Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP. Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.91 KB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
*********
HỌC VIỆN CTHC QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hành Chính Công
Mã số:
Đề tài :
Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP. Hà nội
Học Viên : Bùi Hoàng Chung
Lớp : Cao học 14G

HÀ NỘI – 2011
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch là ngành kinh tế then chốt của thủ đô, đóng vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Để các doanh nghiệp trong lĩnh vực du
lịch trên địa bàn thành phố Hà nội phát triển theo đúng định hướng đòi hỏi
phải có sự quản lý của thành phố . Đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch đang đặt ra yêu
cầu ngày càng cấp thiết trong giai đoạn hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
và hội nhập kinh tế quốc tế của thủ đô.
Trước tình hình trên đòi hỏi phải nghiên cứu, tìm giải pháp nhằm hoàn
thiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du
lịch ở thủ đô hiện nay. Là một cán bộ công tác trong ngành du lịch, với kinh
nghiệm nhiều năm, tôi nhận thấy quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp
hoạt động trong ngành du lịch trên địa bàn TP. Hà nội đang còn nhiều vấn đề
cần phải được nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn; cả những mặt được
và chưa được Với lý do trên tôi chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP. Hà nội” làm


luận văn Thạc sỹ quản lý hành chính công của mình.
2. Tình hình nghiên cứu:
- Nghiên cứu về quản lý nhà nước đã có rất nhiều công trình (xin
được nêu ra trong quá trình làm luận văn).
- Nghiên cứu về ngành Du lịch và quản lý ngành du lịch cũng đã
có nhiều công trình (xin được nêu ra trong quá trình làm luận văn).
2
- Nghiên cứu quản lý nhà nước đối với các thành phần kinh tế cũng
đã có (xin được nêu ra trong quá trình làm luận văn).
- Nghiên cứu quản lý nhà nước với các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực du lịch thì mới chỉ có (xin được nêu ra trong quá trình
làm luận văn).
- Vì vậy đây là đề tài nghiên cứu mới không trùng lặp với các công
trình đã nghiên cứu trước.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực du lịch ở TP. Hà nội, luận văn sẽ đưa ra một số giải pháp
cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước đối với các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội.
+ Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước
đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà
nội.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản của quản lý nhà

nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn
TP Hà nội từ năm 2006 đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
3
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của thành uỷ và UBND thành
phố Hà nội về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực du lịch trên địa bàn thành phố.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ chủ nghĩa Mác- Lênin quan
điểm, đường lối của đảng Ngoài ra, luận văn sử dụng một số phương pháp
khác: phân tích và tổng hợp; lịch sử - lôgíc, thống kê xã hội học, so sách đối
chiếu , nhằm làm rõ nội dung mà luận văn đề cập.
5. Ý nghĩa, lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn sẽ góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý
nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa
bàn TP Hà nội.
- Luận văn đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện quản lý nhà
nước đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn
TP Hà nội.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các đồng nghiệp khi
nghiên cứu về vấn đề quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội.
6. Kết cấu của luận văn gồm:
Phần mở đầu; Phần nội dung; Phần kết luận; Phần tài liệu tham khảo.
Phần nội dung chính kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp hoạt

động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch trên địa bàn TP Hà nội.
4
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC DU LỊCH TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Du lịch và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.1. Khái quát chung về du lịch.
Hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong du lịch sự phát triển của
loài người. Giống người Homo Erectus xuất phát từ miền đông và nam châu
Phi nhưng di tích của những người tiền sử này đã được tìm thấy ở Trung
Quốc và Java (In đonexia) cách đây khoảng một triệu năm. Các chuyên gia
cho rằng để di chuyển được một khoảng cách như vậy thời bấy giờ phải mất
khoảng 15.000 năm. Một gia thuyết cho rằng, những người cổ xưa đi du mục
để tìm thức ăn và trốn tránh nguy hiểm. Một giả thuyết khác lại cho rằng, con
người quan sát sự di chuyển của loài chim, muốn biết chúng từ đâu đến và
chúng bay đi đâu, nên họ đã di chuyển mặc dù họ không thiếu thức ăn nơi họ
sinh sống. Tức là từ xa xưa, con người đã luôn có tíh tò mò muấn tìm hiểu thế
giới xung quanh, bên ngoài nơi cư trú của họ. Con người luôn muốn biết
những nơi khác có cách sống ra sao, muốn biết về các dân tộc, nền văn hóa,
các động vật, thực vật và địa hình ở những vùng khác hoạc quốc gia khác.
Lần theo chiều dài lịch sử cho thấy du lịch xuất hiện khá sớm từ thời kỳ
cổ đại gắn với đại phân công lao động xã hội lần thứ hai – nghành thủ công
tách ra khỏi nông nghiệp. Đến thời đại chiếm hữu nô lệ , khi cuộc phân chia
lao động lần thứ ba – thương nghiệp tách ra khỏi sản xuất, kinh doanh du lịch
đã có biểu hiện ba xu hướng chính: Lưu trú, ăn uống và giao thông. Du lịch
trong thời kỳ này tập trung ở các trung tâm kinh tế văn hóa của loài người.
5

