Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

luận văn quản trị kinh doanh Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Công ty Cổ phần Thực phẩm Minh Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.59 KB, 98 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Khi nói đến sản xuất kinh doanh thì cho dù dưới hình thức kinh tế xã
hội nào vấn đề được nêu ra trước tiên cũng là hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh
là mục tiêu phấn đấu của mọi nền sản xuất, là thước đo về mọi mặt của nền
kinh tế quốc dân cũng như của từng đơn vị sản xuất.
Lợi nhuận kinh doanh trong nền kinh tế thị trường là mục tiêu lớn nhất
của mọi doanh nghiệp. Để đạt được điều đó mà vẫn đảm bảo chất lượng tốt,
giá thành hợp lý, doanh nghiệp vững vàng trong cạnh tranh thì các doanh
nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường và nhất là trong xu thế hội nhập về kinh tế
hiện nay, sự cạnh tranh diễn ra rất gay gắt. Các doanh nghiệp muốn tồn tại,
đứng vững trên thị trường, muốn sản phẩm của mình có thể cạnh tranh được
với sản phẩm của các doanh nghiệp khác thì không còn cách nào khác là phải
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả. Do vậy,
việc tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là vấn đề
đang được rất nhiều các doanh nghiệp quan tâm chú trọng.
Sau một thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Thực phẩm Minh
Dương, trước thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và hiệu
quả của các hoạt động này thì em đã có một số hiểu biết nhất định về công ty.
Em chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại
Công ty Cổ phần Thực phẩm Minh Dương” và sau đây là một số kiến nghị
và giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của công
ty.
2
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương I : Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động kinh doanh
Chương II : Thực trạng về hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty
Cổ phần Thực phẩm Minh Dương
Chương III : Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
của Công ty Cổ phần Thực phẩm Minh Dương.


3
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
1.1 . Những nội dung cơ bản về hiệu quả hoạt động kinh doanh
1.1.1. Khái niệm hiệu quả hoạt động kinh doanh
*Khái niệm
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn
tại và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải có lãi. Do vậy,
mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều một mục tiêu chung là tối đa hoá
lợi nhuận. Để đạt được mức lợi nhuận cao, các doanh nghiệp cần phải hợp lý
hoá quá trình sản xuất kinh doanh từ khâu lựa chọn các yếu tố đầu vào, thực
hiện quá trình sản xuất, cung ứng, tiêu thụ. Mức độ hợp lý hoá của quá trình
được phản ánh qua một phạm trù kinh tế cơ bản gọi là: hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh theo khái niệm rộng là phạm trù kinh tế phản ánh
những lợi ích đạt được từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Bất kỳ hoạt động nào nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng đều phải
đạt được kết quả hữu ích cụ thể nào đó. Đó là lợi nhuận và hiệu quả kinh
doanh. Doanh nghiệp đạt được lợi nhuận cao thì từ đó mới có điều kiện mở
rộng sản xuất kinh doanh theo chiều rộng và chiều sâu, có đủ sức cạnh tranh
với các đối thủ trên thị trường.
Kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích sinh lời của các chủ kinh
doanh trên thương trường. Nhưng trên cơ sở lợi nhuận doanh nghiệp phải
đánh giá hoạt động kinh doanh không chỉ dừng lại ở kết quả mà còn phải
đánh giá chất lượng kinh doanh để tạo ra kết quả đó. Vì kinh doanh bao gồm
tất cả các công đoạn từ đầu tư sản xuất đến tiêu thụ, dịch vụ bán hàng. Do đó,
việc đánh giá kết quả kinh doanh là rất cần thiết và thông qua đó có thể nắm
bắt được tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
4
Hiện nay, cũng có nhiều ý kiến khác nhau về thuật ngữ hiệu quả kinh
doanh xuất phát từ góc độ nghiên cứu khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh

doanh và sự hình thành phát triển của ngành quản trị doanh nghiệp. Tuy
nhiên, người ta có thể chia các quan điểm thành các nhóm cơ bản sau đây:
Nhóm thứ nhất cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được
trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa.Theo quan niệm
này, hiệu quả kinh doanh đồng nhất với kết quả kinh doanh và với các chỉ tiêu
phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh. Quan điểm này không đề cập đến chi
phí kinh doanh, nghĩa là nếu hoạt động kinh doanh tạo ra cùng một kết quả thì
có cùng một mức hiệu quả, mặc dù hoạt động kinh doanh đó có hai mức chi
phí khác nhau.
Nhóm thứ hai cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần
tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này nói lên
quan hệ so sánh một cách tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để
đạt được kết quả đó, nhưng chỉ xét đến phần kết quả chi phí bổ sung.
Nhóm thứ ba cho rằng: Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh
giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Quan điểm này
đã phản ánh được mối liên hợp bản chất của hiệu quả kinh doanh, vì nó gắn
được kết quả và chi phí bỏ ra, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ
sử dụng các chi phí. Tuy nhiên, kết quả và chi phí đều luôn luôn vận động nên
quan điểm này chưa biểu hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả
và chi phí.
Nhóm thứ tư cho rằng: Hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối
quan hệ giữa sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời phản ánh
được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất. Quan điểm này đã chú ý đến sự
so sánh tốc độ vận động của hai yếu tố phản ánh hiệu quả kinh doanh, đó là
5
tốc độ vận động của kết quả và tốc độ vận động của chi phí. Mối quan hệ này
phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp.
Như vậy, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh
tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản
lý của doanh nghiệp để thực hiện cao nhất các mục tiêu kinh tế xã hội với chi

phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gắn chặt với hiệu quả
kinh tế của toàn xã hội, vì thế nó cần được xem xét toàn diện cả về mặt định
tính lẫn định lượng, không gian và thời gian. Về mặt định tính, mức độ hiệu
quả kinh doanh là những nỗ lực của doanh nghiệp và phản ánh trình độ quản
lý của doanh nghiệp đồng thời gắn với việc đáp ứng các mục tiêu và các yêu
cầu của doanh nghiệp và của toàn xã hội. Về mặt định lượng, hiệu quả kinh
doanh là biểu thị tương quan giữa kết quả mà doanh nghiệp thu được với chi
phí mà doanh nghiệp bỏ ra để thu được kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh chỉ
có được khi kết quả cao hơn chi phí bỏ ra. Mức chênh lệch này càng lớn thì
hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại. Cả hai mặt định tính và định
lượng của hiệu quả kinh doanh đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách
rời nhau, trong đó hiệu quả về lượng phải gắn với mục tiêu kinh tế, chính trị,
xã hội, môi trường nhất định. Do vậy, chúng ta không thể chấp nhận các nhà
kinh tế tìm mọi cách để đạt được mục tiêu kinh tế cho dù phải chi phí bất cứ
giá nào hoặc thậm chí đánh đổi mục tiêu chính trị, xã hội, môi trường để đạt
được mục tiêu kinh tế.
Về mặt thời gian, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đạt được trong
từng thời kỳ, từng giai đoạn không được làm giảm sút hiệu quả kinh doanh
của các giai đoạn, các thời kỳ, chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Điều đó đòi hỏi
bản thân các doanh nghiệp không được vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi lợi ích
lâu dài. Trong thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp, điều này thường không
được tính đến là con người khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tài
6
nguyên nhân văn không có kế hoạch, thậm chí khai thác và sử dụng bừa bãi,
làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và phá huỷ môi trường nghiêm
trọng. Cũng không thể quan niệm rằng cắt bỏ chi phí và tăng doanh thu lúc
nào cũng có hiệu quả một khi cắt giảm tuỳ tiện và thiếu cân nhắc các chi phí
cải tạo môi trường, tạo cân bằng sinh thái, đầu tư cho giáo dục đào tạo.
Tóm lại, hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm
trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất nói riêng, trình độ tổ

