơ chế này đã tạo lập một hệ thống giám sát khu vực tập trug
tại các cuộc đối thoại giữa các nước thành viên. Mục đích của MFG là phát triển một
khuôn khổ hợp tác tài chính khu vực nhằm khôi phục và tăng cường ổn định tài chính


trong khu vực. MFG đã đề xuất như thiết lập một cơ chế mới cho giám sát khu vực nhằm
1
bổ sung cho cơ chế giám sát toàn cầu của IMF; thúc đẩy sự hợp tác kinh tế và kỹ thuật,
thúc đẩy việc củng cố các hệ thống tài chính nội địa và khả năng điều tiết; củng cố năng
lực của IMF trong việc đối phó với khủng hoảng; phát triển các thỏa thuận hợp tác tài trợ
khu vực nhằm bổ sung cho nguồn lực của IMF.
MFG đã duy trì các cuộc gặp gỡ bán thường niên từ năm 1997 đến năm 2001 và
mỗi năm một lần từ 2002 đến 2004. Tuy nhiên, mọi hoạt động của MFG đã không đạt
được mục đích đề ra ban đầu nên đến năm 2004 MFG đã chấm dứt hoạt động.
1.2 Quy trình giám sát của ASEAN (ASEAN Surveillance Process) và Quy
trình giám sát ASEAN+3 (ASEAN+3 Surveillance Process) - AASP
Quy trình giám sát ASEAN (ASP) được thực hiện từ tháng 10/1998 khi các Bộ trưởng tài
chính của ASEAN ký kết “Thỏa thuận sơ bộ về hợp tác khu vực”. ASP là nỗ lực đầu tiên
của các quốc gia trong khu vực nhằm tạo ra các cơ chế cho việc trao đổi thông tin, đối
thoại chính sách và phản ứng lại các vấn đề có ảnh hưởng tiêu cực. Mục đích của ASP là
tăng cường đối thoại chính sách và năng lực hoạch định chính sách tiền tệ, tài khóa và
các khu vực tài chính thông qua trao đổi thông tin, kiểm điểm ngang hàng và kế hoạch
hành động ở cấp quốc gia và khu vực. ASP có nhiệm vụ theo dõi sự phát triển kinh tế vĩ
mô, các luồng vốn, tỷ giá hối đoái và các chính sách xã hội và khu vực. Ngoài ra, ASP
còn hỗ trợ xây dựng năng lực, củng cố thể chế và chia sẻ thông tin trong khu vực.Các bộ
trưởng tài chính ASEAN gặp nhau 2 lần trong năm để phối hợp chính sách trong khuôn
khổ ASP. Cùng với sự phát triển hợp tác trong khu vực, ASP đã được mở rộng sang các
nước Trung Quốc, Nh ật Bản và Hàn Quốc khi ASEAN+3 được chính thức hóa vào tháng
11/1999 tại Manila. Việc mở rộng ASP thành quy trình Giám sát ASEAN+3 là một bước
đi đúng hướng nhằm tăng cường hơn nưa sự hợp tác trong khu vực. Tuy nhiên, cả hai quy
trình này đều chưa phát huy được vai trò giám sát của mình. Các báo cáo giám sát còn
chưa được thống nhất giữa các nước thành viên, gây khó khăn cho việc đánh giá các vấn
đề ở khu vực. Quá trình giám sát này được Manupipatpong (2002) đánh giá là rất hình
thức, không hiệu quả vì Chính phủ các nước không hợp tác đầy đủ và vì chất lượng báo
cáo gốc từ một số nước thành viên là rất thấp, không đủ tin cậy.

1.3 Quy trình đối thoại chính sách và kiểm điểm kinh tế ASEAN +3
(ASEAN+3 Economic Review and Policy Dialogue Process)
Để thúc đẩy hơn nữa hợp tác tài chính – tiền tệ khu vực, trong cuộc họp tháng
11/1999 các Bộ trưởng tài chính đã khẳng định sự cần thiết “tăng cường khả năng tự tài
trợ và các cơ chế tài trợ ở Đông Á thông qua khuôn khổ ASEAN + 3”. Tiếp theo đó, vào
2
tháng 5/2002, các nước ASEAN + 3 đá thống nhất Quy trình kiểm điểm kinh tế và đối
thoại chính sách ASEAN+3 (ERPD) thông qua việc thúc đẩy đối thoại và phối kết hợp
chính sách về những vấn đề tài chính – tiền tệ trên cơ sở những lợi ích chung. Quy trình
này tập trung vào những vấn đề như quản lý rủi ro kinh tế vĩ mô, quản lý công ty, theo
dõi sự di chuyển dòng vốn trong khu vực, củng cố hệ thống tài chính – ngân hàng, cải
cách hệ thống tài chính quốc tế và thúc đẩy việc thiết lập một hệ thống tự tài trợ Đông Á.
Với quy trình này, ERPD chưa thực sự có được hiệu quả như mong muốn. Hiện tại
không có ban thư ký nhằm trợ giúp cho hoạt động của quy trình cũng như chưa có thể
chế (ngoài ADB) cung cấp đầy đủ dữ liệu cho quy trình.
2. Các cơ chế hoán đổi tiền tệ
2.1 Mở rộng Thỏa thuận hoán đổi ASEAN (ASA)
Hoạt động hoán đổi tiền tệ giữa các nước ASEAN được thực hiện thông qua Quỹ
hoán đổi tiền tệ ASEAN và hệ thống hoán đổi đa phương giữa các nền kinh tế Đông Á
trong khuôn khổ Thỏa thuận đa phương hóa Sáng kiến Chiang Mai (CMIM). Thỏa thuận
hoán đổi ASEAN (ASA) được thành lập vào tháng 8/1997 do 5 thành viên sáng lập
ASEAN là Indonesia, Malaysia, Philipin, Singapore, Thái Lan với mục đích cung cấp các
phương tiện tài chính hoán đổi ngắn và trung hạn cho các nước thiếu hụt các phương tiện
thanh khoản ngắn hạn hoặc gặp khó khăn trong cán cân thanh toán. Tổng giá trị đóng góp
ban đầu của ASA là 100 triệu USD. Đến năm 1999 có thêm các nước thành viên mới
tham gia Quỹ hoán đổi tiền tệ là Việt Nam, Là, Campuchia và Myanmar. Quỹ này cho
phép các thành viên vay mượn bằng đồng USD, yên Nhật hay Euro. Nghĩa vụ đóng góp
được xác định cho từng nước và mức tối đa mà mỗi nước có thể vay sẽ không vượt quá
hai lần mức đóng góp của mỗi nước. Tuy nhiên nguồn vốn của ASA còn quá nhỏ so với
nhu cầu, khoảng 2,5 tỷ USD vào năm 2005. Vì vậy ASA không thể cung cấp một lượng

