Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ bán lẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 117 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ
***






KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP



Đề tài:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP BÁN LẺ TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT
NAM SAU KHI VIỆT NAM MỞ CỬA THỊ
TRƯỜNG DỊCH VỤ BÁN LẺ




Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Kim Ngân
Lớp : Anh 2
Khóa : 44
Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Thị Thu Thủy

Hà Nội, tháng 05/2009


1
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ
chức Thương mại thế giới WTO, thể hiện sự hội nhập mạnh mẽ và toàn diện với thế
giới thông qua các cam kết cụ thể cả trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương
mại dịch vụ. Trong đó, các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của
Việt Nam được đánh giá là khá mạnh mẽ. Vì vậy ngành dịch vụ bán lẻ của Việt
Nam sẽ chịu nhiều tác động từ quá trình mở cửa thị trường trong lộ trình thực hiện
các cam kết này.
Ở thời điểm hiện tại, theo như lộ trình cam kết, Việt Nam đã chính thức mở
cửa thị trường bán lẻ bằng việc cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài hoạt động trong lĩnh vực phân phối kể từ ngày 1/1/2009. Một số tập đoàn bán
lẻ nước ngoài đã có những bước đi đầu tiên khá vững chắc tại thị trường Việt Nam;
một số khác đang chuẩn bị cho những kế hoạch lớn, dài hơi với mục tiêu chiếm lĩnh
thị trường bán lẻ hấp dẫn số một này – như họ đã làm và từng thành công tại nhiều
quốc gia khác. Đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ các “người khổng
lồ” trên thị trường bán lẻ thế giới, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam rất dễ bị tổn
thương trong điều kiện còn yếu kém về nhiều mặt. Để trụ vững trên chính sân nhà,
dù năng lực cạnh tranh còn yếu, nhưng nếu có sự hỗ trợ thích hợp từ Nhà nước
thông qua các công cụ quản lý Nhà nước hợp lý, hiệu quả, chắc chắn các doanh
nghiệp sẽ thêm lớn mạnh.
Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
có nhiều ý kiến lo ngại rằng vẫn còn nhiều vướng mắc trong công tác quản lý Nhà
nước như hệ thống các định chế pháp lý chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu các cơ chế
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển…Vì vậy việc nghiên cứu tìm hiểu tác
động của các công cụ quản lý Nhà nước hiện nay đối với thị trường dịch vụ bán lẻ
và tìm kiếm giải pháp để một mặt nâng cao hiệu quả quản lý nhằm phát triển thị
trường đang phát triển sôi động này, một mặt tuân thủ các cam kết của WTO là cần
thiết. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề trên, người viết xin lựa chọn nghiên cứu

2
đề tài khóa luận tốt nghiệp “Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ
trên thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ bán lẻ”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích khái quát thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ trên thị
trường Việt Nam, thực trạng các công cụ quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch
vụ bán lẻ, đồng thời làm rõ các cam kết của Việt Nam trong WTO về mở cửa thị
trường dịch vụ phân phối, khóa luận đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ nhằm phù hợp với tình hình phát
triển thị trường và tuân thủ các cam kết WTO.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp bán lẻ, quản lý Nhà nước đối với
doanh nghiệp bán lẻ.
+ Tìm hiểu kinh nghiệm thành công của một số quốc gia trong công tác quản lý
Nhà nước với thị trường dịch vụ bán lẻ
+ Phân tích, đánh giá thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam
và tác động của các cam kết WTO đối với thị trường bán lẻ.
+ Phân tích các công cụ quản lý Nhà nước hiện nay đối với các doanh nghiệp trên
thị trường bán lẻ Việt Nam.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với doanh
nghiệp bán lẻ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là công tác quản lý Nhà nước đối với các
doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc phân tích các công cụ quản lý
Nhà nước, trong đó tập trung vào công cụ hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động
của các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam.


3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để hoàn thiện khóa luận, người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp: hệ
thống hóa, thống kê, phân tích, lý luận logic, so sánh.
5. Kết cấu khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận chia
làm 3 chương:
Chương I: Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ
Chương II: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị
trường Việt Nam
Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước nhằm phát triển
doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam

Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Thị Thu Thủy, khoa Quản
trị kinh doanh, cùng các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã cho em
những kinh nghiệm bổ ích trong nghiên cứu khoa học cũng như đã dành thời gian
quý báu, chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp
này. Trong quá trình nghiên cứu do còn hạn chế về trình độ nghiên cứu, thông tin,
tài liệu tham khảo nên không thể tránh khỏi thiếu sót. Người viết mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và bạn đọc.
Hà Nội, tháng 5 năm 2009.
Sinh viên
Phạm Thị Kim Ngân
4
CHƢƠNG I: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP BÁN LẺ
1.1 Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp bán lẻ
1.1.1 Khái niệm bán lẻ và doanh nghiệp bán lẻ
Có nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ, trong đó có một số định nghĩa tiêu biểu
sau đây:

Theo định nghĩa của Philip Kotler:
Bán lẻ là mọi hoạt động nhằm bán hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu
dùng cuối cùng để họ sử dụng cho cá nhân, không mang tính thương mại
1

Bất kỳ một tổ chức nào làm công việc này cũng là một tổ chức bán lẻ, bất kể hàng
hóa hay dịch vụ đó được bán như thế nào (bán trực tiếp, qua bưu điện, qua điện
thoại, hay qua máy bán hàng tự động) và ở đâu (trong cửa hàng, trên đường phố hay
tại nhà người tiêu dùng).
Theo khoản 8, điều 3, Nghị định 23/2007/NĐ-CP ban hành ngày 12/2/2007
của Chính phủ Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa
và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: Bán lẻ là hoạt động bán hàng hóa trực
tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.
Trong văn bản giải thích của mình đối với Danh sách phân loại sản phẩm
trung tâm CPC, Ban Thống kê của Liên Hợp Quốc đưa ra định nghĩa các dịch vụ
bán lẻ là “bán hàng hóa cho người tiêu dùng cá nhân hay hộ gia đình bao gồm các
dịch vụ kèm theo việc bán các hàng hóa đó (các dịch vụ bán lẻ)”
2

Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa: Bán lẻ bao
gồm việc bán hàng hóa cho cá nhân hoặc hộ gia đình để họ tiêu dùng, tại một địa
điểm cố định, hoặc không tại một địa điểm cố định mà qua các dịch vụ liên quan
3
.