Thể loại du lịch nghỉ ngơi và giải trí cũng đã phát triển cho giới quý tộc chiếm
hữu nô lệ, những người phục vụ và các nhân viên cao cấp. Sau thế kỷ IV, khi
đạo Thiên chúa giáo được phát triển, du lịch chữa bệnh cũng đã xuất hiện.
Trong thời kỳ phong kiến du lịch không có biểu hiện gì lớn. Ở thời kỳ
này du lịch công vụ và du lịch tôn giáo là loại hình tương đối phát triển so với
các thể loại du lịch khác. Đáng chú ý trong thời kỳ hưng thịnh của chế độ
phong kiến ( từ giữa thế kỷ XI đến thế kỷ XVI), du lịch có một bước chuyển
biến mới. Ngoài các thể loại du lịch công vụ và du lịch tôn giáo, một số thể
loại du lịch khác được phục hồi và phát triển như du lịch chữa bệnh và du lịch
vui chơi giải trí. Đặc biệt phải kể đến các chuyển đi xa, dài ngày ( có khi hàng
năm) của các đoàn gồm những người sùng đạo đến các trung tâ đạo giáo
( Rôm, Reruxalem của người theo đạo Thiên chúa giáo Meca và Medina của
người theo đạo Hồi giáo). Thời kỳ cuối chế độ phong kiến (thế kỷ XVI đến
những năm 40 của thế kỷ XVII), những điều kiện cho việc phát triển du lịch
được mở rộng, nhất là Pháp, Anh và Đức – những nước có nền kinh tế phát
triển nhất bây giờ.
Thời kỳ cận đại ( từ những năm 40 của thế kỷ XVII đến chiến tranh thế
giới lần thứ nhất), với sự ra đời và củng cố của chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế
thế giới phát triển mạnh và có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động du lịch.
Chuyển biến rõ nét nhất phải kể đến thời điểm từ sau cuộc bùng nổ cuộc cách
mạng kỹ thuật, trong đó có cuộc các mạng giao thông và sự ra đời của đầu
máy hơi nước là tiền để vật chất quan trọng cho việc phát triển của du lịch.
Trong thời kỳ hiện đại, kể từ sau cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất
với sự chuyến biến chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn thấp đến lên giao đoạn cao,
đã tạo điều kiện cho thể loại du lịch thể thao mùa đông được khai sinh và phát
triển ngang với số khách đi nghỉ khí hậu núi vào mùa hè, làm cho các trung
tâm du lịch núi trở nên sầm uất cả về mùa đông và mùa hè.
6
Những năm đầu sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 các mối quan hệ du
lịch Quốc tế phục hồi chậm và ít có thay đổi trong đặc trưng và trong cơ cấu

của mối quan hệ ấy. Nhưng cùng với bước phát triển vượt bậc của cách mạng
khoa học – kỹ thuật từ đầu năm 1950 đến nay đã đánh dấu một cao trào vươn
lên mạnh mẽ của du lịch quốc tế.
Nếu như đến giữa những năm 1980, thị trường du lịch thế giới còn
được phân thành du lịch ở các nước XHCN, du lịch ở các nước tư bản chủ
nghĩa và du lịch ở các nước đang phát triển, sự giao lưu giữ ba thị trường trên
là vô cùng hạn chế, thì đến nay hoạt động của du lịch quốc tế đã phát triển ở
phạm vi toàn cầu. Nhiều thế loại du lịch mới xuất hiện và phát triển Cơ sở
vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng của du lịch cũng có nhiều thay đổi và ngày
càng hiện đại. Cuộc cạnh tranh trên thị trường du lịch ngày càng sâu sắc trên
mọi hình phường diện. Do đó, mỗi nước phát triển du lịch đều có hướng phát
triển riêng để tự khẳng định mình trên thị trường du lịch thế giới.
Theo số liệu của Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) năm 2000 số
lượng khách du lịch toàn cầu đã là 698 triệu lượt người, thu nhập là 467 tỷ
USD; năm 2002 lượng khách là 716,6 triệu lượt người và thu nhập là 474 tỷ
USD; dự tính đến năm 2010 lượng khách là 1.006 triệu lượt và thu nhập sẽ là
900 tỷ USD. Con số này cho thấy nhu cầu du lịch có tốc độ gia tăng nhanh
chóng. Vấn đề đặt ra là quốc gia nào đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng cả
về số lượng và chất lượng của du lịch, quốc gia đó sẻ thắng thế trong việc tìm
kiếm nguồn thu từ du lịch.
1.1.2. Khái niệm về du lịch
Khi nói đến du lịch, người ta thường nghĩ ngay đến những người đi đến
một nơi nào đó để tham quan, thăm bạn bè và họ hàng, đi nghĩ mát và hưởng
thụ. Những người này dùng thời giờ rảnh để chơi thể thao, phơi nắng,trò
chuyện, xưm hát, đi dạo hay chỉ đơn giản là thưởng thức môi trường xung
quanh. Nếu xem xét khía cạnh rộng hơn, trong định nghĩa du lịch có thể bao
7
gồm những người đi lam kinh doanh, công tác, dự hội nghị, hội thảo, thực
hiện các hoạt động chuyên ngành (professionai activities), học giỏi hay
nghiên cứu khoa học, kỹ thuật.

Vấn đề định nghĩa du lịch một cách quy mô phải bao gồm các thành
phần tạo ra hoạc chịu ảnh hưởng của ngành du lịch. Quan điểm của thành
phần này có tầm quan trọng đến việc triển khai một định nghĩa bao quát.
Trên thế giới, du lịch đã được đánh giá là một ngành kinh tế đặc thù,
vai trò của du lịch đã được các quốc gia và các nền kinh tế nhận thức đúng
đắn. Ngày nay du lịch đã được trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính
phổ biến, du lịch là ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả các ngành sản
xuất ô tô, điện tử và nông nghiệp. Một số quốc gia coi du lịch là nguồn thu
ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương, là một ngành kinh tế hàng đầu,
coi chỉ tiêu đi du lịch của dân cư là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng cuộc
sống, nên nhanh chóng phát triển nó trở thành ngành kinh tế.
Trong quá trình hình thành và phát triển du lịch, cho đến nay có khá
nhiều định nghĩa về du lịch. Trước đây, người ta chỉ mới quan niệm du lịch là
một loại hình hoạt động mang tính văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí và
những nhu cầu hiểu biết của con người, du lịch không được coi là một hoạt
động kinh tế, không mang tính chất kinh doanh và ít được đầu tư để phát triển
bởi du khách hầu hết là những người hành hương, thương nhân cho đến đầu
thể kỷ XX, du lịch vẫn còn dành riêng cho một nhóm người giàu có, họ đi du
lịch với mục đích giải trí và được coi là những kỳ nghỉ bình thường. Kể từ
những năm 50 của thể kỷ XX đổ lại đây, khái niệm về du lịch luôn được đưa
ra tranh luận.
Thuật ngữ “du lịch” bắt đầu từ từ “TOUR” trong tiếng Pháp, có nghĩa
là di vòng quanh, cuộc dạo chơi. Như vậy về bản chất, du lịch gắn liền với
việc nghỉ ngơi, giải trí nhằm phục hồi sức khỏe và khả năng lao động của con
người, và gắn với việc di chuyển địa điểm.
8
Thực tiễn chứng minh rằng, số người đi du lịch rất hạn chế và ngày
càng tăng dần lên. Cùng với việc phát triển hạ tầng giao thông, những chuyến
đi ngày càng xa hơn và dài ngày hơn.
Rõ ràng, du lịch ngày nay đã trở thành một đề tài khá hấp dẫn và mang