tín dụng có ý nghĩa cho các thành viên của mình khi các nước đó gặp khó khăn trong tài
chính. Do đó, ASA cũng chưa thực hiện được mục tiêu là một phương tiện tài chính hoán
đổi ngắn và trung hạn hiệu quả cho các nước thiếu hụt phương tiện thanh khoản ngắn hạn
hoặc gặp khó khăn trong cán cân thanh toán.
2.2 Thiết lập mạng lưới hoán đổi song phương cũng như các Thỏa thuận Mua
lại giữa các nước ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Bên cạnh việc mở rộng ASA, tháng 11/2000, 3 nước Đông Bắc Á là Nhật Bản,
Trung Quốc và Hàn Quốc cũng đã bắt đầu các cuộc đàm phán về Các Thỏa thuận hoán
3
đổi song phương (BSA) với ASEAN. Với BSA cung cấp thể thức tài trợ ngắn hạn dưới
dạng hoán đổi USD với các đồng tiền nội địa của các nước tham gia thỏa thuận. Thời hạn
hoán đổi lên tới 90 ngày, được gia hạn tối đa 7 lần và với mức lãi suất tương đương với
lãi suất Libor cộng với 150 điểm phần trăm cho lần rút vốn đầu tiên và lần gia hạn đầu
tiên. Sau đó điểm gia tăng sẽ tăng thêm 50 điểm phần trăm trong các đợt gia hạn thứ hai,
thứ tư và thứ sáu nhưng không được quá 300 điểm phần trăm. Khác với ASA, lượng tiền
tối đa có thể rút ra dưới mỗi BSA được xác định tùy thuộc vào hợp đồng giữa các bên và
việc đàm phán về các BSA được thực hiện song phương trên cơ sở các nguyên tắc đã
được thống nhất. Tuy nhiên, mạng lưới BSA không có một cơ quan điều phối chung để
giám sát tình hình kinh tế trong các nước thành viên cũng như không có các nguyên tắc
chung đối với việc vay mượn.Việc sử dụng các đồng tiền khu vực trong các thỏa thuận
hoán đổi cũng hạn chế đáng kể khả năng hỗ trợ các nước thành viên.
Hệ thống BSA của Sáng kiến Chiang Mai (CIM) gồm 3 nhóm hay 3 bên hợp đồng
tham gia: giữa các nước Đông Á, giữa các nước thành viên ASEAN hay giữa các nước
Đông Bắc Á và các nước thành viên ASEAN. Các BSA bao gồm các thỏa thuận hoán đổi
một chiều một bên hợp đồng là nước cung cấp hoán đổi và bên còn lại là nước yêu cầu
hoán đổi; hoán đổi hai chiều nghĩa là các bên tham gia hợp đồng có thể là vừa là nước
yêu cầu hoán đổi vừa là nước cung cấp hoán đổi. Kết quả là đến tháng 4/2009, CMI đã
được hoàn thành bằng 16 ký kết BSA với tổng giá trị là 90 tỷ đô la.
Như vậy với việc thiết lập hệ thống BSA giữa các nước ASEAN+3, CMI đã đưa ra
một tín hiệu rõ ràng đối với thị trường tài chính về khả năng trợ giúp tín dụng ngắn hạn

khi một sự thiếu hụt xảy ra.
2.3 Đề xuất thiết lập Thỏa thuận tài trợ khu vực và xây dựng hệ thống cảnh báo
sớm ở Đông Á
Theo như “Thỏa thuận tài trợ khu vực” khuyến cáo mỗi một NHTW cần trích ra
một khoản tiền từ dự trữ ngoại hối của họ để góp vào một quỹ chung cùng với 12 NHTW
khác trên cơ sơ tỷ lệ thuận (Pro rata basis) và được xác định một cách công bằng hợp lý.
Quỹ đó được sử dụng với hai mục đích: nâng cao vai trò của các đồng tiền nội địa và
giảm vai trò của các đồng tiền nước ngoài trong khu vực; cho phép mỗi nước vay được
nhiều hơn rất nhiều so với khoản tiền mà họ đóng góp. Đề xuất này của CMI đã giúp cho
các nước trong khu vực được lợi hơn và sử dụng hiệu quả hơn lượng dự trữ ngoại tệ, vốn
đang tăng lên của mình. Việc xây dựng một quỹ dự trữ ngoại tệ chung sẽ giúp các nước
4
giảm thiểu được chi phí cơ hội trong việc duy trì một lượng dự trữ ngoại tệ lớn.
Ngu ồn: World Development Indicators (tr ực tuy ến) c ủa Ngân hàng Th ế gi ới
Bảng 1: Tổng dự trữ chính thức của các nước ASEAN + 3
1997 2000 2003 2006 2008
PRC 146,4 171,8 416,2 1080,8 1946
HongKong, China 92,8 107,6 118,4 133,2 182,5
Indonesia 17,5 29,4 36,3 42,6 51,6
Japan 226,7 361,6 673,6 895,3 1030,8
Korea 20,5 96,3 155,5 239,1 201,5
Malaysia 21,5 28,7 44,3 82,9 92,2
Philippines 8,7 15,1 17,1 23,0 37,5
Singapore 71,4 80,2 96,2 136,3 174,2
Thailand 26,9 32,7 42,2 67,0 111,0
Nguồn: World Bank, World Development Indicators (Online through the Global
Development Network)
Song song với đó, một nhóm nghiên cứu được thành lập nhằm xây dựng một
Phòng theo dõi hoặc giám sát với nhiệm vụ thực hiện thành công những đề xuất của Sáng
kiến Chiang Mai (CMI). Phòng này có trách nhiệm giám sát: khả năng thanh khoản cũng