1
Philip Kotler (2007), Marketing căn bản, NXB Lao động – xã hội, trang 314


2


3

5
Để hiểu được thế nào là doanh nghiêp bán lẻ, trước tiên ta phải hiểu thế nào
là doanh nghiệp. Khoản 1, điều 4, Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa doanh nghiệp
như sau: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Như vậy bất kỳ doanh nghiệp nào thực hiện hoạt động kinh doanh bán lẻ thì
cũng được gọi là doanh nghiệp bán lẻ.
Các doanh nghiệp bán lẻ hay các nhà bán lẻ có đủ loại quy mô và hình thức,
và luôn luôn xuất hiện thêm những kiểu bán lẻ mới. Dù bán hàng cho một trong
những giai tầng xã hội hay cho thị trường đại chúng, qua năm tháng những người
bán lẻ đều có chung một ý nghĩ là họ phải làm việc trong những điều kiện của một
môi trường biến đổi cực kỳ nhanh. Những công thức bán lẻ của ngày hôm qua có
thể không còn phù hợp trong ngày hôm nay và chắc chắn không phù hợp cho ngày
mai nữa. Các chức năng phân phối do các nhà bán lẻ thực hiện có thể phối hợp theo
nhiều cách khác nhau để tạo ra các dạng mới của bán lẻ. Có thể phân loại những
nhà bán lẻ theo một số các tiêu thức sau đây
4
:
A. Theo quyền sở hữu:
1. Cửa hàng độc lập
2. Các tổ chức bán lẻ nhiều cửa hàng (cửa hàng chuỗi, chi nhánh)
3. Các cửa hàng bán lẻ của nhà sản xuất
4. Các cửa hàng bán lẻ của người tiêu dùng
5. Các cửa hàng bán lẻ của nông dân

6. Các cửa hàng bán lẻ do Nhà nước quản lý
7. Cửa hàng của các công ty phúc lợi công cộng
B. Theo loại hình kinh doanh
1. Cửa hàng bách hóa tổng hợp
2. Cửa hàng kinh doanh theo nhóm hàng
3. Cửa hàng chuyên doanh


4
Trương Đình Chiến – GS.PTS Nguyễn Văn Thường (1999), Quản trị hệ thống phân phối sản phẩm, NXB
Thống kê, Trang 50-52.
6
C. Theo mức độ liên kết dọc
1. Không có quan hệ liên kết (Chỉ có chức năng bán lẻ)
2. Liên kết với chức năng bán buôn
3. Liên kết với chức năng sản xuất
D. Theo hình thức pháp lý của tổ chức
1. Cùng một chủ sở hữu
2. Quan hệ thành viên
3. Quan hệ hợp tác
E. Theo phương thức tiếp xúc với khách hàng
1. Cửa hàng bình thường
2. Bán hàng qua thư
3. Bán hàng trực tiếp tại nhà
F. Theo địa điểm
1. Cửa hàng ở thành phố lớn
- Cửa hàng ở trung tâm
- Cửa hàng ở ngoại ô
2. Cửa hàng ở thành phố nhỏ
3. Cửa hàng ở vùng nông thôn

4. Điểm bán hàng cạnh đường
H. Theo mức độ cung cấp dịch vụ cho khách hàng
1. Bán lẻ dịch vụ đầy đủ
2. Bán lẻ dịch vụ hạn chế
3. Tự phục vụ
Ngoài ra, trong khu vực bán lẻ còn có nhiều cửa hàng “gia đình” rất nhỏ: Những
doanh nghiệp của người bán lẻ nhỏ giữ một vai trò quan trọng vì một số nguyên
nhân sau:
- Ở đó thường xuất hiện những hình thức bán lẻ mới mà sau đó được các cửa
hàng lớn áp dụng.
7
- Các cửa hàng này rất thuận tiện cho người tiêu dùng vì nó có mặt ở khắp mọi
nơi
- Thường nó có đặc điểm là có khả năng thích ứng cao và dành cho người tiêu
dùng những dịch vụ rất đặc biệt
- Họ tạo cho người mua cảm thấy mình là chủ
1.1.2. Vị trí, chức năng của doanh nghiệp bán lẻ:
1.1.2.1. Vị trí của dịch vụ bán lẻ trong dịch vụ thương mại
Dịch vụ bán lẻ là một bộ phận nằm trong lĩnh vực dịch vụ phân phối của
ngành dịch vụ thương mại.
Theo cách hiểu của WTO, họ không đưa ra khái niệm, định nghĩa về dịch vụ,
dịch vụ thương mại và thương mại dịch vụ. Thay vì đưa ra các khái niệm này, WTO
dành sự quan tâm cho những quy định về các phương thức cung ứng dịch vụ thương
mại giữa các nước thành viên. Vì dịch vụ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong
thương mại quốc tế, tại vòng đàm phán Urugoay, các nước thành viên GATT đã
đồng ý đưa dịch vụ vào nội dung đàm phán. Và cũng vì dịch vụ là lĩnh vực nhạy
cảm so với hàng hóa hữu hình, cho nên, để điều chỉnh các hoạt động thương mại
dịch vụ, kết thúc vòng đàm phán Urugoay, các nước thành viên đã ký một hiệp định
đa biên dành riêng cho thương mại dịch vụ, đó là Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ (Tiếng Anh là General Agreement on Trade Services, viết tắt là GATS). Để