chức và quản lý doanh nghiệp nói chung để đáp ứng các nhu cầu xã hội và đạt
được các mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định. Hiệu quả hoạt động kinh
doanh biểu thị mối tương quan giữa kết quả mà doanh nghiệp đạt được với
các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được kết quả đó và mối quan hệ
giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó
trong những điều kiện nhất định. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
được hiểu là làm cho các chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp tăng lên thường xuyên và mức độ đạt được các mục đích tính theo
hướng tích cực.
*Vai trò của việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là mối quan tâm hàng đầu của doanh
nghiệp. Đó là vấn đề bao trùm và xuyên suốt thể hiện chất lượng của toàn bộ
công tác quản lý kinh tế để tạo ra kết quả và hiệu quả cao nhất của mọi hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Trong cơ chế thị trường, việc giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản (sản
xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?) được dựa trên quan hệ
cung cầu, giá cả thị trường, cạnh tranh hợp tác.
Các doanh nghiệp phải tự đưa ra các quyết định kinh doanh của mình,
tự hạch toán lỗ lãi, lãi nhiều hưởng nhiều, lãi ít hưởng ít. Lúc này mục tiêu lợi
7
nhuận trở thành mục tiêu quan trọng nhất mang tính sống còn của doanh
nghiệp.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp phải cạnh tranh để
tồn tại và phát triển. Môi trường cạnh tranh này khá gay gắt và có nhiều
doanh nghiệp đã trụ vững được nhưng cũng không ít doanh nghiệp bị thua lỗ,
giải thể, phá sản. Để có thể trụ vững trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp
luôn phải giảm chi phí kinh doanh một cách tương đối nhằm tới mục tiêu lợi
nhuận tối đa. Giai đoạn kinh tế phát triển theo chiều rộng kết thúc nhường chỗ
cho sự phát triển theo chiều sâu là nhờ vào sự nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Như vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nâng cao khả năng sử dụng nguồn
lực sẵn có trong sản xuất kinh doanh. Nâng cao hiệu quả kinh doanh và đạt
được hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề được quan tâm của các doanh
nghiệp.
Từ những vai trò kể trên của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp chúng ta có thể rút ra những ý nghĩa cụ thể của việc nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, chúng ta cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
trong các doanh nghiệp, đánh giá đúng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
thực hiện trên cơ sở phân tích từng phần, tổng hợp lại hướng vào mục tiêu
chung của hiệu quả là lợi nhuận của toàn bộ quá trình kinh doanh để phân
tích. Trên cơ sở đó rút ra những nhận định cơ bản và liên kết chúng lại với
nhau để có những phương hướng đúng đắn.
Quan niệm về hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là các
doanh nghiệp cho rằng hoạt động kinh doanh phải vừa đạt được hiệu quả kinh
tế lại vừa đạt được hiệu quả xã hội. Có như vậy doanh nghiệp mới phát triển
bền vững, ổn định.
1.1.2. Phân loại hiệu quả hoạt động kinh doanh
8
Trong thực tiễn có nhiều loại hiệu quả kinh doanh khác nhau. Để tiện
cho việc quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, người ta
thường phân loại hiệu quả kinh doanh theo các tiêu thức khác nhau. Sau đây
là một số cách phân loại hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp:
1.1.2.1. Hiệu quả tuyệt đối và tương đối
Căn cứ theo phương pháp tính hiệu quả, người ta chia ra thành hiệu quả
tuyệt đối và hiệu quả tương đối
a. Hiệu quả tuyệt đối
Hiệu quả tuyệt đối là phạm trù chỉ lượng hiệu quả cho từng phương án
kinh doanh, từng thời kỳ, từng doanh nghiệp. Nó được tính toán bằng cách
xác định mức lợi ích thu được với chi phí bỏ ra.

b. Hiệu quả tương đối
Hiệu quả tương đối là phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố
sản xuất của doanh nghiệp. Công thức xác định:
H
1
=
KẾT
QUẢ
(
1)
CHI
PHÍ
H
2
=
CHI
PHÍ
(
2)
KẾT
QUẢ
Công thức (1) cho biết kết quả mà doanh nghiệp đạt được từ một
phương án kinh doanh, từng thời kỳ kinh doanh.
Công thức (2) cho biết một đơn vị chi phí thì tạo ra bao nhiêu đơn vị
kết quả hoặc một đơn vị kết quả được tạo ra từ bao nhiêu đơn vị chi phí.
9
1.1.2.2. Hiệu quả trước mắt và lâu dài
Căn cứ vào thời gian đem lại hiệu quả, người ta phân ra làm hai loại:
a. Hiệu quả trước mắt
Hiệu quả trước mắt là hiệu quả kinh doanh thu được trong thời gian gần