như các nền tảng kinh tế cư bản của những thành viên; áp dụng những chuẩn mực chung
các nước đã thống nhất; khả năng thực thi và cải cách chính sách; phối hợp và hài hòa
các chính sách kinh tế vĩ mô giữa các thành viên.
Tuy nhiên theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, Phòng theo dõi giám sát của
CMI hoạt động chưa hiệu quả. Công tác giám sát còn lỏng lẻo và chưa đạt được mục tiêu
là một hệ thống cảnh báo sớm nhằm đảm bảo ổn định tài chính cho khu vực và các nước
thành viên CMI.
CMI đã đạt được một số mục đích giúp các nước trong khu vực sử dụng hiệu quả
hơn lượng dự trữ ngoại tệ của mình đồng thời đưa ra một tín hiệu rõ ràng đối với thị
trường tài chính về khả năng trợ giúp tín dụng ngắn hạn một khi sự thiếu hụt xảy ra. Tuy
nhiên, những hình thức hợp tác trong CMI còn có hạn ché như lượng tài trợ ban đầu là rất
nhỏ, cơ chế giám sát riêng không hiệu quả và một hạn chế lớn là CMI không đề cập đến
5
vấn đề phối hợp chính sách tỷ giá hối đoái trong khi diều này đặc biệt quan trọng trong
điều kiện thương mại nọi bộ khu vực gia tăng: vốn được tự do di chuyển và các nước lại
thực hiện các chế độ tỷ giá hối đoái khác nhau. Vì vậy, những kết quả đạt được trong hợp
tác sau CMI chỉ có tác dụng quản lý khủng hoảng chứ chưa có tác dụng phòng ngừa
khủng hoảng. Hợp tác tài chính - tiền tệ khu vực chưa thực sự được thể chế hoá và thiếu
một thể chế chung để tư vấn, theo dõi, giám sát và điều tiết các quan hệ hợp tác trong khu
vực.Chính vì vậy mà các nước ASEAN+3 đã đề xuất ý tưởng Đa phươ ng hóa sáng kiến
Chiang Mai vào năm 2007 tại Hội nghị các Bộ trưởng tài chính ASEAN+3 lần thứ 10.
2.4 Đa phương hóa Sáng kiến Chiang Mai (CMIM)
Tháng 2/2009, ASEAN+3 đã ký hiệp định CMIM đánh dấu một sự phát triển mới
về nâng cao Thỏa thận hỗ trợ tài chính trên cả chiều rộng và chiều sâu. CMIM thống nhất
các quỹ hoán đổi tiền tệ song phương, đồng thời xác lập các nguyên tắc chung cho việc
giải ngân và thanh toán. Nguồn vốn của quỹ hoán đổi tiền tệ đã tăng lên rõ rệt. Mức cam
kết của các nước và hệ số vay đã được ASEAN+3 thống nhất như sau:
Bảng 2: Cam kết đón góp của các nước vào CMIM và Hệ số vay
(số tiền được vay = mức đóng góp nhân với hệ số vay)
Cam kết đóng góp về tài chính Hệ số vay

USD (tỷ) (%)
Trung Quốc 38,40 Trung Quốc (không bao gồm
Hồng Kong) 34,2
32,00 28,50 0,5
Hồng Kong 4,20 3,50 2,5
Nhật Bản 38,40 32,00 0,5
Hàn Quốc 19,20 16,00 1,00
ASEAN+3 96,00 80,00
Indonesia 4,77 3,97 2,5
Thái Lan 4,77 3,97 2,5
Malaysia 4,77 3,97 2,5
Singapore 4,77 3,97 2,5
Philipines 3,68 3,07 2,5
Việt Nam 1,00 0,83 5,0
6
Campuchia 0,12 0,10 5,0
Myanmar 0,06 0,05 5,0
Brunei 0,03 0,02 5,0
Lào 0,03 0,02 5,0
ASEAN 24,00 20,00
Tổng 120,00 100,00
Nguồn:

en.pdf
Mỗi nước thành viên có một số nhân vay mượn (hay còn gọi là số nhân mua – purchasing
multiplier) được xác định theo thỏa thuận, hạn ngạch vay mượn của mỗi nước được xác
định dựa trên mức đóng góp và số nhân vay mượn.
Thỏa thuận sửa đổi bổ sung các điều khoản phù hợp với chức năng ngăn ngừa khủng
hoảng. Các Bộ trưởng Tài chính cũng hoan nghênh việc tham gia của các Thống đốc
NHTW vào cơ chế ra quyết định cao nhất của CMIM.

Mặc dù đã khắc phục được nhiều vấn đề của hệ thống BSA nhưng vẫn còn một số tồn tại
trong cơ chế CMIM. Chỉ có 30% giá trị khoản vay được giải ngân mà không đòi hỏi nước
đi vay phải có các chương trình điều chỉnh cơ cấu được IMF chấp thuận. Việc gắn phần
lớn các khoản cho vay với các điều kiện chính sách của IMF tạo ra mối quan ngại từ các
nước thành viên ASEAN vốn đã gặp khó khăn với các chương trình điều chỉnh cơ cấu
của IMF trong cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997. Việc gắn các khoản cho
vay ngắn hạn của CMIM với các chương trình điều chỉnh cơ cấu cũng làm tăng chi phí
vay mượn và giảm tính hữu ích của cơ chế hoán đổi CMIM. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất
đối với việc tách ra khỏi các điều kiện chính sách của IMF và xây dựng cho vay độc lập
là việc thiếu các thể chế cũng như cơ chế giám sát kinh tế hiệu quả. Mặc dù văn phòng
nghiên cứu kinh tế ASEAN+3 (AMRO) đã được thành lập năm 2011 nhưng tổ chức này
vẫn cần được tăng cường về thể chế, nhân lực và tài chính để có thể hoạt động hiệu quả.
Việc ký kết Thỏa thuận CMIM mang ý nghĩa kinh tế và quyết tâm chính trị của các nhà
lãnh đạo cấp cao ASEAN+3, là một bước thành công của hợp tác tiền tệ khu vực, thực
hiện cam kết ở mức độ cao và tinh thần hỗ trợ lẫn nhau của các nước thành viên. CMIM
là hành động kịp thời và hiệu quả của ASEAN+3 trong các nỗ lực giải quyết các tác động
7
của khủng hoảng tài chính toàn cầu.
II. Những động lực của quá trình hợp tác tiền tệ Đông Á
- Sự phát triển của các mối liên kết thương mại và đầu tư
Việc hình thành thoả thuận thương mại khu vực như AFTA hay APEC là dỡ bỏ
các rào cản tăng cường thương mại trong nội bộ và thịnh vượng cho các nước thành
viên. Để có thể tối đa hoá lợi ích thương mại giữa các thành viên, cần thiết phải có sự
hợp tác tiền tệ và ổn định tỷ giá trong khu vực. Tỷ giá hối đoái biến động sẽ cản trở
các dòng thương mại do tăng rủi ro cho các nhà xuất nhập khẩu. Các hoạt động phòng
ngừa rủi ro sẽ làm tăng thêm chi phí cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại mỗi quốc
gia. Do đó, hợp tác tiền tệ sẽ giúp giảm các chi phí giao dịch giữa các quốc gia, thúc
đẩy phát triển thương mại và qua đó tạo ra tăng trưởng cao hơn ở Đông Á.
Một số nghiên cứu cho thấy sự biến động trong ngắn hạn của tỷ giá hối đoái có
thể được phòng ngừa và do đó ít tác động tiêu cực đến thương mại. Tuy nhiên, Peree