cụ thể hóa hơn nữa các loại hình dịch vụ mà Hiệp định GATS điều chỉnh, WTO đưa
ra danh mục phân loại các dịch vụ theo ngành (Services Sectorial Classification List
– GNS/W/120). Về cơ bản, phân loại dịch vụ của WTO dựa theo CPC (Danh mục
phân loại các sản phẩm chủ yếu - Central Products Classification). WTO phân loại
dịch vụ dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế. Toàn bộ lĩnh vực dịch vụ được chia ra 12
ngành. Mỗi ngành dịch vụ lại được chia ra các phân ngành, trong các phân ngành có
liệt lê các hoạt động dịch vụ cụ thể. Việc phân loại dịch vụ theo WTO rất thích hợp
cho việc xúc tiến đàm phán về mở của thị trường dịch vụ quốc tế. GATS điều chỉnh
dịch vụ bán lẻ là một trong các lĩnh vực của dịch vụ phân phối - bao gồm các dịch
8
vụ đại lý ăn hoa hồng, các dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ cấp
quyền kinh doanh, các dịch vụ phân phối khác.
1.1.2.2. Vị trí của doanh nghiệp bán lẻ trong hệ thống phân phối
Phân phối là quá trình lưu thông hàng hóa từ nhà chế tạo/sản xuất hay nhập
khẩu tới các nhà phân phối trực tiếp/các đại lý bán hàng; hay các công ty thương
mại, các đối tác thu mua tới tay người tiêu dùng/các khách hàng kinh doanh, nhà
chuyên môn (các trung gian phân phối). Dù hoạt động phân phối có thể do chính
người sản xuất thực hiện hay do các trung gian đảm nhiệm theo yêu cầu của người
sản xuất, nó luôn được coi là chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Đối với người tiêu dùng, hoạt động phân phối được thể hiện chủ yếu tại các cửa
hàng bán lẻ. Vậy nhà bán lẻ là mắt xích cuối cùng của quá trình biến đổi, vận
chuyển, dự trữ và đưa hàng hóa, dịch vụ đến tay người tiêu dùng. Vị trí đó được thể
hiện trong sơ đồ các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu thụ
cuối cùng sau đây:
Sơ đồ 1: Các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất cho tới ngƣời tiêu thụ
cuối cùng
5





5
Bộ Công thương. Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (2008), WTO và hệ thống phân phối Việt
Nam, NXB Lao động, trang 6
9
1.1.2.3. Chức năng của doanh nghiệp bán lẻ:
Nhà bán lẻ là một trung gian trong hệ thống phân phối, do đó nhà bán lẻ
mang đầy đủ chức năng của một thành viên trong kênh phân phối
6
:
- Thứ nhất, nghiên cứu, thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo
thuận lợi cho việc trao đổi
- Thứ hai, kích thích tiêu thụ - soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng
hóa
- Thứ ba, thiết lập các mối liên hệ - tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những
người mua tiềm ẩn.
- Thứ tư, hoàn thiện hàng hóa – làm cho hàng hóa đáp ứng được yêu cầu của
người mua.
- Thứ năm, tiến hành thương lượng – những việc thỏa thuận về giá cả và
những điều kiện khác để thực hiện bước tiếp theo là chuyển giao quyền sở
hữu hay quyền sử dụng
- Thứ sáu, tổ chức lưu thông hàng hóa – vận chuyển và bảo quản, dự trữ hàng
hóa
- Thứ bảy, đảm bảo kinh phí – tìm kiếm và sử dụng nguồn vốn để bù đắp các
chi phí hoạt động
- Chấp nhận rủi ro – gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh.
Việc thực hiện năm chức năng đầu hỗ trợ cho nhà bán lẻ ký kết các hợp đồng, còn
việc thực hiện ba chức năng còn lại thì hỗ trợ cho việc hoàn tất thương vụ đã ký kết.

1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp bán lẻ:

Để làm rõ hơn cách phân loại các nhà bán lẻ đã được đề cập ở phần 1 về khái
niệm bán lẻ và doanh nghiệp bán lẻ, người viết xin phân tích cụ thể hơn các phương
thức phân loại cửa hàng bán lẻ và đặc điểm của các loại hình bán lẻ đó:
1.1.3.1. Phân loại theo mức độ cung cấp dịch vụ


6
Philip Kotler (2007), Marketing căn bản, NXB Lao động – xã hội, trang 289
10
Theo số lượng dịch vụ nhà bán lẻ cung cấp, người ta chia thành 4 loại: những
cửa hàng bán lẻ tự phục vụ, những cửa hàng bán lẻ tự do lựa chọn hàng hóa có
người bán hàng để giúp đỡ, cửa hàng bán lẻ phục vụ hạn chế, cửa hàng bán lẻ phục
vụ đầy đủ
Bảng 1: Phân loại loại hình bán lẻ theo chỉ tiêu khối lƣợng dịch vụ cho ngƣời
tiêu dùng

Tự phục vụ
Tự do lựa chọn
Phục vụ hạn chế
Phục vụ đầy đủ
Đặc
điểm
nổi bật
- Số dịch vụ tối
thiểu: Người tiêu
dùng sẵn sàng tự
tìm, so sánh và lựa
chọn hàng hóa
- Giá cả hấp dẫn
- Bán những mặt

hàng chủ yếu,
thường dùng

- Số dịch vụ hạn
chế: Có người bán
hàng giúp đỡ
- Giá cả hấp dẫn
- Bán những mặt
hàng chủ yếu
thường dùng
- Bán những mặt
hàng thường ngày
- Có nhiều dạng
dịch vụ: Mức độ
giúp đỡ cao hơn từ
phía nhân viên,
người tiêu dùng
được hưởng dịch
vụ bán trả góp
hoặc trả lại hàng
đã mua
- Bán những mặt
hàng cần lựa chọn
trước
- Có rất nhiều
dạng dịch vụ:
Dịch vụ chăm
sóc khách hàng
tốt
- Bán hàng thời

thượng
- Bán những mặt
hàng cho nhu cầu
đặc biệt
Ví dụ
- Cửa hàng kem
bán lẻ, cửa hàng
thực phẩm, cửa
hàng hạ giá, cửa
hàng bán qua bưu
điện, máy bán
hàng tự động
Cửa hàng hạ giá,
cửa hàng tạp hóa,
cửa hàng bán qua
bưu điện
Bán hàng lưu
động, cửa hàng
bách hóa, cửa
hàng bán qua điện
thoại, cửa hàng tạp
hóa
Cửa hàng chuyên
doanh, cửa hàng
bách hóa tổng
hợp

1.1.3.2. Phân loại theo chủng loại hàng hóa được bán
Theo nghĩa rộng ra có thể nói về chiều rộng và mức độ phong phú của chủng
loại hàng hóa và dựa vào những đặc điểm đó để phân ra những kiểu cửa hàng chủ