nhất, trong ngắn hạn.
b. Hiệu quả lâu dài
Hiệu quả lâu dài là hiệu quả thu được trong thời gian dài. Doanh nghiệp
cần phải xem xét thực hiện các hoạt động kinh doanh sao cho nó mang lại cả
lợi ích trước mắt cũng như lâu dài cho doanh nghiệp, kết hợp lợi ích trước
mắt và lợi ích lâu dài, không được vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu
dài hoặc thiệt hại đến lợi ích lâu dài.
1.1.2.3. Hiệu quả kinh tế tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội
Căn cứ vào khía cạnh khác nhau của hiệu quả, người ta phân ra làm hai
loại:
a. Hiệu quả kinh tế tài chính
Hiệu quả kinh tế tài chính (hiệu quả kinh doanh cá biệt) của doanh
nghiệp là hiệu quả kinh doanh thu được từ các hoạt động thương mại của từng
doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện chung của hiệu quả kinh tế tài chính là
lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được.
b. Hiệu quả kinh tế xã hội
Hiệu quả kinh tế xã hội (hiệu quả kinh tế quốc dân) là sự đóng góp của
chính doanh nghiệp vào xã hội nghĩa là mang lại các lợi ích công cộng cho xã
hội như: tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước, tăng
tích luỹ ngoại tệ, tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất, thay đổi cơ cấu
kinh tế
10
Giữa hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh tế xã hội có mối
quan hệ nhân quả với nhau và tác động qua lại với nhau. Hiệu quả kinh tế
quốc dân chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các doanh
nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp như một tế bào của nền kinh tế quốc dân, hoạt
động có hiệu quả sẽ góp phần vào hiệu quả chung của nền kinh tế. Ngược lại,
tính hiệu quả của bộ máy kinh tế sẽ là tiền đề tích cực, là khung cơ sở cho mọi
hoạt động của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Đó chính là mối quan hệ giữa
cái chung và cái riêng, giữa bộ phận và toàn bộ. Tính hiệu quả của nền kinh tế

xuất phát từ tính hiệu quả của mỗi doanh nghiệp và nền kinh tế vận hành tốt
là môi trường thuận lợi cho sự hoàn thiện của doanh nghiệp.
Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của mình các doanh nghiệp phải
thường xuyên quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội, bảo đảm lợi ích riêng hài
hoà với lợi ích chung. Về phía cơ quan quản lý với vai trò định hướng cho sự
phát triển của nền kinh tế cần tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp có thể hoạt
động đạt hiệu quả cao nhất trong khả năng có thể của mình.
1.1.2.4. Hiệu quả tổng hợp và bộ phận
Căn cứ vào phạm vi tính toán hiệu quả người ta phân ra làm hai loại:
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp và hiệu quả kinh doanh bộ phận.
a. Hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung
của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh khai thác các nguồn lực đó
trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của doanh
nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là thước đo hết sức quan trọng của sự
tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cho việc đánh giá việc thực hiện mục tiêu
kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
b. Hiệu quả kinh doanh bộ phận
11
Hiệu quả kinh doanh bộ phận là sự thể hiện trình độ và khả năng sử
dụng các nguồn lực của từng bộ phận trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nó là thước đo quan trọng của sự tăng trưởng từng bộ phận và
cùng với hiệu quả kinh doanh tổng hợp làm cơ sở để đánh giá việc thực hiện
mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp.
Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn với môi trường và thị
trường kinh doanh của nó. Doanh nghiệp nào cũng căn cứ vào thị trường để
giải quyết các vấn đề then chốt: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản
xuất cho ai?
Mỗi doanh nghiệp đều tiến hành việc sản xuất kinh doanh của mình

trong các điều kiện cụ thể về trình độ trang thiết bị, trình độ tổ chức quản lý
lao động, quản lý kinh doanh mà Paul Samuelson gọi đó là “hộp đen” kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp.
Bằng khả năng kinh doanh của mình họ cung ứng cho xã hội sản phẩm
của mình với chi phí cá biệt nhất định và nhà kinh doanh nào cũng muốn tiêu
thụ hàng hoá của mình nhiều nhất với giá cao nhất. Tuy vậy, thị trường vận
hành theo quy luật riêng của nó và mọi doanh nghiệp khi tham gia vào thị
trường là phải chấp nhận “luật chơi” đó. Một quy luật trong những quy luật
thị trường tác động rõ nét nhất đến các chủ thể của nền kinh tế là quy luật giá
trị: hàng hoá được thị trường thừa nhận tại mức chi phí trung bình xã hội cần
thiết để tạo ra hàng hóa đó. Quy luật giá trị đã đặt các doanh nghiệp với mức
chi phí cá biệt khác nhau trên một mặt bằng trao đổi chung – giá cả thị
trường.
Suy cho cùng, chi phí bỏ ra là chi phí lao động xã hội nhưng đối với
mỗi doanh nghiệp mà ta đánh giá hiệu quả kinh doanh thì chi phí lao động xã
hội đó được thể hiện dưới dạng chi phí khác nhau: Giá thành sản xuất, chi phí
sản xuất, chi phí ngoài sản xuất Bản thân mỗi loại chi phí này lại có thể
12
được phân chia một cách chi tiết hơn. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh
doanh không chỉ đánh giá hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trên, mà
đồng thời còn phải đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí đó.
Tóm lại: Trong quản lý quá trình kinh doanh, phạm trù hiệu quả kinh
doanh được biểu hiện ở các loại khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh
doanh là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh, phân tích hiệu
quả kinh doanh và xác định các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh.
1.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị
trường thì có rất nhiều chỉ tiêu. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp rất đa dạng và phong phú. Vì vậy, muốn đánh giá tốt các vấn đề của