và Steinherr (1989) cho rằng vấn đề không hẳn ở những biến động ngắn hạn mà chính
là những dao động trong trung và dài hạn có thể tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực lớn
đến thương mại quốc tế. Do đó, hợp tác tiền tệ từ ngắn hạn đến trung và dài hạn sẽ
loại trừ được những tác động bất lợi đó.
- Khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á 1997
Hợp tác tiền tệ khu vực giúp tăng cường khả năng chống lại các cuộc tấn công tiền
tệ và phá giá cạnh tranh. Hợp tác tiền tệ Đông Á cho phép khu vực tự bảo vệ chống lại
các tấn công tiền tệ trong tương lai và ngăn chặn khủng hoảng tài chính như đã diễn
ra vào những năm 1997-1998. Hậu quả tiêu cực mà cuộc khủng hoảng gây ra là quá
rõ ràng, toàn diện và hết sức nặng nề đối với mỗi quốc gia bị khủng hoảng, cũng như
khu vực và thế giới. Hậu quả dễ nhận thấy nhất, phổ biến nhất trong toàn khu vực và
tại các trung tâm khủng hoảng là sự mất ổn định của đồng tiền và thị trường tiền tệ
trong mỗi nước, là sự giảm sút các nguồn vốn nước ngoài vào các nước Châu Á (và
ngược lại nó cũng gây ảnh hưởng cho những nước đầu tư vào nó), là sự giảm sút cả
đầu tư trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin Tất cả những yếu tố này đã làm
8
giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này và toàn khu vực nói riêng, toàn
bộ thế giới nói chung đi đôi với gia tăng tình trạng thất nghiệp và lạm phát cao; Cũng
như làm tăng nợ nứơc ngoài bằng ngoại tệ do sự mất giá của đồng bản tệ và do phải
thu hút thêm các khoản tín dụng quốc tế để vượt qua khủng hoảng.
Mặc dù Đông Á đã có những nỗ lực rất lớn, song những thoả thuận hoán đổi
hoặc mua lại đã được thực hiện cũng chỉ có tác dụng nhất định. Với cơ chế hiện
hành, vấn đề rủi ro đạo đức có thể tạo ra những thông lệ xấu là các nước trong khu
vực với những điều kiện lỏng lẻo hơn sẽ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô thiếu
thận trọng. Do đó, tăng cường hợp tác tiền tệ với sự minh bạch và kỷ luật kinh tế sẽ
là cách tốt hơn để chống lại tấn công tiền tệ. Hơn nữa, ổn định về tỷ giá cũng giúp
các quốc gia tránh được tác động lây lan của khủng hoảng tiền tệ trong khu vực.
Hình thành liên minh tiền tệ và theo đó là hệ thống tỷ giá cố định giữa các quốc gia
thành viên sẽ xoá bỏ mối đe doạ phá giá cạnh tranh giữa các nước trong khu vực.
- Sự bất ổn định của nền kinh tế toàn cầu và dòng vốn quốc tế

Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu Á
bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar Mỹ từ
năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc rẻ hơn so
với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh tế của Mỹ đang
được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990, Cục Dự trữ Liên
bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng lãi suất của Mỹ lên để
ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị trường hấp dẫn đầu tư
hơn so với các nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những luồng vốn đầu tư ngắn hạn
thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của
các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ, nên xuất khẩu của các nước này trở
nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996, tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông
Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng, làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ.
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật
Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nên cao quá mức.
9
Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh
mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các
nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước
châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy
vào các nước châu Á. Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ
ngầm của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á
bắt chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm
để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
(Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.). Khi
phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một
số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước
ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Vì thế hợp tác tiền tệ Đông Á với sự hình thành một liên minh tiền tệ như là một
đích đến cuối cùng sẽ tạo ra sợi dây liên kết chặt chẽ với tài chính - tiền tệ giữa các
nước thành viên trong khu vực với nhau. Các nước thành viên có thể giúp nhau để bảo