11
yếu: cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hóa tổng hợp, cửa hàng bán hàng tiêu
dùng thường ngày, phức hợp thương mại.
- Cửa hàng chuyên doanh: bán một số chủng loại hàng hóa thuộc dòng sản phẩm
hẹp và chuyên sâu, nhưng rất phong phú.Ví dụ cửa hàng quần áo, cửa hàng chỉ bán
giày thể thao, cửa hàng chỉ bán máy tính.
- Cửa hàng bách hóa tổng hợp: bán một số nhóm chủng loại hàng, mỗi nhóm chủng
loại do một bộ phận cửa hàng chuyên trách. Đứng đầu các bộ phận này là người thu
mua hay người bán.
- Các siêu thị: Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ
suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ
nhu cầu của người tiêu dùng.
- Cửa hàng phục vụ nhu cầu thường ngày: Thường là các cửa hàng thực phẩm có
quy mô tương đối nhỏ và nằm ở gần các khu dân cư, mở cửa tất cả các ngày trong
tuần và đến khuya, bán một số chủng loại hàng thông dụng thường ngày với tốc độ
quay vòng cao. Các cửa hàng này làm việc kéo dài và chủ yếu phục vụ người tiêu
dùng trong trường hợp “chữa cháy” nên thường bán với giá tương đối cao hơn.
Nhưng chúng đáp ứng được một trong những nhu cầu tiêu dùng quan trọng và
người ta sẵn sàng trả giá cho những sự thuận tiện đã tạo ra cho họ. Hiện nay mô
hình cửa hàng này ở Việt Nam còn được biết đến với tên gọi cửa hàng tiện ích, cửa
hàng tiện dụng. Ngoài ra trong lĩnh vực bán lẻ hàng tiêu dùng còn xuất hiện mô
hình “cây xăng – cửa hàng”. Các cửa hàng bán lẻ này nằm kế bên trạm xăng, và
người mua xăng có thể kết hợp mua rất nhiều mặt hàng tiêu dùng thường ngày như
bánh mì, sữa, thuốc lá, bánh ngọt, cà phê…
- Siêu thị liên hợp, siêu thị bách hóa và các tổ hợp thương mại: kiểu cửa hàng vượt
hơn hẳn siêu thị thông thường về quy mô. Siêu thị liên hợp là dạng siêu thị với
chủng loại hàng được mở rộng do có bán cả thuốc không cần toa và thuốc theo toa.
Siêu thị bách hóa có quy mô diện tích lớn hơn siêu thị thông thường , cố gắng thỏa
mãn đầy đủ các nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm cũng như về hàng hóa
không phải thực phẩm thường dùng. Ở các siêu thị bách hóa chính vì chủng loại mặt

12
hàng rộng nên giá cả thường cao hơn so với giá ở các siêu thị thông thường. Tổ hợp
thương mại vượt cả những siêu thị bách hóa về quy mô và diện tích, bao gồm siêu
thị, cửa hàng hạ giá và kho – cửa hàng bán lẻ. Chủng loại mặt hàng vượt ra ngoài
phạm vi những hàng hóa thông thường, bao gồm cả đồ gỗ, đồ điện gia dụng lớn và
nhỏ, quần áo và rất nhiều các mặt hàng khác. So với mức giá thông thường của các
siêu thị bách hóa, các tổ hợp thương mại áp dụng giá có chiết khấu.
1.1.3.3. Phân loại theo sự quan tâm tương đối về giá cả:
Có thể phân loại các cửa hàng bán lẻ trên cơ sở hình thành giá cả của chúng.
Phần lớn các cửa hàng đều bán hàng theo giá trung bình và mức dịch vụ bình
thường cho người tiêu dùng. Một số cửa hàng bán hàng hóa và dịch vụ chất lượng
cao và theo giá cao hơn. Ta sẽ xem xét các cửa hàng hạ giá, các mô hình sinh ra từ
chúng dưới dạng kho – cửa hàng và cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán theo catalog:
- Cửa hàng hạ giá: bán những hàng hóa tiêu chuẩn theo giá thấp hơn bằng cách
giảm định mức lợi nhuận và tăng khối lượng tiêu thụ. Cửa hàng hạ giá thực sự có 5
đặc điểm sau: 1. nó luôn bán hàng theo giá thấp hơn giá thịnh hành ở các cửa hàng
có phụ giá cao và tốc độ quay vòng hàng dự trữ chậm; 2. nó coi trọng hàng hóa có
nhãn hiệu phổ biến trong toàn quốc nên giá thấp hoàn toàn không phải do chất
lượng hàng kém; 3. nó hoạt động theo phương pháp tự phục vụ với những tiện nghi
tối thiểu; 4. Nó thường nằm ở khu vực có mức tiền thuê nhà thấp và thu hút người
mua từ những nơi tương đối xa; 5. ở đó chỉ lắp đặt thiết bị thương mại đơn giản.
- Các kho – cửa hàng: Kho - cửa hàng là một doanh nghiệp thương mại hạ giá với
khối lượng dịch vụ hạn chế và bỏ mọi thứ rườm rà với mục đích là bán một khối
lượng lớn hàng theo giá hạ, thậm chí trưng bày hàng ngay trong thùng chứa. Đối
tượng phục vụ là những người mua phẩm cấp trung bình, quan tâm đến giá hạ và
khả năng nhận được hàng ngay.
- Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán theo catalog: kết hợp các nguyên tắc bán
hàng theo catalog và những nguyên tắc bán hàng hạ giá để tiêu thụ nhiều chủng loại
hàng hóa có nhãn hiệu bán chạy, thường là với phụ giá cao. Các cửa hàng này xuất
bản những cuốn catalog nhiều màu sắc và có thể lấy ở phòng trưng bày. Trong