hiệu quả kinh doanh thì ta phải phân tích và đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả.
Thông qua các chỉ tiêu này mà ta có thể rút ra được là doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả không. Như vậy, việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp là một đòi hỏi bức thiết đối với các cấp quản lý cũng như đối
với các cấp doanh nghiệp nhằm hướng doanh nghiệp quan tâm khai thác tiềm
năng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp tăng cường
tích lũy đầu tư để đầu tư tái sản xuất kinh doanh cả chiều rộng lẫn chiều sâu
góp phần nâng cao hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2.1. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Khi xem xét đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp,
người ta thường quan tâm trước hết đến lợi nhuận. Lợi nhuận là đại lượng
tuyệt đối, là mục tiêu và là thước đo chủ yếu để đánh giá hiệu quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.1.1. Chỉ tiêu lợi nhuận
13
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà
doanh nghiệp đã bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của doanh
nghiệp mang lại.
Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí tạo ra doanh thu
Ý nghĩa của lợi nhuận doanh nghiệp:
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt được lợi nhuận có ý nghĩa
rất quan trọng.
+ Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nhiệp; một
trong những mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp là lợi nhuận, nếu một doanh
nghiệp bị thua lỗ liên tục, kéo dài thì doanh nghiệp sẽ sớm lâm vào tình trạng
bị phá sản.
+ Lợi nhuận là nguồn tài chính quan trọng đảm bảo cho doanh nghiệp
tăng trưởng một cách ổn định, vững chắc, đồng thời cũng là nguồn thu quan

trọng của Ngân sách Nhà nước.
+ Lợi nhuận còn là nguồn lực tài chính chủ yếu để cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của người lao động trong doanh nghiệp.
+ Lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh hiệu quả của
toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, việc giảm chi phí sản xuất hạ giá
thành sản phẩm sẽ làm lợi nhuận tăng lên một cách trực tiếp khi các điều kiện
khác không đổi. Do đó, lợi nhuận là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Nội dung của lợi nhuận doanh nghiệp bao gồm: lợi nhuận hoạt động
sản xuất kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài chính, lợi nhuận khác.
Ở đây, ta xem xét lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD)
14
Lợi nhuận
hoạt động
SXKD (hay bán
hàng)
=
Do
anh thu
thuần về
bán hàng
-
Giá
trị vốn
hàng bán
ra
-
Ch
i phí bán
hàng

-
Chi phí
quản lý doanh
nghiệp
1.2.1.2 Chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước
Nộp ngân sách Nhà nước là nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà
nước. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này còn cho thấy một cách gián tiếp các kết quả :
- Doanh thu
- Lợi nhuận doanh nghiệp đạt được .
1.2.1.3 Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
Người ta thường hay sử dụng chỉ tiêu doanh lợi để biểu hiện mối quan
hệ lợi nhuận và chi phí kinh doanh thực tế hoặc lợi nhuận với nguồn tài chính
(vốn kinh doanh ) để tạo ra nó đồng thời cũng thể hiện trình độ, năng lực kinh
doanh của nhà kinh doanh trong việc sử dụng các yếu tố đó.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
P

R
=
P
R
Trong đó:
P: Lợi nhuận
R: Doanh thu
P’
R
: tỷ suất lợi nhuận doanh thu
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu cho biết: cứ một đồng doanh thu thì thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận.