tính toàn cầu, nên việc có nhiều nhà khoa học nghiên cứu và có nhiều cách
định nghĩa khác nhau về du lịch, đó cũng là điều bình thường của một khái
niệm đang còn mới và phát triển.
Cho đén nay mặc dù khái nệm du lịch có nhiều định nghĩa. Định nghĩa
du lịch một cách quy mô phải bao gồm các thành phần tạo ra hoạc chịu ảnh
hưởng của hoạt động du lịch. Quan điểm của các thành phần này có tầm quan
trọng đến một triển khai một định nghĩa bao quát, nhưng dưới gốc độ nghiên
cứu của luận văn, chỉ xin được hệ thống hóa một số định nghĩa chủ yếu là:
Thứ nhất, theo quan điểm của du khách. Đay là đi tìm các trải nghiệm
(experiences) và thõa mãn (satisfaction) về vật chất hay tinh thần khác nhau.
Ước muốn củ các đối tượng này sẻ xác định địa điểm du lịch được lựa chọn
và các hoạt động được thực hiện tại địa điểm đó.
Thứ hai, theo quan điểm của người kinh doanh du lịch. Du lịch là quá
trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thõa mãn, đáp ứng
các nhu cầu của người đi du lịch. Các doanh nghiệp du lịch coi du lịch như là
một cơ hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra nhằm thỏa mãn các nhu
cầu của khách (người đi du lịch), đòng thời qua đó đạt được mục đích số một
của mình là tối đa hóa lợi nhuận.
Thứ ba, theo quan điểm của bộ máy chính quyền địa phương. Theo
quan điểm này du lịch được hiểu là việc tổ chức các điều kiện về hành chính,
về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỷ thuật đẻ phục vụ du khách. Du lịch là tổng
hợp các hoạt động kinh doanh đa dạng được tổ chức nhằm giúp đỡ việc hành
trình và lưu trú tạm thời của cá thể. Du lịch là cơ hội để bán sản phẩm địa
phương, tăng thu ngoại tệ, tăng các nguồn thu nhập từ các khoản thuế trực
9
tiếp và gián tiếp, đẩy mạnh cán cân thanh toán và nâng cao sức sống vật chất
và tinh thần cho địa phương.
Thứ tư, trên góc độ cộng đồng dân cư sở tại. du lịch là một hiện tượng
kinh tế - xã hội. Trong trong giai đoạn hiện nay, có được đặc trưng bởi sự
tăng nhanh khối lượng và mỡ rộng phạm vi, cơ cấu dân cư tham gia vào qua

trình du lịch tại địa phương mình vừa đem lại những cơ hội để tìm hiểu về nền
văn hóa và phong cách của người ngoài địa phương, người nước ngoài; là cơ
hội để tìm kiếm việc làm, để phát sinh và phát triển các nghề cổ truyền, các
nghề thủ công truyền thống của dân tộc. Thông qua du lịch, một mặt có thể
tăng thu nhập nhưng mặt khác cũng gây ảnh hưởng đến đời sống của người
dân sở tại như: Vấn đề về môi trường, trật tự an ninh, xã hội
Ngoài ra, ở thời đại sự nhìn nhận về du lịch cũng có khác nhau Điều đó
phản ánh mức độ phát triển của du lịch. Năm 1811, lần đầu tiên tại Anh có
định nghĩa về du lịch: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và
thực hành của các cuộc hành trình với mục đích giải trí”. Năm 1930 Ông
Glusman, người Thụy Sỹ định nghĩa: “ Du lịch là sự chinh phục không gian
của những người đến một địa điể mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường
xuyên”. Sau này, giáo sư, tiến sĩ Hunziker và giáo sư, tiến sỹ Krapf- hai người
được coi là những người đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra
định nghĩa như sau: “ Du lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng
phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa
phương, nếu việc lưu trú đó không thành cư trú thường xuyên và không liên
quan đến hoạt động kiếm lời”.
Theo Từ điển bách khoa quốc tế về du lịch – Le Dictionnaire
internationnal du tourisme, do Việt hàn lâm khoa học quốc tế về du lịch xuất
bản: “ Du lịch là tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực
hiện một dạng hành trình, là một công nghiệp liên kết nhằm thỏa mãn các nhu
cầu của khách du lịch Du lịch là cuộc hành trình mà một bên là người khởi
10
hành với mục đích đã được chọn trước và một bên là những công cụ làm thỏa
mãn các nhu cầu của họ”.
Nhìn chung, các định nghĩa này không được nhiều nước chấp nhận, bởi
lẽ, các định nghĩa này chỉ xem xét chung hiện tượng xã hội mà ít phân tích nó
như một hiện tượng kinh tế. Nên, Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở
Otawa – Canada được tổ chức vào tháng 6/1991 đã đưa ra định nghĩa: “ Du

lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường
xuyên ( nơi ở thường xuyên của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn
khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của
chuyến đi không phải là để kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam đã đưa ra hai khái niệm cơ bản:
Một là, du lịch là “ một dạng nghỉ dưỡng sức, tham quan tích cực của
con người ở ngoài nơi cư trú với mục đích: Nghỉ ngơi, giải trí, xem dannh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa, nghệ thuật vv
Hai là, du lịch là “ một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về
nhiều mặt: Nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa
dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước
ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình . Về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực
kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn, có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng
hóa và lao động dịch vụ tại chỗ. Hầu như nước nào cũng coi trọng phát triển
hoạt động du lịch. Nói chung trên thế giới, du lịch ra nước ngoài có xu hướng
phát triển nhanh và Việt Nam có tiềm năng du lịch rất lớn”.
Theo Luật Du lịch của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2005: “ Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời đại nhất định”; “ Hoạt động du
lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng
đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch” , và “
11
Dịch vụ là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống
vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng
nhu cầu của khách du lịch”.
Từ tổng quan các định nghĩa về du lịch, cho thấy mỗi định nghĩa đều
muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh nhất định có liên quan đến hoạt động du
lịch, cần phải đặt vấn đề khi nghiên cứu khái niệm, định nghĩa về hoạt động
du lịch, song vì chúng ta nghiên cứu khái niệm du lịch trong điều kiện kinh tế