13
catalog ghi rõ giá quy định chính thức của từng mặt hàng và giá có chiết khấu của
nó. Khách hàng có thể đặt hàng qua điện thoại hay đến gian trưng bày trực tiếp xem
sản phẩm và mua những thứ có sẵn.
1.1.3.4. Phân loại theo tính chất của gian hàng:
- Bán lẻ theo đơn đặt hàng qua bưu điện hay điện thoại: có các loại hình bán theo
đơn đặt hàng căn cứ vào catalog, marketing trực tiếp hoặc gửi thư trực tiếp, bán
hàng qua điện thoại. Ngày càng có nhiều phụ nữ đi làm nên đây là các hình thức
giúp họ tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại.
- Các máy bán hàng tự động: Các máy bán hàng tự động ngày nay đã vượt xa các
thế hệ tiền bối của nó với kết cấu thể hiện những thành tựu của kỹ thuật vũ trụ và
máy tính. Chúng có thể nhận tiền xu hay tiền giấy và trả lại tiền dư. Máy được đặt ở
mặt bằng thuận lợi như các nhà máy, cơ quan, cửa hàng lớn, trạm tiếp xăng và cả
trên toa ăn của đường sắt. Đây là một kênh phân phối tương đối đắt và chi phí của
người bán khá cao do các máy nằm rải rác khắp nơi trên một địa bàn rộng, cần
thường xuyên bổ sung hàng, hay hỏng hóc và một số khu vực còn bị mất cắp vặt.
Người tiêu dùng đôi khi khó chịu vì máy hư, không bổ sung hàng kịp thời và không
thể trả hàng lại được.
- Phục vụ đơn hàng có chiết khấu: hỗ trợ nhóm khách hàng đặc biệt, thường là công
nhân viên của những tổ chức lớn như trường học, bệnh viện, đoàn thể, cơ quan nhà
nước, mua hàng theo giá có chiết khấu của một số người bán lẻ nhất định.
- Bán hàng lưu động: hoạt động theo nguyên tắc đến từng nhà, từng cơ quan hay
theo nguyên tắc bố trí những cuộc hẹn mua bán tại nhà. Ví dụ công ty Avon có một
ý tưởng độc đáo, xây dựng đội ngũ nhân viên nữ vừa là bạn, vừa là cố vấn cho các
bà nội trợ về mỹ phẩm, chào hàng rải khắp thế giới và biến công ty Avon thành
công ty mỹ phẩm lớn nhất thế giới và công ty bán hàng lưu động lớn nhất thế giới.
1.1.3.5. Phân loại theo loại hình sở hữu cửa hàng:
- Mạng lưới công ty: Là một trong những hiện tượng quan trọng và đáng kể nhất
ngành thương nghiệp bán lẻ trong thế kỷ 20. Mạng lưới cửa hàng là hai hay nhiều
doanh nghiệp thương mại chung một quyền sở hữu và kiểm soát, bán những chủng

14
loại hàng tương tự nhau, có chung một bộ phận thu mua và tiêu thụ và cũng có thể
có hình thức kiến trúc như nhau.
- Các hợp tác xã tiêu thụ: Là công ty bán lẻ thuộc quyền của chính người tiêu dùng,
khi dân cư của một cộng đồng nào đó chung tiền mở cửa hàng riêng của mình, cùng
xác định những nguyên tắc hoạt động cho cửa hàng và bầu các thành viên của ban
quản trị.
- Tổ chức của những người có quyền ưu đãi: là sự liên kết theo hợp đồng giữa
những người chủ sở hữu quyền ưu đãi (nhà sản xuất, người bán sỉ hay tổ chức dịch
vụ) và những người được hưởng quyền ưu đãi (những nhà kinh doanh độc lập, mua
quyền sở hữu một hay một số điểm của hệ thống hoạt động trên cơ sở quyền ưu đãi
đó). Điểm khác biệt cơ bản của tổ chức này so với các liên kết theo hợp đồng khác
(mạng lưới tự nguyện, hợp tác xã bán lẻ) là thường bán một mặt hàng độc đáo, dịch
vụ độc đáo, một phương pháp hoạt động kinh doanh, tên thương mại, uy tín hay
giấy phép của chủ sở hữu quyền ưu đãi.
- Các tập đoàn bán lẻ: hợp nhất một số doanh nghiệp thuộc các hướng khác nhau và
hình thức bán lẻ khác nhau vào một mối với sự nhất thể hóa một phần các chức
năng phân phối và quản lý.
1.1.3.6. Phân loại theo mức độ tập trung cửa hàng:
Nguyên tắc cuối cùng để phân loại các doanh nghiệp bán lẻ là số lượng cửa
hàng. Ngày nay phần lớn các cửa hàng tập trung ở những khu thương mại do quy
định của các cơ quan chính quyền địa phương phân vùng các hoạt động cũng như vì
ý muốn tạo cho người tiêu dùng nhiều khả năng mua sắm tất cả những thứ cần thiết
trong một lần đi. Những cửa hàng tập trung vào một chỗ cũng giải quyết nhiệm vụ
như các siêu thị và các cửa hàng bách hóa tổng hợp, tiết kiệm thời gian và công sức
của người tiêu dùng khi tìm kiếm hàng hóa cần thiết cho mình. Có 4 kiểu tập trung
cơ bản:
- Khu vực kinh doanh trung tâm
- Các trung tâm thương mại khu vực
- Các trung tâm thương mại quận, huyện.

15
- Các trung tâm thương mại phường, xã.

1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp bán lẻ
1.2.1. Khái niệm quản lý Nhà nƣớc về kinh tế
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có chủ đích của nhà nước đối với
toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của nhà nước, thông qua pháp luật,
chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính, trên tất cả các lĩnh
vực và các thành phần kinh tế.
7

Quản lý nhà nước về kinh tế là một tất yếu khách quan của mọi quốc gia,
không kể chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước bao
giờ cũng có nguồn gốc từ kinh tế, và ngược lại bất kỳ một hoạt động nào của nhà
nước cũng, hoặc là thúc đẩy, hoặc là kìm hãm sự phát triển kinh tế. Ngày nay sự
cạnh tranh giữa các quốc gia cơ bản là về tiềm lực kinh tế. Tiềm lực kinh tế đã trở
thành thước đo về vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo
vệ và duy trì sức mạnh của mỗi quốc gia. Vấn đề quan trọng là mỗi nhà nước phải
xác định được phạm vi, mức độ, vai trò của mình trong quản lý kinh tế sao cho phù
hợp với bản chất và định hướng chính trị, đồng thời có tri thức và kỹ năng để thực
hiện thành công, có hiệu quả vai trò của mình trong thực tế.