Tỷ suất lợi nhuận chi phí
= P
15
P

C
C
Trong đó:
P: Lợi nhuận
C: Chi phí
P’
C
: Tỷ suất lợi nhuận chi phí
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng chi phí bỏ ra thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
P

VKD
=
P
V
KD
Trong đó:
P: Lợi nhuận
VKD: Vốn kinh doanh
P’
VKD
: Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh hay còn gọi là tỷ suất hoàn vốn kinh

doanh cho biết cứ một đồng vốn bỏ vào kinh doanh thì thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
Người ta cho rằng các chỉ tiêu này là thước đo mang tính quyết định
khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2. Các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận
Chỉ tiêu bộ phận là chỉ tiêu để phân tích hiệu quả kinh doanh của từng
mặt hoạt động, từng yếu tố đầu vào cụ thể.
Chỉ tiêu bộ phận phân tích có bổ sung cho chỉ tiêu tổng hợp để trong
một số trường hợp kiểm tra và khẳng định rõ hơn kết luận được rút ra từ các
chỉ tiêu tổng hợp, phân tích hiệu quả từng mặt, hiệu quả sử dụng các yếu tố
đầu vào nhằm tìm biện pháp tối đa cho hiệu quả kinh doanh tổng hợp.
16
Chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu bộ phận có mối quan hệ không cùng
chiều, trong lúc chỉ tiêu tổng hợp tăng lên thì có thể có những chỉ tiêu bộ phận
tăng và cũng có thể có chỉ tiêu bộ phận không đổi hoặc giảm.
17
1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Vốn kinh doanh là một yếu tố không thể thiếu trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Nếu thiếu vốn hoạt động của doanh nghiệp bị đình trệ hoặc kém
hiệu quả. Do đó, các nhà kinh tế cho rằng chỉ tiêu sử dụng vốn là chỉ tiêu hiệu
quả tổng hợp. Chỉ tiêu này được xác định qua công thức tỷ suất hoàn vốn kinh
doanh ở trên, nhưng ở đây có thể đưa ra một số công thức được coi là đánh
giá hiệu quả sử dụng vốn và từng bộ phận của đồng vốn.
a. Số vòng quay của vốn kinh doanh
V

VKD
=
R
V

KD
bq
Trong đó:
R: Doanh thu
VKD
bq
: Vốn kinh doanh bình quân
V
VKD
: Số vòng quay của vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh bỏ vào kinh doanh có
khả năng đem lại bao nhiêu đồng doanh thu hay phản ánh khả năng quay của
toàn bộ số vốn kinh doanh.
b. Số vòng quay của vốn lưu động
V
VLĐ
=
R
V

bq
Trong đó:
R: Doanh thu thuần
VLĐ
bq
: Vốn lưu động bình quân
V
VLĐ
: Vòng quay vốn lưu động
18

Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong năm.
Nếu số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và
ngược lại.
c. Hệ số doanh lợi của vốn lưu động
H
VLĐ
=
P
V

bq
Trong đó:
P: Lợi nhuận
VLĐ
bq
: Vốn lưu động bình quân
H
VLĐ
: Hệ số doanh lợi vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đồng vốn lưu động bỏ vào kinh doanh mang
lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
d. Kỳ luân chuyển của vốn lưu động
K =
N
V
VLĐ
Trong đó:
K: Kỳ luân chuyển vốn lưu động
N: Số ngày trong kỳ được tính chẵn một năm là 360 ngày, một quý là
90 ngày, một tháng là 30 ngày.

V
VLĐ
: vòng quay của vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu động thực
hiện được một lần luân chuyển hay độ dài thời gian một vòng quay của vốn
lưu động ở trong kỳ.
e. Hệ số doanh lợi của vốn cố định
19
H
VCĐ
=
P
V

bq
Trong đó:
P: Lợi nhuận
VCĐ
bq
: Vốn cố định bình quân
H
VCĐ
: Hệ số doanh lợi vốn cố định
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn cố định bỏ vào kinh doanh thì
thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
f. Tỷ suất sinh lời tài chính
R
OA
=
N

I
V
KD
bq
Trong đó:
ROA: Tỷ suất sinh lời tài chính (tỷ suất lợi nhuận sau thuế vốn kinh
doanh).
NI: Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp
VKD
bq
: Vốn kinh doanh bình quân sử dụng trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi đồng vốn kinh doanh bình quân sử dụng
trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
g. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
R
OE
=
N
I
E
Trong đó:
ROE: Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
NI: Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp
E: Vốn chủ sở hữu bình quân
20
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng
trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho chủ sở hữu.
1.2.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động
a. Mức năng suất lao động bình quân: được xác định bằng tổng giá trị
sản xuất kinh doanh trên tổng số lao động bình quân.