thị trường và vận dụng trong môi trường cụ thể và trên quan điểm quản lý
Nhà nước, khái niệm du lịch cần nhấn mạnh theo định nghĩa là một ngành
kinh tế. Do vậy, tác giả luận văn xin đưa ra nét định nghĩa cơ bản:
Du lịch là một hoạt động kinh tế bao gồm các hoạt động của những
đơn vị kinh doanh và phục vụ du lịch, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại
lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu cầu khác của
khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại hiệu quả kinh tế, chính trị,
xã hội thiết thực cho khách du lịch, cho quốc gia và cho chính bản thân
các doanh nghiệp.
Việc nhấn mạnh khái niệm du lịch nói trên không đồng nghĩa với việc
kinh doanh du lịch đơn thuần mà còn coi trọng đến hiệu quả về kinh tế, chính
trị - văn hóa – xã hội của tất cả các chủ thể liên quan đến du lịch; tạo điều
kiện cho du lịch tái đầu tư, bảo tồn và phát triển du lịch bền vững nhằm đáp
ứng nhu cầu của khách du lịch ngày một tốt hơn.
1.1.3 Các đặc diểm của hoạt động du lịch:
Từ những quan niệm trên đây về du lịch, chúng ta có thể đưa ra một số
đặc điểm cơ bản về hoạt động du lịch như sau:
Thứ nhất, hoạt động du lịch mang tính chất của ngành dịch vụ
Đặc trưng nỗi bật nhất là sản phẩm của các ngành dịch vụ được coi là
hàng hóa vô hình, và luôn là hàng hóa cuối cùng. Do đó, kinh doanh du lịch
đòi hỏi sự hoàn hảo từ những khâu nhỏ nhất bởi nó không có cơ hội sửa chữa
12
hay bảo hành như các hàng hóa thông thường khác. Đặc điểm đó cũng đưa tới
yêu cầu riêng đối với công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Trước đây, quan niệm về ngành dịch vụ còn khá hạn hẹp, nó chỉ bao
gồm các hoạt động kinh tế nhằm thỏa mãn nhu cầu đơn giản của con người
như: Sửa chữa đồ dùng gia đình, chăm sóc sức khỏe, mang tính phục vụ
một cá nhân hay một nhóm nhỏ dân cư và được coi là một hoạt động phụ, chủ
yếu có tính phục vụ đơn thuần.
Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học kỹ thuật, nền

sản xuất của cải vật chất phát triển với tốc độ cao, gia tăng quá trình phân
công lao động xã hội rõ rệt, nảy sinh ra các hoạt động dịch vụ sản xuất, cung
ứng nhu cầu lao động có tính chất phục vụ hoạt động sản xuất, hoạt động
phục vụ đời sống con người.
Trước thực tiễn đó, ngành kinh tế dịch vụ đã phát triển song song với
sự phát triển kinh tế, xã hội nhằm đáp nhu cầu chung cho nhân loài đóng vai
trò là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất; sản xuất với khoa học kỹ thuật và
đời sống con người trong môi trường nhân loại ngày càng văn minh, hiện đại.
Thứ hai, Hoạt động du lịch vừa phải thỏa mãn nhu cầu vật chất, vừa
thỏa mãn nhu cầu tinh thần của khách hàng.
Song song với sự tiến bộ xã hội, đời sống con người ngày càng cao và
nhu cầu cuộc sống cũng ngày càng lớn. Du lịch là một trong những nhu cầu
không thể thiếu tỏng đời sống hiện đại, với ý nghĩa là yếu tố cần thiết trong
việc nghỉ ngơi, nhằm tái tạo sức lao động của con người. Khi tham gia quá
trình du lịch, khách du lịch thường có nhu cầu nhiều hơn thường ngày do tâm
lý hưởng thụ để bù đắp xứng đắp xứng đáng cho thời gian làm việc.
Ngành kinh doanh du lịch và địa chỉ để khách hàng chuyển yêu cầu của
họ đến. Việc cung cấp các sản phẩm vật chất để thỏa mãn nhu cầu ăn, ở, nghỉ
ngơi của khách sạn luôn gắn liền với sự tiện nghi và bản sắc văn hóa quốc gia,
13
địa phương. Tính độc đáo ở mỗi nơi khách đến là một trong những động lực
tạo nên chuyển du lịch.
Để khách hàng được thỏa mãn các nhu cầu khi đi du lịch, nhà kinh
doanh và nhà quản lý cần quan tâm tới việc phối hợp với các nghành sản xuất
vật chất, thương mại, vận tải, các cơ sở văn hóa Đến lượt nó các ngành phụ
trợ này lại mang về nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia cũng như góp phần thu
hút nhiều khách hơn cho du lịch.
Một số nhà nghiên cứu cho răng du lịch vừa có tính chất như một
ngành dịch vụ khi nó tạo ra sản phẩm vô hình thỏa mãn trực tiếp nhu cầu từng
khách hàng cụ thể, vừa có tính chất của một ngành sản xuất vật chất khi nó

cung cấp các sản phẩm hàng hóa hữu hình cho cuộc du lịch của khách hàng
như thế biến các món ăn chẳng hạn, vừa có tính chất của ngành văn hóa khi
thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của khách hàng bằng những nét văn
hóa dân tộc hay địa phương.
Thứ ba, hoạt động du lịch có ảnh hưởng ngoại biên đa chiều tới phát
triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, ở những nước, hoạt động du lịch không chỉ đem lại lợi ích
kinh tế mà còn đem lại giá trị chính trị, văn hóa, xã hội to lớn. Đơn cử, ở Việt
Nam, vào những năm của thập kỷ 90 thế kỷ trước, trong chương trình mục
tiêu xúc tiến du lịch tại các quốc gia trên thế giới, tại một số nước phát triển
của châu âu, có những cá nhân đã từng đặt câu hỏi rằng: “đất nước Việt Nam
của các bạn còn chiến tranh không”. Điều này cho thấy rằng với cách tiếp cận
thông qua hoạt động du lịch, sẽ đem lại những nhìn nhận, hiểu biết chính trị,
xã hội, thậm chí, về thế chế và nước của các quốc gia mà các hoạt động kinh
tế khác không đem lại.
Du lịch còn được gọi là ngành công nghiệp không khỏi với hàm ý ít
gây ô nhiễm môi trường sống. Trong những năm 1960, với chiến lược “xanh”,
Thái Lan đã có khởi động hệ thống du lịch một cách rầm rộ và mang về cho
14
quốc gia này nguồn thu ngoại tệ lớn. Tuy nhiên, không thể không kể đến
những ảnh hướng tiêu cực cho xã hội và môi trường do đẩy mạnh quá đà hay
buông lỏng quản lý hoạt động ngành công nghiệp này. Bài học đắt giá của các
nước đi trước là cánh báo cho Việt Nam về công tác QLNL trong lĩnh vực du
lịch.
1.1.4 Vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân
1.1.4.1 Du lịch đóng góp phần quan trọng vào việc tạo ra giá trị mới.
Sản phẩm du lịch được tiêu dùng trực tiếp, không có hàng hóa trung
gian. Một đặc điểm quan trọng khác biệt giữa việc tiêu dùng du lịch và tiêu
dùng các hàng hóa khác là việc sản xuất ra chúng. Thực tế, để thực hiện được
quá trình tiêu thụ sản phẩm, người hưởng thụ được đưa đến nơi sản xuất và