vệ hệ thống tỷ giá cố định trong khu vực, qua đó, tạo lập lòng tin về hệ thống tỷ giá
hiện hành. Hơn nữa, cố định tỷ giá với các thành viên khác đòi hỏi lạm phát phải được
duy trì ở mức độ thấp. Vì vậy, một quốc gia với chính sách tiền tệ yếu kém có thể kiềm
chế được lạm phát và ổn định giá cả bằng việc tham gia liên minh tiền tệ với quốc gia
duy trì lạm phát thấp. Hợp tác tiền tệ với thể chế một đồng tiền cũng sẽ giúp người
tiêu dùng và doanh nghiệp được hưởng lợi do minh bạch về giá cả. Khi tất cả các hàng
hoá đều được niêm yết dưới cùng một đơn vị tiền tệ thì việc so sánh trở nên dễ dàng
hơn, các nhà sản xuất khó có thể duy trì được mức giá chênh lệch quá mức giữa các
thị trường. Điều đó sẽ làm cạnh tranh trong khu vực, tạo sức ép giảm giá và đem lại
lợi ích cho người tiêu dùng.
III. Những trở ngại của hợp tác tiền tệ Đông Á
Với mối quan hệ kinh tế ngày một gia tăng giữa các nước của ASEAN+3 và sự tiến
triển của Sáng kiến Chiang Mai qua sự thành lập quỹ hỗ trợ tài chính, hầu hết các nhà
10
bình luận đều lạc quan về triển vọng hợp tác giữa ASEAN và các nước Nhật, Trung
Quốc và Hàn Quốc. Song, có rất nhiều trở ngại trong tiến trình hội nhập để ASEAN+3
có thể trở thành một liên hiệp kinh tế với mức độ hội nhập cao theo như mô hình của
Liên hiệp Châu Âu.
1. Trình độ phát triển
Tính đa dạng của các hệ thống chính trị - xã hội cũng như sự phát triển kinh tế và tài
chính khác nhau giữa các quốc gia Đông Á hạn chế khả năng hội nhập khu vực.
Tính đa dạng và không đồng nhất về kinh tế, chính trị và xã hội giữa các nền kinh tế
Đông Á chẳng hạn như thu nhập bình quân đầu người, các giai đoạn phát triển thị
trường tài chính và kinh tế, quy mô và phạm vi kiểm soát về vốn, năng lực con người
và thể chế, các điều kiện xã hội… có thể tạo nên một trở ngại nghiêm trọng đối với phối
hợp chính sách khu vực. Trình độ phát triển chênh lệch với mức lợi tức đầu người của
Singapore cao gấp 150 lần Myanmar, so với mức chênh lệch giữa nước có lợi tức đầu
người cao nhất (Luxemburg) và thấp nhất (Portugal) của Liên hiệp Âu Châu chỉ có 4
lần (1).
Sự khác biệt và đa dạng về hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội sẽ dẫn tới tốc độ tự do

hoá tài chính, thương mại, đầu tư và mở cửa thị trường giữa các quốc gia có sự khác
nhau. Điều này sẽ tạo ra trở ngại cho hội nhập kinh tế xét trên bình diện toàn khu vực.
Các quốc gia có thu nhập thấp sẽ chậm trễ trong tự do hoá tài chính và mở cửa thị
trường, và vì vậy, các quốc gia này sẽ gặp khó khăn khi tự hội nhập với các nước khác
trong khu vực có tốc độ hội nhập nhanh hơn.
Tính đa dạng về kinh tế, chính trị giữa các quốc gia Đông Á cũng hình thành nhiều cấp
độ phát triển kinh tế khác nhau, tạo nên khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển
như: siêu cường quốc kinh tế Nhật Bản, các nước mới công nghiệp hoá NIEs, các nước
đang phát triển… Khoảng cách này càng lớn đối với các nước thành viên mới của
ASEAN. Chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế dẫn đến việc xác định lợi ích khác
nhau, xác định thứ bậc các vấn đề được ưu tiên khác nhau, kéo theo sự bất đồng trong
việc hoạch định các mục tiêu, chính sách và biện pháp thực hiện. Khoảng cách chênh
lệch cũng tạo bất lợi đối với các nước kém phát triển trong phân công lao động quốc
tế do các nước lớn có lợi thế hơn về vốn, công nghệ và khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên
các nước Đông Á vẫn đánh giá cao lợi ích thu được từ hợp tác khu vực hơn là những
11
hạn chế từ sự chênh lệch này.
2. Khoảng cách phát triển tài chính
- Sự khác biệt đáng kể về trình độ phát triển của khu vực tài chính (thể hiện ở độ sâu
tài chính M2/GDP) và lãi suất huy động tiền gửi, trong đó các nước Singapore,
Malaixia… có trình độ phát triển tài chính ở mức cao nhất và cũng là nước có mức lãi
suất huy động tương đối thấp. Mức lãi suất huy động cao và độ sâu tài chính hạn chế ở
một số quốc gia ASEAN gắn liền với mức độ bất ổn vĩ mô của các nền kinh tế này.
- Thị trường tài chính của một số nước tính ổn định chưa cao. Đối với các nước
ASEAN, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trên thị trường tài chính (2). Thị
trường cổ phiếu đã được chú ý phát triển trong thời gian gần đây, tuy nhiên, ở một số
nước, qui mô thị trường cổ phiếu vẫn rất hạn chế. Mức độ vốn hoá trên thị trường cổ
phiếu (của các công ty niêm yết) ở Indonexia 2008 là 19,3%; Phillipin là 31%, Thái lan
là 37,7%, con số này ở Việt Nam năm 2008 là 10,6% GDP, năm 2009 là 38%. Thêm vào
đó là tính thiếu ổn định cả về qui mô và về chỉ số giá của các thị trường này, trong khi

thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng chưa phát triển. Những bất cập này đã hạn
chế việc đa dang hoá hoạt động của hệ thống ngân hàng, các định chế tài chính. Cùng
với những bất ổn vĩ mô, các định chế tài chính – ngân hàng các nước này thường phải
đối mặt với các rủi ro về quản lý kỳ hạn, rủi ro lãi suất và tỷ giá hối đoái, trong khi sử
dụng các công cụ phòng chống rủi ro còn rất sơ khai.
- Dịch vụ tài chính ở một số nước vẫn thiên về các sản phẩm truyền thống, chất lượng
dịch vụ còn hạn chế. Cho tới nay, đối với hệ thống ngân hàng Indonexia, Malaixia,
Thailan, Việt nam,… thì hoạt động huy động và cho vay vẫn là mảng hoạt động chính.
Gần đây hoạt động ngân hàng điện tử phát triển với tốc độ nhanh , song vẫn ở mức độ
sơ khai, chất lượng chưa cao. Hệ thống thanh toán đã có những bước tiến đáng kể, với
việc kết nối, liên kết các hệ thống thanh toán quốc tế và khu vực, nhưng cũng còn
nhiều bất cập. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại như kinh doanh theo uỷ thác của khách
hàng đối với các sản phẩm tài chính, tiền tệ; môi giới tiền tệ; quản lý đầu tư; quản lý
quỹ; dịch vụ tín thác; tư vấn đầu tư, tài chính; quản lý danh mục đầu tư, bán chéo,…
mới chỉ phát triển ở Singapore và ở một mức độ nhất định ở các thị trường Thái lan,
Philippin, còn các nước Vietnam, Lào, Campuchia …còn rất hạn chế.
- Về tiềm lực tài chính và năng lực quản trị ngân hàng. Mặc dù hệ thống các định chế
12
tài chính, ngân hàng của các nước Châu Á nói chung, ASEAN nói riêng đã được lành
mạnh hoá đáng kể, vốn chủ sở hữu/tổng tài sản có điều chỉnh theo mức độ rủi ro tăng
dần từ 8% đến 13%, dự phòng rủi ro được cải thiện…(3), song do tiềm lực tài chính
còn thấp, nên khả năng chống đỡ rủi ro của từng ngân hàng còn hạn chế.
- Vấn đề giám sát hoạt động của khu vực tài chính còn yếu, một mặt, do hệ quả của hạ
tầng thông tin, chế độ kế toán, hạch toán, cơ chế phân loại tài sản, nợ… chưa đảm bảo
việc phản ánh chính xác tình trạng tài chính của các định chế tài chính, hệ thống thông
tin chưa kịp thời, đầy đủ. Mặt khác, sự phát triển nhanh của khu vực tài chính ngân
hàng, tính chất phức tạp của các dịch vụ tài chính, nói chung thường đi trước so với
vấn đề phát triển tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực, các công cụ, phương tiện thanh tra,
giám sát. Đây là tình trạng điển hình của các nước mới nổi, đang phát triển trong khu
vực ASEAN, với khu vực tài chính – ngân hàng đang phát triển nhanh chóng. Thực tiễn

cho thấy các kỷ luật thị trường thường cũng chưa đủ chặt chẽ để điều chỉnh, giám sát,
đảm bảo thị trường tài chính hoạt động một cách ổn định, hiệu quả.
3. Liên kết chính trị và các thể chế khu vực
“Sự dị ứng trong việc thực thi các luật định và giao ước" (4) và "sự thiếu vắng các quy
định ràng buộc trong cộng đồng ASEAN làm giảm lòng tin rằng đây sẽ là một hiệp hội
có khả năng tiến sâu trên con đường hội nhập" (5), theo phân tích của tờ The
Economist và NewYork Times.
Đông Á thiếu truyền thống hội nhập và các thể chế hỗ trợ; do đó dẫn đến việc thiếu các
cam kết chính trị cũng như niềm tin lẫn nhau. Đông Á không có truyền thống hội nhập
sâu rộng như đã tồn tại lâu đời ở châu Âu, và do đó, không phát triển được đầy đủ các
thể chế hỗ trợ cho hội nhập khu vực. Tình hình càng thiếu khả quan hơn khi các nước
Đông Á thiếu các cam kết chính trị để hội nhập kinh tế trong khi Đông Á có nhiều điểm
khác nhau trong các hệ thống chính trị, các vấn đề “mang tính lịch sử” và thiếu niềm
tin lẫn nhau.
Thể chế chính trị khác biệt sâu sắc (6), từ những nước có nền dân chủ phát triển và ổn
định (Nhật, Hàn Quốc, Singapore), đến các quốc gia đang trải nghiệm nền dân chủ
phôi thai, kinh qua nhiều thời kỳ biến động (Thái Lan, Indonesia, Philippines,
Malaysia), và các nước có thể chế chính trị độc tài (Trung Quốc, Việt Nam, Myanmar).
13
4. Tính tương đồng của các chính sách kinh tế
Các nền kinh tế ASEAN+3 cùng theo đuổi các chiến lược phát triển tương tự như nhau
dựa trên cơ sở thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài, cũng như chuyên
môn hóa vào xuất khẩu một số sản phẩm chế tạo như điện tử. Sự tương đồng về cơ
cấu kinh tế hàm ý rằng các nền kinh tế khu vực sẽ chịu tác động tương tự như nhau
trước các cú sốc kinh tế. Các nghiên cứu kinh nghiệm, ví dụ Bayomi và Eichengreen
(1994) hay Ramayandi (2005), cũng chỉ ra sự tương quan cao giữa các cú sốc tổng
cầu và ở mức độ ít hơn là các cú sốc tổng cung trong các nước thu nhập trung bình
trong ASEAN cũng như ở Đông Á.
Bên cạnh đó, các quốc gia Đông Á còn phải đối mặt với nguy cơ mâu thuẫn, chia rẽ
xuất phát từ cơ cấu xuất khẩu có nhiều điểm tương đồng. Các nước Đông Á đều thực

hiện chiến lược hướng về xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do tính tương
đồng về cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế thấp tạo nên tính cạnh tranh gay gắt giữa
các nước trong khu vực, không chỉ ở những nước có cùng mặt hàng xuất khẩu, mà còn
giữa các nước có trình độ phát triển khác nhau như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
và khối các nước ASEAN.
Sự mâu thuẫn và tranh chấp giữa Nhật và Trung Quốc là chướng ngại quan trọng
khác, Joel Rathus trên tờ Jakarta Globe tháng 3/2010 phân tích. Joel Rathus cho rằng
sự đối kháng giữa hai quốc gia này là nguyên nhân chính của sự thất bại trong các nỗ
lực hợp tác đa phương và định chế hoá ASEAN+3 trước đây. Mặc dù Nhật và Trung
Quốc đã đạt được sự thoả thuận trong việc thành lập quỹ hỗ trợ ASEAN+3 do áp lực
của cuộc khủng hoảng tài chánh, nhưng "sự đối nghịch này khó có thể chấm dứt và sẽ
tiếp tục cản trở sự phát huy của Sáng kiến Chiang Mai" (7)
5. Sự tác động của các nhân tố bên ngoài
Sự tác động của các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng nhiều đến xu hướng hợp tác nội
khối của các nước Đông Á. Tiến trình hợp tác đa phương trong khu vực Đông Á ngày
càng hiện thực nhưng chỉ là những bước khởi đầu và diễn biến chậm do những
nguyên nhân nội tại của từng nước, khu vực, cũng như những tác động từ bên ngoài.
Các nước Đông Á vẫn lệ thuộc rất lớn vào thị trường Mỹ và EU. Tỷ trọng mậu dịch nội
vùng mặc dù có tăng lên đáng kể nhưng vẫn thấp hơn so với trao đổi thương mại
ngoại vùng. Đông Á cũng được xem là một thị trường lớn hàng đầu của Mỹ với gần 40
14
thoả thuận thương mại song phương với Nhật Bản và 20 hiệp định thương mại với
ASEAN. Mỹ cũng đang thúc giục lôi kéo các nước Đông Á tăng cường hợp tác APEC và
liên kết châu Á – Thái Bình Dương hơn là liên kết vùng Đông Á. Do vậy, tính chất mở,
hướng ngoại của Đông Á vẫn nổi trội hơn tính hướng nội của khu vực này.
IV. Cơ hội và thách thức với Việt Nam
1. CƠ HỘI
Thứ nhất, hợp tác tiền tệ Đông Á sẽ giúp thúc đẩy thương mại trong khu vực. Lý do cơ
bản của việc hình thành thoả thuận thương mại khu vực như AFTA hay APEC là dỡ bỏ
các rào cản tăng cường thương mại trong nội bộ và thịnh vượng cho các nước thành