1.2.2. Chức năng của quản lý Nhà nƣớc về kinh tế
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng
và giai đoạn tác động có chủ đích của nhà nước, là tập hợp những nhiệm vụ khác
nhau mà nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý kinh tế đất nước
Thực chất chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhà nước tạo ra và thực
hiện một cơ chế hay phương thức quản lý nền kinh tế quốc dân, đảm bảo sự phát
triển nhanh và bền vững
Phân tích chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhằm hiểu được nhà

nước phải làm những công việc gì để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển.


7
PGS.TS. Nguyễn Cúc (Chủ biên) (2008), Tập bài giảng Quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Đại học Kinh tế
quốc dân, trang 31
16
Nhận thức rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là cơ sở khách quan để tổ chức
bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ chức năng mà sắp xếp bộ máy và bố trí biên
chế về con người. Mặt khác chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là những nhiệm
vụ tổng quát mà nhà nước phải thực hiện trong từng thời gian nhất định, do yêu cầu
của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và do tình hình, điều kiện cụ thể của từng
giai đoạn lịch sử quy định. Do đó, nhận thức về chức năng quản lý Nhà nước về
kinh tế cũng không cố định mà luôn biến động và phát triển. Tuy nhiên các chức
năng cơ bản, chủ yếu thường ít thay đổi, mà thay đổi thường xuyên là các nhiệm vụ
quản lý nhà nước về kinh tế - các công việc cụ thể hóa chức năng quản lý trong
không gian và thời gian nhất định.
Các chức năng cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế nước ta được phân
loại theo nhiều tiêu thức khác nhau:
1.2.2.1. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo phương hướng tác động
Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của
các doanh nghiệp, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt các chức năng quản lý vĩ
mô sau đây:
- Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh
- Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển
- Hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội
- Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia…”
1.2.2.2. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác động
a. Định hướng phát triển kinh tế đất nước:
Định hướng phát triển kinh tế là quyết định trước những nhiệm vụ, những

mục tiêu và những chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian
thường là 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn.
Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý của nhà nước và
các chức năng quản lý khác phải căn cứ vào đó để thực hiện.
Chức năng định hướng bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
17
- Xác định các nhiệm vụ, là xác định những công việc phải làm trong khoảng
thời gian nhất định để tạo ra sự phát triển kinh tế đất nước.
- Xác định mục tiêu dài hạn của phát triển kinh tế đất nước. Đây là nội dung
quan trọng của chức năng định hướng, vì mục tiêu là khởi đầu của quản lý,
nó chi phối toàn bộ hoạt động quản lý. Xác định mục tiêu đúng còn là cơ sở
để xác lập các nguyên tắc và bộ máy quản lý.
- Xác định chiến lược phát triển kinh tế:
+ Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà nhà nước sẽ thực thi trong một
thời gian đủ dài
+ Các mục tiêu dài hạn cơ bản của đất nước
+ Các giải pháp chủ yếu để thu hút và phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng
trong và ngoài nước, nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
b. Lập kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là tập hợp các mục tiêu ở cấp quốc gia
hay khu vực nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nhà nước phải xây dựng các kế hoạch
phát triển quốc gia dài hạn và trung hạn. Kế hoạch dài hạn kéo dài từ 10 đến 20 năm
hoặc lâu hơn, kế hoạch trung hạn kéo dài trong 5 năm, với những mục tiêu và giải
pháp cụ thể hơn. Các kế hoạch trung hạn được cụ thể hóa thành kế hoạch hàng năm,
kết hợp với hệ thống ngân sách của Chính phủ và có tính đến viện trợ từ bên ngoài
đã được phê duyệt, để triển khai thực hiện.
Chương trình là tổ hợp các mục tiêu, các chính sách, các thủ tục, các quy tắc,
các nhiệm vụ, các bước phải tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần
thiết khác, để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định về phát triển kinh tế
đất nước, vùng và ngành.

Chương trình và kế hoạch có quan hệ với nhau và có điểm khác nhau.
Chương trình là một bộ phận của kế hoạch, hay một phương thức vận hành của kế
hoạch để đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tế cuộc sống. Chương trình đảm bảo phối
hợp một cách đồng bộ các biện pháp liên quan trong việc thực hiện các mục tiêu kế
hoạch đề ra. Chương trình tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào giải quyết có
18
hiệu quả những trọng tâm của kế hoạch nhà nước trong từng thời kỳ, để tạo cơ cấu
kinh tế mới.
c. Thiết lập khung khổ pháp luật về kinh tế
Pháp luật về kinh tế theo nghĩa rộng là tổng thể các quy phạm pháp luật do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất – kinh doanh giữa các
doanh nghiệp với nhau và với các đơn vị hữu quan khác.
Luật kinh tế là hành lang an toàn nhất cho các hoạt động kinh tế, đồng thời
xác định địa vị pháp lý cho các tổ chức và các đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó tạo lập
cơ sở pháp lý cho các hoạt động và nhà nước thực hiện sự quản lý của mình với các
hoạt động đó.
d. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách, các công cụ và các đòn bẩy
kinh tế
Chính sách là tổng thể các phương thức, biện pháp, phương tiện nhất định,
được nhà nước sử dụng, nhằm tác động đến cá nhân, nhóm người, xã hội, để đạt tới
các mục tiêu bộ phận, trong quá trình thực hiện các mục tiêu tổng thể phát triển
kinh tế xã hội như:
- Chính sách tài chính;
- Chính sách tiền tệ - tín dụng;
- Chính sách kinh tế đối ngoại…
đ. Tổ chức và điều hành các hệ thống kinh tế trong nước hoạt động
Với chức năng tổ chức sản xuất, nhà nước phải hình thành các đơn vị kinh tế
theo ngành, theo vùng, theo thành phần kinh tế và theo loại hình sản xuất – kinh
doanh, cũng như các trung tâm khoa học, đào tạo và các đơn vị sự nghiệp, phục vụ

cho phát triển kinh tế.
Với chức năng điều hành, nhà nước phối hợp hoạt động giữa các cơ quan,
đơn vị trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những mối quan hệ cần thiết trong quá
trình thực hiện những mục tiêu kế hoạch của đất nước
e. Kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế
19
Chức năng này nhằm kịp thời phát hiện những sai sót, ách tắc, đồng thời phát
hiện những cơ hội, vận hội tốt trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội
của đất nước, giữ đúng định hướng kế hoạch nhà nước đã đề ra.
g. Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế:
Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế là những tác động bổ sung của nhà
nước đến nền kinh tế, nhằm sửa chữa những sai sót, tận dụng thời cơ để phát triển
kinh tế.
Điều chỉnh về kinh tế của nhà nước được thực hiện thông qua các công cụ và chính
sách quản lý kinh tế, như luật pháp, kế hoạch, chính sách, các đòn bẩy kinh tế…