tiêu dùng tại chỗ. Vì vậy, sản phẩm du lịch trực tiếp đóng góp vào tổng sản
phẩm quốc nội với tư cách giá trị gia tăng.
1.1.4.2 Du lịch tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế khác
Du lịch ngày nay không chỉ là ngành kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế
qua mà còn là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác
thông qua việc tiêu dùng của du khách trong chuyến du lịch, trước hết, ở nhu
cầu vận tải khi khách hàng di chuyến tới các địa điểm du lịch. Tiếp theo là
việc tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa cho nhu cầu sinh hoạt tại nơi du lịch,
gồm chỗ ở, các vật dụng sinh hoạt, thực phẩm vv. Bên cạnh đó, không thể
không nói tới các nhu cầu tinh thần. nỗi bật trong lĩnh vực này phải kể đến
các đặc trưng văn hóa, xã hội của địa phương. Điều này liên quan đến việc
đầu tư các khu vui chơi, giải trí, bãi tắm, tuyên truyền và khai thác các di tích,
danh lam thắng cảnh và không loại trừ những sản phẩm truyền thống. Các
hoạt động văn hóa, nghệ thuật, đặc biệt nghệ thuật truyền thống cũng có cơ
hội phát triển.
Điều thú vị ở đây là, phần lớn khách du lịch là những người có mức
sống cao. Khái niệm khách du lịch vì thế thường gắn liền với khả năng chi trả
15
cao. Việc phát triển các ngành sản xuất, các hoạt động văn hóa theo hướng
phục vụ du lịch cũng vì thế tất yếu phải hướng vào vấn đề chất lượng và tính
đặc sắc, tính độc đáo của sản phẩm.
1.1.4.3 Du lịch thúc đẩy lưu thông hàng hóa- tiền tệ giữa các vùng
miền trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia.
Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác dụng biến đổi cán cân
thu chi của khu vực và của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất
nước mà họ đi du lịch, làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước đến. Trong
phạm vi một quốc gia, hoạt động du lịch làm xảo động hoạt động luân chuyển
tiền tệ, hàng hóa. Du lịch có tác dụng điều hòa thu nhập từ vùng kinh tế phát
triển sang vùng kém phát triển hơn, kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng
sâu, vùng xa. Khi khu vực nào đó trở thành một điểm du lịch, du khách từ

mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hóa tăng lên đáng kể. Việc đòi
hỏi một số lượng lớn vật tư, hàng hóa các loại kích thích mạnh mẽ các ngành
kinh tế có liên quan, đặc biệt là nông nghiệp, công nghiệp chế biến vv. Bên
cạnh đó, các hàng hóa vật tư cho du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao,
phong phú về chủng loại, hình thức đẹp và hấp dẫn. Điều này có nghĩa là yêu
cầu hàng hóa phải được sản xuất trên mọi công nghệ cao, trình độ tiên
tiến vv Để sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của du khách.
So với ngoại thương ngành du lịch cũng có nhiều ưu thế nỗi bật. Du
lịch xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu, nên
tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người mua không
quá cao.
Ở Việt Nam với chủ trương mở cửa “làm bạn với tất cả các nước” nên
kinh tế Việt Nam phát triển nhanh chóng, thu hút sự chú ý của các doanh
nghiệp nước ngoài vào hợp tác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng
triệu lao động với thu nhập cao, thúc đẩy nền kinh tể phát triển của đất nước
tăng trưởng với nhịp độ cao, cùng với sự phát triển nền kinh tế của đất nước ở
16
mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, giá cả trong nước ổn định,
chỉ số của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành du lịch nói riêng.
1.1.4.4 Du lịch góp phần đẩy nhanh quá trình mở cửa nền kinh tế:
Du lịch quốc tế làm tăng du lịch ngoại tệ của đất nước ( ở một số nước,
con số này vượt quá 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của đất nước), đóng góp
vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán.
Việc bán hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch nước ngoài là một hình
thức xuất khẩu tại chỗ. Việc bán hàng hóa cho khách du lịch nước ngoài mang
lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với xuất khẩu thương mại vì giá bán xuất khẩu
thương mại là giá bán buôn còn giá bán cho khách du lịch nước ngoài trong
phạm vi biên giới lãnh thổ của quốc gia là giá bán lẻ và không phải chịu thuế
quan hàng rào quốc tế. Việc bán hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch trên
tiết kiệm đáng kể các chi phí đóng gói, bảo quản, chi phí vận chuyển, thuế