N
S
bqlđ
=
G
S

Trong đó:
NS
bqlđ
: Mức năng suất lao động bình quân
G: Tổng giá trị sản xuất kinh doanh
SLĐ: Số lao động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết mỗi lao động sẽ tạo ra bao nhiêu giá trị kinh
doanh cho doanh nghiệp.
b. Mức doanh thu bình quân mỗi lao động
R
bqlđ
=
R
S

Trong đó:
R
bqlđ
: Mức doanh thu bình quân mỗi lao động
R: Doanh thu
SLĐ: Số lao động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết mỗi một lao động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu cho doanh nghiệp.

c. Mức lợi nhuận bình quân mỗi lao động
21
L
N
bqlđ
=
P
S

Trong đó:
P: Lợi nhuận
SLĐ: Số lao động bình quân
LN
bqlđ
: Mức lợi nhuận bình quân mỗi lao động
Chỉ tiêu này cho biết một lao động có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
1.2.3. Các chỉ tiêu hiệu quả chính trị - xã hội của doanh nghiệp
Hiệu quả kinh tế là các chỉ tiêu có tính chất lượng như đã xem xét ở
trên. Ở phạm vi doanh nghiệp đó là các chỉ tiêu cơ bản và quan trọng nhất.
Hiệu quả về mặt xã hội trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
là những mặt lợi ích không thể định lượng được, nhưng nó đóng vai trò cực
kỳ quan trọng trong việc lựa chọn phương án kinh doanh để triển khai trong
thực tế. Nội dung của việc xem xét hiệu quả về mặt xã hội rất đa dạng và
phức tạp. Người ta thường gắn việc phân tích hiệu quả về mặt xã hội trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với việc thực hiện các nhiệm vụ xã
hội của mỗi doanh nghiệp trong kỳ. Hay nói rộng hơn là phân tích ảnh hưởng
của phương án kinh doanh đối với toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của cả
nền kinh tế quốc dân, của khu vực đó hay bó gọn trong doanh nghiệp. Những
nội dung cần phân tích là:

Tác động vào việc phát triển kinh tế: đóng góp vào gia tăng tổng sản
phẩm, tăng tích luỹ, thoả mãn nhu cầu, tiết kiệm tiền tệ
Tác động đến việc phát triển xã hội: giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, xoá bỏ sự cách biệt giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn,
giữa miền xuôi và miền núi
22
Tác động đến môi trường sinh thái và trình độ đô thị hoá
Tuỳ thuộc vào từng điều kiện, vào trạng thái hoạt động của mỗi doanh
nghiệp trong từng thời điểm nhất định mà việc lựa chọn phương án kinh
doanh người ta sẽ xác định chỉ tiêu nào đó làm căn cứ, những mục tiêu cao
nhất của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, những phương án nào vừa đảm
bảo lợi nhuận lại vừa gắn với mục tiêu về xã hội thì sẽ được lựa chọn.
Trên đây là những khái quát chung về hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, khi tiến hành phân tích hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp có
thể xem xét các vấn đề khác nhau nhưng không thể thiếu sót những vấn đề cơ
bản trên. Tuỳ mục đích nghiên cứu cũng như đòi hỏi về kỹ thuật và trình độ
chuyên môn mà ta có thể mở rộng các chỉ tiêu và vấn đề phục vụ công tác
nghiên cứu.
23
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
Kinh doanh là hoạt động nhằm mục đích sinh lời của các chủ thể kinh
doanh trên thị trường. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh luôn phụ thuộc vào thị trường, mà thị trường lại phải tuân theo các quy
định của pháp luật cũng như các quy luật của thị trường. Do vậy, các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng của rất nhiều các yếu tố khách
quan cũng như chủ quan. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải có biện pháp
tác động trở lại yếu tố chủ quan một cách hợp lý, có hiệu quả làm cho doanh
nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Thông thường có hai nhóm nhân tố ảnh hưởng: nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan.