1.2.3. Các công cụ quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp:
Thực chất của quản lý kinh tế vĩ mô là quá trình thiết kế mục tiêu kinh tế và
căn cứ vào đó mà sử dụng công cụ quản lý hiện hữu và phương pháp quản lý thích
hợp để điều tiết sự vận hành của nền kinh tế quốc dân theo quỹ đạo và mục tiêu đã
định. Mục tiêu quản lý đề ra dù có chính xác và khả thi đến đâu đi nữa, nhưng nếu
không có công cụ quản lý tương ứng thì cũng không thể thực hiện được, vẫn chỉ là
mục tiêu quản lý trên lý thuyết, chứ chưa phải mục tiêu quản lý trong hiện thực
Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử
dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.
Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện hữu hình
và vô hình mà Nhà nước sử dụng để tác động lên mọi chủ thể kinh tế trong xã hội
nhằm thực hiện mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân. Chính nhờ đó công cụ quản lý
kinh tế với tư cách là vật truyền dẫn tác động của quản lý Nhà nước mà nhà nước
chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân sinh sống và

hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể
ở bên ngoài.
Công cụ quản lý Nhà nước chủ yếu là bằng pháp luật. Bên cạnh đó, một công
cụ không kém phần quan trọng đó là sử dụng các chính sách, các đòn bẩy kinh tế
tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
20
1.2.3.1. Pháp luật
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, vận động dưới sự chi phối của
các quy luật kinh tế thị trường trong môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, thực hiện sự quản lý của mình đối với xã hội
nói chung và nền kinh tế quốc dân nói riêng, chủ yếu bằng pháp luật và theo pháp
luật.
Chức năng chủ yếu của pháp luật là điều chỉnh, bảo vệ và giáo dục để đảm
bảo và phát triển xã hội theo mục tiêu và phương hướng nhất định. Thông qua việc
thực hiện các chức năng này, pháp luật có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển
dịch nền kinh tế tự cấp, tự túc, khép kín sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, mở cửa, được thể hiện ở các mặt cơ bản sau đây:
a) Tạo tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn
định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế
bền vững
Điều chỉnh kịp thời và hợp lý các quan hệ kinh tế là điều kiện cần thiết và bắt
buộc để duy trì sự ổn định thường xuyên, lâu dài của nền kinh tế quốc dân, nhằm
thực hiện mục tiêu tăng trường kinh tế liên tục với tốc độ và hiệu quả cao. Muốn
vậy, phải có các hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản áp dụng quy
phạm pháp luật chuẩn xác trong quản lý nhà nước về kinh tế. Nhờ chúng mà tạo
được tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh kịp thời và hợp lý các quan hệ kinh tế,
làm cho mọi ngành, mọi lĩnh vực, mọi vùng, mọi địa phương, mọi thành phần kinh
tế và mọi công dân yên tâm huy động các nguồn lực của mình vào sản xuất, kinh
doanh với năng suất, chất lượng và hiệu quả.
b) Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ

giữa các chủ thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân
Bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế bao gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với
nhau: bình đẳng về quyền lợi và bình đẳng về nghĩa vụ; hai mặt đó phải thường
xuyên tương ứng vơi nhau, ăn khớp với nhau, không được tách rời nhau và càng
không được đối lập nhau. Cạnh tranh là một quy luật kinh tế khách quan, là một giải
21
pháp có tính chiến lược để nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ thấp chi phí sản
xuất nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân vì mục tiêu hiệu quả
cao. Để đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, một vấn đề rất
quan trọng và Chính phủ nhiều nước quan tâm giải quyết là ban hành và thực thi
luật chống độc quyền. Trong đó, tạo lập cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế, nhất là giữa các thành
phần kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân.
c) Tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hòa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội và bảo vệ môi trường
Tăng trưởng kinh tế bền vững là một mục tiêu chung, có tính chất toàn cầu
mà mọi quốc gia đều mong muốn và phấn đấu thực hiện. Hiệu quả tăng trưởng kinh
tế theo quan niệm hiện đại được đánh giá thông qua các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế,
hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Tăng trưởng kinh tế bền vững về thực chất
là tăng trưởng liên tục, ổn định GDP với tốc độ cao, tạo mở ngày càng nhiều công
ăn việc làm cho người lao động, hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp, khai thác và sử dụng hợp
lý, tiết kiệm các loại tài nguyên, bảo vệ sự trong lành của môi trường sinh thái.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường, Nhà
nước cần đề ra và thực thi các quy phạm pháp luật có liên quan với việc kết hợp hài
hòa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Thí dụ: Luật đất
đai, luật doanh nghiệp, luật lao động, luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật bảo vệ môi
trường.
1.2.3.2 . Kế hoạch
Kế hoạch theo nghĩa hẹp là phương án hành động trong tương lai; theo nghĩa
rộng là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm tra việc thực