xuất nhập khẩu, thời gian quay vòng vốn nhanh, lãi suất cao vì nhu cầu du
lịch là nhu cầu cao cấp và có khả năng chi trả cao và kết quả là tiền nhàn rỗi
trong lưu thông có thế được sử dụng vào các mục đích khác trong nên kinh tế
quốc dân.
Hàng hóa xuất khẩu phải chi trả tiền bảo hiểm hàng hóa cho các cơ
quan bảo hiểm. Hàng hóa xuất khẩu tại chỗ qua kênh du lịch thì sự rủi ro hạn
chế hơn, tỉ lệ cho bảo hiểm ít hơn vì thời gian vận chuyển ngắn hơn, hàng hóa
được bảo quản hơn, ít rủi ro hơn.
Các hàng hóa bán cho du khách quốc tế đa phần không phải là hàng
hóa thuộc đối tượng xuất khẩu của ngoại thương, trong trường hợp này du
lịch đã mở rộng danh sách các mặt hàng xuất khẩu.
Du lịch còn góp phần khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thông qua du lịch, nhà đầu tư nước ngoài dễ tiếp cận hơn với thực tiễn nước
sở tại. Nhờ đó đẩy nhanh hơn việc ra quyêt định đầu tư, bao gồm cả đầu tư
trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
17
Du lịch góp phần củng cố và phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Các
tổ chức du lịch quốc tế mang tính chính phủ và phi chính phủ có tác động tích
cực trong việc hình thành các quan hệ kinh tế quốc tế. Phát triển du lịch quốc
tế giúp cho giao thông quốc tế phát triển. Lượng hành khách được coi là yếu
tố quyết định cuối cùng tới việc mở các tuyến giao thông mới, số lượng, lịch
trình các chuyến bay hay tàu biến và các phương tiện giao thông khác.
1.1.4.5 Du lịch góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia
Ngoài những tác trực tiếp tới kinh tế, văn hóa, du khách còn có ảnh
hưởng ngoại hiện tích cực tới đời sống xã hội có thể nêu một số nét điển hình
như sau:
Thứ nhất, du lịch tạo việc làm, thu nhập cho xã hội nói chung địa
phương nói riêng góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Theo
thống kê của tổ chức du lịch thế giới, tổng số lao động trong các hoạt động du
lịch và liên quan chiếm 10,7% so với tổng số lao động toàn cầu. Cứ 2,5 giây

du lịch tạo ra một việc làm mới và trong số 8 lao động thì sẽ có 1 lao động
trong ngành du lịch. Một phòng khách sạn 3 sao trung bình trên thế giới hiện
nay thu hút 1,3 lao động và khoảng 5 lao động trong các dịch vụ bổ xung. Số
lượng lao động trong các dịch vụ bổ xung có thể tăng lên nếu dịch vụ bổ chất
lượng cao và phong phú về chủng loại.
Thứ hai, du lịch góp phần làm thay đổi bộ mặt địa phương nhờ những
công trình đầu tư phục vụ du lịch. Hơn nữa, giao lưu với khách du lịch góp
phần nâng cao dân trí địa phương. Du lịch làm giảm quá trình đô thị hóa và sự
di cứ đến các thành phố, đô thị lớn. Thông thường tài nguyên du lịch thiên
nhiên thường có ở các vùng xa xôi héo lánh như các vùng núi, vùng biển hay
các vùng xa xôi héo lánh khác. Khai thác tài nguyên phát triển du lịch ở các
vung này làm cải thiện cơ sở hạ tầng, làm thay đổi bộ mặt của vùng, địa
phương.
18
Phát triển du lịch làm tăng lòng yêu Tổ quốc, lòng tự hào dân tộc. Du
lịch góp phần bảo tồn, tôn tạo phát triển tài nguyên các giá trị văn hóa truyền
thống. Bên cạnh việc bảo tồn, tôn tạo tài nguyên các giá trị văn hóa truyền
thống có các điều kiện phục hồi phát triển.
Du lịch làm tăng tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc, tăng cường
giao lưu văn hóa và sự hiểu biết giữa các dân tộc, các nền văn hóa.
Thứ ba, du lịch góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương nhờ
gián tiếp làm phát triển một số ngành nghề phục vụ du lịch, đặc biệt các
ngành, nghề truyền thống sử dụng nhiều lao động và có giá trị văn hóa dân
tộc
Thứ tư, du lịch tạo điều kiện cho việc hình thành các hợp đồng kinh tế
mới, nhờ đó phát triển thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh. Điều này
đặc biệt cần thiết trong điều kiện một nền kinh tế chưa phát triển như nước ta.
Thứ năm, du lịch góp phần khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực
tiềm ẩn của quốc gia và địa phương. Bằng việc thu hút khách du lịch, ngoài
nguồn thu từ dịch vụ du lịch của các cơ sở kinh doanh hình thức, địa phương

còn có cơ hội phát triển các cơ sở sản xuất hàng truyền thống, dân cư trên địa
bàn có thu nhập từ các hoạt động phụ trợ như biểu diễn văn hóa truyền thống,
bán hàng, cho thuê nhà nghỉ vv. Ngày nay, có hình thức ,các hình thức du
lich sinh thái với những hoạt động nghỉ ngơi,giải trí,thể thao ,kết hợp khám
phá cảnh quan môi trường đang trở thành mốt.Đây thực sự tạo điều kiện cho
tất cả các địa phương khai thác được nguồn thu từ các di tích lịch sử ,tôn
giáo ,di tích kiến trúc ,địa hình và môi trường.
Du lịch với những thế mạnh của nó đang ngày càng được nhiều nhà
kinh doanh chú ý, thị trường du lịch vì thế trở nên sôi động ở tất cả các dẳng
cấp .Song ,mặt trái của hoạt động du lịch cũng làm phat sinh nhiều vấn đề trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội . Quản lý nhà nước đối với hoạt động
du lịch vì thế được đánh giá là công tác hết sức khó khăn,phức tạp.
19
1.2 Quản lý nhà nước về du lịch
1.2.1. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước về du lịch
Quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
liên tục bằng quyền lực pháp luật nhà nước dựa trên cơ sở nền tảng của thể
chế chính trị nhất định đối với các quá trình, các hoạt động du lịch của can
người để duy trì và phát triển ngày càng cao các hoạt động du lịch trong nước
và du lịch quốc tế nhằm đạt được các hiệu quả kinh tế xã hội do nhà nước đó
đặt ra.
Quản lý nhà nước đói với hoạt động du lịch là phương thức chỉ đạo,
ddiieuf hành, điều chỉnh các mối quan hệ thông qua hệ thống pháp luật, các
chủ thể quản lý (cơ quan quản lý được nhà nước ủy quyền)tác động tới các
đối tượng bị quản lý tham gia trong quá trình kinh doanh nhằm định hướng
cho hoạt đọng du lịch theo sự vận động, phát triển có mục đích.
Những lý do chủ yếu để khẳng định sự cần thiết khách quan của việc
quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch bao gồm:
Thứ nhất, du lịch cần được phát triển nhanh và hiệu quả.
Tạo ra mức lợi nhuận hấp dẫn, du lịch thu hút được số lượng lớn nhà