1.3.1. Nhân tố khách quan
Bất cứ doanh nghiệp nào hoạt động trong lĩnh vực gì, dù to hay nhỏ thì
suy cho cùng đều chỉ là một trong những phần tử cấu thành nên nền kinh tế
quốc dân, hay trên phương diện rộng hơn trong hoàn cảnh quốc tế đang phát
triển mạnh mẽ thì doanh nghiệp có thể coi là một bộ phận cấu thành nên nền
kinh tế thế giới. Do đó, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh
hưởng lớn từ môi trường bên ngoài. Đó là tổng hợp những nhân tố khách
quan tác động đến hoạt động kinh doanh mà cụ thể là tác động đến kết quả,
hiệu quả của hoạt động kinh doanh.
Các nhân tố đó là:
1.3.1.1. Môi trường kinh tế
Nền kinh tế của mỗi quốc gia là nền tảng cơ bản để doanh nghiệp tồn
tại và phát triển. Mỗi quốc gia với cơ sở hạ tầng về giao thông đường bộ,
đường thuỷ, đường sắt, đường hàng không cũng như các cơ sở hạ tầng khác
về hệ thống thông tin liên lạc, bưu điện viễn thông và các công trình xã hội đã
giúp cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, lưu thông hàng hoá, ký kết
24
được những hợp đồng lớn với các khách hàng trong nước và nước ngoài, giao
hàng và thanh toán thuận lợi, nhanh chóng.
1.3.1.2. Môi trường chính trị - pháp luật
Một môi trường chính trị - pháp luật hợp lý, thông thoáng, cởi mở sẽ
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động một cách nhanh chóng,
đẩy mạnh quá trình liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài, phát huy
nội lực của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.3.1.3. Môi trường văn hoá – xã hội
Môi trường văn hoá xã hội có một ảnh hưởng nhất định đến các doanh
nghiệp. Mỗi quốc gia có một nền văn hoá khác nhau và môi trường xã hội
khác nhau, điều đó dẫn đến nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mỗi một quốc
gia là khác nhau. Các doanh nghiệp cần nắm vững được môi trường văn hoá –

xã hội để biết chắc được nhu cầu của thị trường như thế nào, xu hướng tiêu
dùng của xã hội ra sao, từ đó mới quyết định xem doanh nghiệp sản xuất và
kinh doanh loại mặt hàng gì. Điều này sẽ đem lại hiệu quả rất lớn cho hoạt
động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.1.4. Môi trường công nghệ
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trên thị trường thì luôn
phải quan tâm đến chất lượng sản phẩm, giá thành và sức cạnh tranh của sản
phẩm của mình trên thị trường. Ngày nay, trình độ khoa học công nghệ ngày
càng phát triển, những công nghệ mới ra đời và được áp dụng trong thực tế
cho phép các doanh nghiệp sản xuất được những sản phẩm với chất lượng cao
hơn trong khi nguyên vật liệu lại tiêu tốn ít hơn, hiệu suất của máy móc được
nâng cao dẫn đến giá thành hạ, chi phí sản xuất thấp, tăng khả năng cạnh
tranh của sản phẩm của mình trên thị trường, tăng hiệu quả kinh doanh của
25
doanh nghiệp. Bởi vậy, công nghệ là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Lực lượng lao động
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, lực lượng lao động của
doanh nghiệp quyết định quy mô kết quả sản xuất, tác động trực tiếp đến hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện ở :
- Trình độ lao động tương ứng thì sẽ góp phần vận hành có hiệu quả
các yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh.
- Cơ cấu lao động phù hợp trước hết nó sẽ góp phần sử dụng có hiệu
quả bản thân yếu tố lao động trong sản xuất kinh doanh, mặt khác nó sẽ góp
phần tạo lập và thường xuyên điều chỉnh mối quan hệ tỷ lệ hợp lý giữa các
yếu tố vật chất trong quá trình kinh doanh.
- Ý thức, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động là yếu tố quan trọng,
yếu tố cơ bản để phát triển và phát huy nguồn lực lao động trong quá trình
kinh doanh. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể đạt được hiệu quả kinh doanh cao

trong các doanh nghiệp chừng nào có được một đội ngũ lao động có kỷ luật,
kỹ thuật, trách nhiệm và năng suất lao động cao.
1.3.2.2. Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ
Đây là yếu tố vật chất phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, có tác động rất lớn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh. Sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật sẽ tạo ra những cơ hội để nắm
bắt thông tin trong quá trình hoạch định kinh doanh cũng như trong quá trình
điều chỉnh, định hướng hoặc chuyển hướng kinh doanh. Kỹ thuật và công
nghệ sẽ tác động tới việc tiết kiệm chi phí vật chất trong quá trình sản xuất
kinh doanh, nó giúp cho các doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm
chi phí kinh doanh.

×