hiện phương án hành động trong tương lai. Kế hoạch với tính cách là một công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước, bản thân là một hệ thống bao gồm nhiều nội
dung hoạt động.
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: là đường lối chung tổng quát và giải pháp
chủ yếu, tổng thể để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời gian dài
22
(ở nước ta thường là 10 năm). Thí dụ: chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội 1991 – 2000 do Đại hội VII của Đảng đề ra; Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001 – 2010 do Đại hội IX của Đảng đề ra.
- Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội: là sự cụ thể hóa một bước chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, nó là một tập hợp các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn
lực tương ứng để thực hiện các mục tiêu theo không gian và thời gian. Nước ta đề ra
quy hoạch đô thị vào năm 1997, sau đó nhiều ngành cũng đề ra quy hoạch phát triển
để nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, ví dụ ngành Hàng hải
Việt Nam dự định đưa ra quy hoạch phát triển đội tàu biển và quy hoạch phát triển
hệ thống cảng biển Việt Nam.
- Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 3 năm, kế hoạch 5 năm) là phương tiện chủ yếu để
cụ thể hóa các mục tiêu và các giải pháp đã được lựa chọn trong chiến lược. Kế
hoạch trung hạn mà thường là kế hoạch 5 năm, trong đó có phân bổ chỉ tiêu cho
từng năm, là hình thái chủ yếu của kế hoạch, là định hướng khung cho quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Kế hoạch hàng năm: là sự cụ thể hóa của kế hoạch trung hạn nhằm thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của kế hoạch trung hạn. Kế hoạch hàng năm
được xây dựng căn cứ vào mục tiêu và định hướng chiến lược, vào phương pháp,
nhiệm vụ của kế hoạch trung hạn và vào kết quả phân tích tình huống.
- Chương trình: được sử dụng rất phổ biến, để xác định một cách đồng bộ các mục
tiêu cần đạt, các bước công việc phải tiến hành, các nguồn lực cần huy động để thực
hiện một ý đồ nào đó. Ví dụ: Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt
khó khăn vùng đồng bào dân tộc miền núi giai đoạn 2006 – 2010.
- Dự án: Tổng thể các hoạt động, các nguồn lực và các chi phí được bố trí chặt chẽ

theo thời gian và không gian nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội cụ thể,
ví dụ: dự án xóa đói giảm nghèo của đồng bào các xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu
vùng xa.
- Ngân sách: là bảng tường trình bằng con số, sự huy động phân bổ các nguồn lực
cho việc thực hiện các chương trình, dự án trong một giai đoạn nhất định.
23
1.2.3.3. Chính sách
Chính sách là một trong các công cụ chủ yếu của Nhà nước sử dụng để quản
lý nền kinh tế quốc dân. Dưới dạng chung nhất, mỗi chính sách cụ thể là một tập
hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình đạt
tới các mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế - xã hội. Một chính sách bất kỳ
thường gồm hai bộ phận: các mục tiêu cần đạt và các giải pháp cần áp dụng để thực
hiện mục tiêu.
Chính sách là một hệ thống phức tạp nhiều loại, theo lĩnh vực hoạt động, có
thể đem các chính sách phân thành hia nhóm:
- Các chính sách kinh tế chủ yếu là:
+ Chính sách cơ cấu kinh tế;
+ Chính sách tài chính;
+ Chính sách tiền tệ;
+ Chính sách giá cả;
+ Chính sách kinh tế đối ngoại;

- Các chính sách xã hội (hoặc các chính sách phi kinh tế) chủ yếu là:
+ Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình;
+ Chính sách lao động và việc làm;
+ Chính sách giáo dục;
+ Chính sách văn hóa;
+ Chính sách khoa học và công nghệ;
+ Chính sách bảo hiểm;
+ Chính sách bảo vệ sức khỏe toàn dân;

+ Chính sách an ninh – quốc phòng;
+ Chính sách xóa đói – giảm nghèo;
+ Chính sách bảo vệ môi trường…
Các chính sách là công cụ đặc thù và không thể thiếu được mà Nhà nước sử
dụng để quản lý kinh tế vĩ mô. Chúng có chức năng chung là tạo ra những kích
24
thích đủ lớn cần thiết để biến đường lối, chiến lược của Đảng thành hiện thực, góp
phần thống nhất tư tưởng và hành động của mọi người trong xã hội, đẩy nhanh và
hữu hiệu sự tiến bộ của các hoạt động thuộc mục tiêu bộ phận mà chính sách nhằm
hướng tới và thực hiện các mục tiêu chung của phát triển kinh tế quốc dân.
Trong hệ thống các công cụ quản lý, các chính sách là bộ phận năng động
nhất, có độ nhạy cảm cao trước những biến động trong đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc mà xã hội đặt ra. Thực tiễn nước ta
và nhiều nước trên thế giới đều chứng tỏ: phần lớn những thành công trong công
cuộc đổi mới và cải cách kinh tế đểu bắt nguồn từ việc lựa chọn và áp dụng những
chính sách kinh tế thích hợp, có năng suất cao để khai thác tối ưu các lợi thế so sánh
của đất nước về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực, vốn, công nghệ,
thị trường, kết cấu hạ tầng.

1.2.4. Quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp bán lẻ
Việc quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ là một bộ phận trong
việc quản lý Nhà nước đối với hệ thống phân phối. Mỗi nền kinh tế đều có các hệ
thống phân phối hàng hóa vĩ mô hoạt động rất phức tạp. Nhà nước có vai trò quản
lý vĩ mô phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển các hệ thống phân phối
hàng hóa hiện đại, hoạt động có hiệu quả cao. Nhà nước phải đảm bảo các điều kiện
về môi trường kinh doanh để các hệ thống phân phối hàng hóa hoạt động có hiệu
quả, bảo vệ các dòng chảy hàng hóa hợp pháp, hạn chế những dòng chảy hàng hóa
tiêu cực, bất hợp pháp. Đặc điểm của quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hệ
thống phân phối hàng hóa là không can thiệp trực tiếp vào hoạt động phân phối của
các doanh nghiệp và các hệ thống phân phối cụ thể mà chủ yếu là bằng các công cụ

gián tiếp. Vai trò quản lý của Nhà nước được thể hiện trên các mặt sau:
Một là, xây dựng và thực thi hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, chi phối hoạt
động của các hệ thống phân phối hàng hóa nhằm đảm bảo môi trường pháp lý thuận
lợi cho các doanh nghiệp phát triển hiệu quả các hệ thống phân phối hàng hóa. Hệ

×