đầu tư, cũng khó thống kê đầy đủ số lượng cơ sở kinh doanh nhỏ. Áp lực cạnh
tranh khốc liệt trên thị trường du lịch ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ doanh
nghiệp thất bại và rút khỏi thị trường, gây tình trạng bất ổn trong kinh doanh
và phân bboos nguồn lực kém hiệu quả. Đẻ tạo ddiieuf kiện cho hoạt động du
lịch phát triển thuận lợi, cung cấp thông tin và tư vấn trong đầu tư kinh doanh
du lịch, cần thiết có sự điều tiết từ phía cơ quan quản lý nhf nước có thẩm
quyền.
Thứ hai, du lịch cần có sự phối hợp đòng bộ với các nghành khác để
dạt mục tiêu phát triển bền vững.
Với tư cách một ngành tạo ra giá trị mới ,đóng góp vào tổng sản phẩm
xã hội ,du lịch cần được phat triển phù hợp định hướng phát triển thống nhất
20
của quôc gia . Hoạt động du lịch là bộ phận cấu thành không tách rời trong
tổng thể nền kinh tế. Một mặt, du lịch góp phần thúc đẩy phát triển các
nghành sản xuất, thương mại, dịch vụ khác có liên quan, một mặt, du lịch chỉ
có thể phát triển tốt khi các nghành đó đáp úng được các nhu cầu của khách
du lịch. Quan hệ tương hỗ này giúp cho du lịch có thu hút được khách hàng
không phải một ma nhiều lần đến với điểm du lịch, và hơn nữa, đó là mức thu
cho quốc gia hay địa phương từ các khoản chi tiêu cho các dịch vụ phụ trợ
của khách du lịch.
Thứ ba, quản lý nhà nước còn năm hạn chế ảnh hưởng ngoại hiện tiêu
cực từ hoạt động du lịch trong giới hạn cho phép.
Kinh doanh du lịch và hoạt động của khách du lịch luôn tiềm ẩn nguy
cơ gây phương hại tới địa phương và quốc gia. Trước hết, các hoạt động trong
sinh hoạt thường nhật của khách du lịch làm biến đổi cảnh quan môi trường.
Chỉ riêng sự có mặt của con người cũng làm mất đi nhiều nét đặc trưng của
thiên nhiên cả về thực và động vật, cộng thêm rác thải và các hành vi vô ý
thức rất dễ ô nhiễm cho điểm du lịch. Tiếp đến, mức viếng thăm các di tích
quá cao cũng dễ cũng gây hiện tượng xuống cấp. Ngoài ra, không thể không
kể đến các ảnh hưởng về mặt xã hội, dịch tễ.

Về mặt kinh tế, tác động rõ ràng nhất là tình trạng lạm phát cục bộ hay
giá cả hàng hóa tăng cao, nhiều khi vượt quá khả năng chi tiêu của người dân
địa phương, nhất là của những người mà thu nhập của họ không liên quan đến
hoạt động du lịch.
1.2.2. Các nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về du lịch
1.2.2.1 Mục tiêu của quản lý nhà nước về du lịch
Mục tiêu tổng quát là phát triển du lịch bền vững. Trong đó, du lịch
phải đóng góp phần quan trọng vào tổng sản phẩm xã hội, giải quyết việc làm,
góp phần thực hiện các mục tiêu quốc gia, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, như chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện thu nhập và mức
21
sống của dân cư, xóa đói giảm nghèo, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước ở các cấp để tạo nguồn cho các khoản đầu tư xây dựng địa phương, bảo
vệ tài nguyên môi trường.
Như vậy, du lịch không chỉ nhằm vào mục tiêu kinh tế, du lịch phải góp
phần ổn định chính trị, quốc phòng, bảo vệ những giá trị vô hình khác của
quốc gia và địa phương.
1.2.2.2 Yêu cầu đối với công tác quản lý nhà nước về du lịch
Xuất phát từ tính chất của loại hoạt động kinh doanh du lịch, công tác
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đặc thù này cần đáp ứng những yêu cầu
sau:
Thứ nhất, đảm bảo ổn định và phát triển thị trường du lịch theo hướng
khai thác tối ưu các nguồn lực quốc gia và địa phương.
Thứ hai, quản lý và hướng các hoạt động kinh doanh du lịch đúng pháp
luật, cạnh tranh lành mạnh, có hiệu quả.
Thứ ba, đảm bảo ổn định chính trị, trật tự xã hội trên địa bàn, giữ gìn
cảnh quan, môi trường , các di tích, điểm du lịch.
Thứ tư, phát triển các ngành phụ trợ một cách cân đối và đáp ứng các
tiêu chuẩn hiện đại.
Thứ năm, hướng hoạt động du lịch vào việc thực hiện các mục tiêu

quốc gia và địa phương.
1.2.2.3 NHững nội dung chủ yếu của công tác QLNN về du lịch
Thứ nhất, quản lý nhà nước về định hướng, chiến lược phát triển du
lịch
Kinh doanh du lịch là công việc trước hết thuộc về doanh . Ngày nay,
công việc kinh doanh không đơn giản. Những toan tính ban đầu khác xa với
thực tiễn gây hiện tượng di chuyển đầu tư lòng vòng, phá sản và nhiều hậu
quả khác. NGười gánh chịu cuối cùng là xã hội. Có thể điểm một số thiệt hại
chủ yếu do đầu tư không hiệu quả: 1- lãng phí tài nguyên ( đất và các vật liệu
22
có nguồn gốc từ tài nguyên) cho các công trình, ví dụ điển hình là hàng loạt
ngôi chùa giả bị phá đi do sự yếu kém trong quản lý nhà nước về du lịch; 2-
lãng phí vốn (tất nhiên); 3- lãng phí nguồn nhân lực, và do đó gây thiệt hại về
thu nhập cho người lao động khi doanh nghiệp rút khỏi thị trường; 4-gây ảnh
hưởng tiêu cực về mặt xã hội và y tế. Ví dụ một số cơ sở kinh doanh du lịch
đã có những hoạt động trái pháp luật để bù đắp doanh số và thu hút khách
hàng, số khác có hành vi lừa đảo khách hàng, vv
Thiếu thông tin, không đủ điều kiện và năng lực kinh doanh là những
nguyên nhân chủ yếu của các doanh nghiệp này. Thực tế có thế giải quyết
được khi có “ bàn tay chính phủ” phối hợp với “ bàn tay vô hình” của thị
trường bằng việc xây dựng định hướng phát triển ngành du lịch, các quy
hoạch, kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn với nội dung tìm con đường đi
nhanh nhất, có hiệu quả nhất.
Thứ hai, quản lý nhà nước đối với các cơ sở hoạt động kinh doanh du
lịch, gồm các doanh nghiệp và các cơ sở kinh doanh ngành kinh tế này.
Thị trường là phương thức tốt để phân bố một cách có hiệu quả các
nguồn nhân lực khan hiếm của xã hội. Nhưng thị trường không tự nó là một
phương thức hoàn hảo. Thực tế, sự thiếu thông tin, phân tích và dự báo không
xác các dữ liệu từ thị trường đã đưa không ít doanh nghiệp đến bờ vực phá
sản. trong trường hợp các sự bất chấp những lợi ích chung của xã hội để mưu