viên. Để có thể tối đa hoá lợi ích thương mại giữa Việt Nam và các nước trong
ASEAN+3, cần thiết phải có sự hợp tác tiền tệ và ổn định tỷ giá trong khu vực. Tỷ giá
hối đoái biến động sẽ cản trở các dòng thương mại do tăng rủi ro cho các nhà xuất
nhập khẩu. Các hoạt động phòng ngừa rủi ro sẽ làm tăng thêm chi phí cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam. Do đó, hợp tác tiền tệ sẽ giúp giảm các chi phí giao
dịch giữa Việt Nam và các quốc gia nội khối, thúc đẩy phát triển thương mại và qua đó
tạo ra tăng trưởng cao hơn ở Việt Nam.
Thứ hai, hợp tác tiền tệ khu vực giúp Việt Nam tăng cường khả năng chống lại các
cuộc tấn công tiền tệ và phá giá cạnh tranh. Hợp tác tiền tệ cho phép Đông Á nói
chung và Việt Nam nói riêng tự bảo vệ chống lại các tấn công tiền tệ trong tương lai
và ngăn chặn khủng hoảng tài chính như đã diễn ra vào những năm 1997-1998. Mặc
dù Đông Á đã có những nỗ lực rất lớn, song những thoả thuận hoán đổi hoặc mua lại
đã được thực hiện cũng chỉ có tác dụng nhất định. Với cơ chế hiện hành, vấn đề rủi ro
đạo đức có thể tạo ra những thông lệ xấu là các nước trong khu vực với những điều
kiện lỏng lẻo hơn sẽ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô thiếu thận trọng. Do đó,
tăng cường hợp tác tiền tệ với sự minh bạch và kỷ luật kinh tế sẽ là cách tốt hơn để
Việt Nam chống lại tấn công tiền tệ. Hơn nữa, ổn định về tỷ giá cũng giúp Việt Nam
tránh được tác động lây lan của khủng hoảng tiền tệ trong khu vực. Hình thành liên
minh tiền tệ và theo đó là hệ thống tỷ giá cố định giữa Việt Nam các quốc gia thành
viên sẽ xoá bỏ mối đe doạ phá giá cạnh tranh giữa các nước trong khu vực.
Thứ ba, hợp tác tiền tệ Đông Á với sự hình thành một liên minh tiền tệ như là một
đích đến cuối cùng sẽ tạo ra sợi dây liên kết chặt chẽ với tài chính - tiền tệ giữa Việt
15
Nam với các nước thành viên trong khu vực với nhau. Các nước thành viên có thể giúp
nhau để bảo vệ hệ thống tỷ giá cố định trong khu vực, qua đó, tạo lập lòng tin về hệ
thống tỷ giá hiện hành. Hơn nữa, cố định tỷ giá với các thành viên khác đòi hỏi lạm
phát phải được duy trì ở mức độ thấp. Vì vậy, tuy Việt Nam với chính sách tiền tệ yếu
kém vẫn có thể kiềm chế được lạm phát và ổn định giá cả bằng việc tham gia liên minh
tiền tệ với quốc gia duy trì lạm phát thấp. Hợp tác tiền tệ với thể chế một đồng tiền
cũng sẽ giúp người tiêu dùng và doanh nghiệp được hưởng lợi do minh bạch về giá cả.

Khi tất cả các hàng hoá đều được niêm yết dưới cùng một đơn vị tiền tệ thì việc so
sánh trở nên dễ dàng hơn, các nhà sản xuất khó có thể duy trì được mức giá chênh
lệch quá mức giữa các thị trường. Điều đó sẽ làm cạnh tranh trong khu vực, tạo sức ép
giảm giá và đem lại lợi ích cho người tiêu dùng Việt.
Thứ tư, sự tương đồng về chính sách giữa các nền kinh tế của Việt Nam với các nước
ASEAN+3 cũng tạo thuận lợi cho quá trình hợp tác tiền tệ. Việt Nam và các nước
ASEAN+3 đều sử dụng chế độ neo tỷ giá vào đồng USD ở các mức độ khác nhau.
Nghiên cứu của Frankel và Wei (1994) hay Volz (2006) cho thấy, với ngoại lệ của Nhật
Bản, đồng USD vẫn có trọng số lớn trong các đồng tiền khu vực. Rhee (2004) chỉ ra
rằng lạm phát đã giảm xuống mức thấp trong nhiều nền kinh tế ASEAN+3 có thu nhập
trung bình. Mức lạm phát thấp và sự ổn định giá cả trong các nền kinh tế ASEAN+3
cũng tạo thuận lợi nhất định cho việc phối hợp chính sách tiền tệ và tỷ giá.
2. THÁCH THỨC
Trong khi hợp tác tiền tệ khu vực hứa hẹn những cơ hội tiềm tàng, vẫn còn những khó
khăn, thách thức đối với sự tham gia sâu rộng hơn của Việt Nam vào quá trình hợp tác
tiền tệ khu vực do những khác biệt về trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế, sự khác biệt
trong các mục tiêu chính sách cũng như sự kém phát triển của hệ thống tài chính.
Thứ nhất, có sự tương đồng nhất định về cơ cấu kinh tế, nhưng có sự khác biệt trong
chính sách kinh tế vĩ mô. Năm 2014, nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam có những dấu hiệu
tích cực, song chuyển biến còn chậm, chưa ổn định, vững chắc. Tăng trưởng tiềm năng
của Việt Nam đang có xu hướng giảm dần, tăng trưởng kinh tế trong hai năm trở lại đây
chủ yếu dựa vào xuất khẩu trong khi nhu cầu trong nước phục hồi chậm, sức mua còn
yếu, lạm phát tuy đã được kiểm soát nhưng còn tiềm ẩn nguy cơ tăng cao trở lại…
16
Bảng trên cho thấy có mức tương quan nhất định về tăng trưởng GDP giữa Việt Nam và
Trung Quốc, và ở mức độ ít hơn với một số nước ASEAN như Malaysia hay Thái Lan.
Một mặt, sự tương quan về tăng trưởng phản ánh mối liên kết thương mại và đầu tư giữa
Việt Nam và các nước khu vực. Mặt khác, nó phản ánh thực tế là Việt Nam cũng như các
nền kinh tế ASEAN đều dựa vào xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, do đó đều chịu ảnh
hưởng từ chu kỳ kinh tế trong các nước công nghiệp phát triển.