cầu lợi nhuận tối đa. Nhà nước với tư cách người quản lý vĩ mô nền kinh tế có
thể can thiệp để sửa chữa những khuyết tật cố hữu của thị trường.
Thị trường du lịch luôn hấp hẫn nhà kinh doanh ngay từ khi mới ra đời.
Mức độ cạnh tranh trong thị trường này gay gắt cao độ. Trong điều kiện một
nền kinh tế mới nổi như Việt Nam, áp lực cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Hoạt
động vô chính phủ, vi phạm các lợi ích cộng đồng, xâm phạm và lãng phí tài
nguyên thiên nhiên, các công trình lịch sử, di tích văn hóa,v.v.luôn tiềm ẩn
trong quá trình mỡ rộng phạm vi hoạt động kinh doanh du lịch là tạo điều
23
kiện thuận lợi nhất cho khách bao gồm từ cơ sở vật chất tới các phương tiện
đi lại, nghe, nhìn, môi trường cảnh quan và các đối tượng hưởng thụ khác.
Trong khi cố gắng thõa mãn nhu cầu của khách, doanh nghiệp thường bỏ qua
việc bảo vệ và phát triển nguồn lực cho du lịch. mâu thuẫn này chỉ có thể
được giãi quyết thông qua việc hoạch định và triển khai các chính sách từ
phía Chính phủ. Quan hệ doanh nghiệp du lịch – nhà nước mà đại diện là các
cơ quan quản lý ngành, cơ quan quản lý chức năng trong nền kinh tế thị
trường vì vậy trở nên một mắt xích quan trọng trong hoạt động kinh doanh du
lịch.
Thứ ba, QLNN đối với luông khách và hoạt động củ khách du lịch.
Thu hút khách là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp. Song này vượt
qua khả năng của họ khi tồn tại trong một thể chế nhất định. Doanh nghiệp có
các kênh marketinh của riêng họ, nhưng không được vượt qua phạm vi cho
phép về mặt hành chính. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp
hay gián tiếp khơi thông các kênh đó bằng chính sách. Trong nước, đó là mở
mang giao thông là tự do đi lại, tự do cư trú, nới rộng hành lang pháp lý về
kinh doanh du lịch, vv. Đối với nước ngoài là tham gia các điều ước quốc tế
về việc đi lại,cư trú của công dân, khuyến khích đầu tư, cải cách các thủ tục
hành chính trong xuất, nhập cảnh và xuất khẩu, quảng bả hình ảnh quốc
gia vv. Ngoài ra, còn bao gồm việc quản lý số lượng, thành phần, quốc tịch
các luồng khách vv.

Hoạt động của khách du lịch có ảnh hưởng lớn đến môi trường, kinh tế,
chính trị, xã hội của quốc gia hay địa phương nơi họ đến. Đặc biệt trong
trường hợp khách nước ngoài còn liên quan đến các vấn đề văn hoá. Quản lý
luồng khách, các vấn đề liên quan đến nhu cầu của khách để vừa đảm bảo
phục vụ khách tốt hơn, tăng khả năng thu hút lượng khách, vừa thực hiện
được các chức năng của quản lý nhà nước về con người và trật tự, an toàn xã
hội.
24
Công việc này không thể tự doanh nghiệp thực hiện và trên thực tế họ
không có khả năng, cũng không muốn làm. Với chức năng quản lý nhà nước,
các cơ quan có thẩm quyền phải đưa ra các chính sách, quy chế quản lý thích
hợp có tác dụng buộc các doanh nghiệp có trách nhiệm trong việc hợp tác với
nhà chức trách trong việc bảo vệ các lợi ích chung.
Thứ tư, quản lý nhà nước đối với các tuyến, các điểm du lịch
Mục đích của hầu hết các tuyến du lịch là kết hợp giữa nghỉ ngơi,
hưởng thụ với tham quan. Các tuyến, điểm du lịch được hình thành và phát
triển làm phong phú thêm danh mục nhu cầu cho khách. Duy trì, bảo tồn các
tuyến, điểm du lịch và khai thác đúng mức các cơ sở đó là một trong những
nhiệm vụ thuộc thẩm quyền các cơ quan quản lý nhà nước.
Song, sự tổn hại tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường trong kinh
doanh du lịch không giống như việc khai thác tài nguyên hay làm ảnh hưởng
đến tài nguyên, môi trường do sản xuất vật chất gây r. Du lịch không trực tiếp
làm cạn kiệt nguồn tài nguyên do phá núi, chặt cây hay khai khoáng. Sự tiếp
cận của con người (du khách), chỉ giản tiếp làm tổn hại tài nguyên, môi
trường, nhưng khi bị tác động với tần suất cao thì sự tổn hại này rất nhanh
chóng trở thành thảm hoạ cho đối tượng bị xâm hại. Ví dụ, lượng khách tham
quan đông, liên tục làm biến mất các bãi chim tự nhiên, làm giảm lượng động
vật hoang dã trong rừng hay biển và ngay cả vườn thú do môi trường sống
của chúng bị thay đổi. Các di tích lịch sử, văn hoá bị xâm hại bởi sự hiếu kỳ
của du khách ( ngày cả rùa đá, bia cũng bị mòn, bị biến dạng khỏi dáng vẻ

ban đầu do bàn tay con người xoa lên). Bên cạnh đó, rác thải từ sinh hoạt của
con người, việc mở rộng các tuyến giao thông đến các điểm du lịch làm biến
đổi môi trường, tăng lưu lượng xe cộ và khí thải từ động cơ của chúng cũng
góp phần không nhỏ vào việc biến đổi khí hậu, môi trường của điểm du lịch.
Ngoài ra, sự di chuyến của du khách và các đồ dung, phương tiện cá nhân của
họ còn góp phần vào việc phát tán dịch bệnh. Không những thế, lối sống của
25

×