Thứ hai, cũng có sự tương quan về lạm phát, được đo lường bằng chỉ số giá tiêu dùng,
giữa Việt Nam và các nền kinh tế khu vực. Tuy nhiên, mức lạm phát ở Việt Nam cao hơn
hẳn so với các nước trong khu vực, thể hiện sự khác biệt đáng kể trong mục tiêu chính
sách kinh tế. Ví dụ, mức lạm phát bình quân hàng năm ở Việt Nam trong thời kỳ 2000-
2010 là 6,7%, cao hơn đáng kể so với mức lạm phát trung bình của Trung Quốc (1,9%)
hay Thái Lan (2,5%) và chỉ thấp hơn mức lạm phát bình quân của Indonesia (8,1%).
Phân tích trong giai đoạn 2000-2010 cho thấy tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng USD
tương quan nghịch với tỷ giá giữa các đồng tiền khu vực với đồng USD. Kể từ cuối
những năm 1990 đến nay, trong khi các đồng tiền khu vực nâng giá so với đồng USD,
đồng Việt Nam lại có xu hướng mất giá so với đồng USD. Sự vận động ngược chiều
trong giá trị của đồng Việt Nam và các đồng tiền khu vực phản ánh sự khác biệt trong cán
cân thương mại và cán cân tài khoản vãng lai. Trong khi Việt Nam có thâm hụt lớn và
kéo dài trong cán cân thương mại cũng như cán cân tài khoản vãng lai, Trung Quốc và
các nước thu nhập trung bình trong ASEAN lại có thặng dư lớn về tài khoản vãng lai.
Thâm hụt thương mại lớn của Việt Nam phản ánh một phần tính cạnh tranh thấp và các
vấn đề cấu trúc của nền kinh tế.
Thứ ba, hợp tác tiền tệ và sự luân chuyển của dòng vốn quốc tế không chỉ mang lại lợi
ích cho các nước nhận đầu tư, mà còn đi kèm với những bất ổn trong hệ thống tài chính -
tiền tệ cũng như có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính. Kinh nghiệm của các nước Đông
Nam Á trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997 cho thấy, việc tự do hóa tài
khoản vốn quá sớm trong một hệ thống tài chính yếu kém và bị méo mó bởi sự can thiệp
của chính phủ có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề.
17
Thứ tư, hệ thống tài chính hiện nay của Việt Nam cũng gặp phải những vấn đề tương tự
như các nước Đông Nam Á trong những năm 1990. Việc thiếu các cơ chế giám sát hiệu
quả cũng tạo ra những vấn đề rủi ro đạo đức. Thực tế cho thấy, dòng vốn đầu tư nước
ngoài lớn đổ vào Việt Nam trong giai đoạn 2006-2007 phần lớn được chuyển thành các
khoản đầu tư rủi ro trên các thị trường tài sản và kích hoạt các bong bóng trên thị trường
chứng khoán và bất động sản, tương tự như tình hình ở các nước Đông Nam Á vào đầu
những năm 1990, thời điểm trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.

Thứ năm, đối với Việt Nam, hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển nhanh chóng,
phát huy vai trò là kênh dẫn vốn chủ yếu cho nền kinh tế, đóng góp quan trọng vào thành
tựu chung trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tuy nhiên, do mới ở trong giai
đoạn đầu của quá trình phát triển cùng với việc phát triển trong điều kiện chưa có một
nền tảng bền vững, hệ thống tài chính của Việt Nam đã tích tụ và bộc lộ những rủi ro, yếu
kém như chất lượng tài sản giảm, nợ xấu tăng, thanh khoản kém. Đặc biệt, sau khủng
hoảng kinh tế tài chính toàn cầu 2007-2008 cũng như khi tăng trưởng kinh tế suy giảm,
những rủi ro, yếu kém này đã bộc lộ rõ hơn. Điều này cho thấy sự yếu kém của hệ thống
tài chính-ngân hàng là một trở ngại đối với việc hội nhập tài chính và tiền tệ khu vực của
Việt Nam.
V. Các vấn đề chính sách đặt ra đối với Việt Nam
- Việt Nam cần chuẩn bị cả về kinh tế và thể chế để tham gia sâu rộng hơn vào quá
trình hợp tác tiền tệ trong ASEAN +3
- VN cần tăng cường tham gia các cơ chế trao đổi thông tin và đối thoại chính sách
khu vực
- Tăng cường hệ thống thông tin kinh tế cả về tính minh bạch, độ tin cậy và tính cập
nhập. Đồng thời nâng cao năng lực phân tích và dự báo kinh tế.
- Tham gia cơ chế hoán đổi tiền tệ khu vực trong khuôn khổ CMIM sẽ giúp ổn định
kinh tế và đối phó tốt hơn với những bất ổn trong nền thế giới cũng như trong
nước
18

×