Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

luận văn tài chính ngân hàng Thực trạng sử dụng các công cụ Chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương giai đoạn từ đầu năm 2010 đến nay’

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.5 KB, 35 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


CSTT

Chính sách tiền tệ

DTBB

Dự trữ bắt buộc

GDP

Tổng sản phẩm nội địa

GTCG

Giấy tờ có giá

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHTMCP

Ngân hàng thương mại cổ phần

NHTMNN


Ngân hàng thương mại nhà nước

NHTƯ

Ngân hàng trung ương

NVTTM

Nghiệp vụ thị trường mở

VND

Việt Nam đồng

TCTD

Tổ chức tín dụng

DANH MỤC BẢNG BIỂU


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi VND tại các TCTD......Error:
Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát 2000-2012..............Error:
Reference source not found


Biểu đồ 2.3. Lãi xuất chính sách trong năm 2011.......Error: Reference source
not found

Biểu đồ 2.4. Lãi suất tiết kiệm và lãi xuất thực tiết kiệm năm 2012......Error:
Reference source not found


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô quan
trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn
đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm
phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng
các cơng cụ của nó đóng một vai trị quan trọng.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là
các cơng cụ của nó đang từng bước hình thành, hồn thiện và phát huy
tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì
việc lựa chọn các cơng cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể
của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi
và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ
quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế.
Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như
hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các cơng cụ
của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và tìm hiểu thêm về chính
sách tiền tệ ,em chọn đề tài :“ Thực trạng sử dụng các cơng cụ Chính
sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương giai đoạn từ đầu năm 2010
đến nay’’ để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Đưa ra những vấn đề cơ bản về các công cụ của chính sách
tiền tệ cũng như hệ thống hóa q trình hoạt động của các cơng cụ này.
- Đánh giá, phân tích thực trạng sử dụng các cơng cụ của Ngân
hàng trung ương hiện nay.


1


-

Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc

sử dụng các cơng cụ Chính sách tiền tệ trong bối cảnh kinh tế hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà chuyên đề nghiên cứu là các cơng cụ Chính sách tiền
tệ của Ngân hàng trung ương giai đoạn từ đầu năm 2010 đến nay.
Chuyên đề tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả việc sử dụng các công cụ Chính sách tiền tệ.
Các số liệu mà chuyên đề sử dụng để phân tích, đánh giá là các số
liệu thực tế được thống kê và cập nhập đến năm 2012.
4. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu gồm 3
chương:
- Chương 1: Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ
- Chương 2 : Thực trạng sử dụng các công cụ của chính sách
tiền tệ Việt Nam hiện nay
- Chương 3 : Một số giải pháp hồn thiện chính sách tiền tệ ở
Việt Nam.

2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

1.1.

Khái niệm và cơ chế thực hiện chính sách tiền tệ

1.1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một bộ phận trong tổng thể hệ thống
chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với
nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng
giai đoạn nhất định.
Theo nghĩa rộng thì CSTT là chính sách điều hành toàn bộ khối
lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đền bốn mục tiêu
lớn của kinh tế vĩ mơ, trên cơ sở đó đạt mục tiêu cơ bản là ổn định tiền
tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hóa.
Theo nghĩa thơng thường là chính sách quan tâm đến khối lượng
tiền cung ứng tăng thêm trong thời kì tới (thường là một năm) phù hợp
với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên
cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hóa.
1.1.2. Cơ chế thực hiện chính sách tiền tệ
Quá trình thực hiện CSTT bao giờ cũng được diễn ra theo một cơ
chế nhất định. Trong cơ chế này, NHTW sẽ là người thiết kế và điều
hành CSTT. Một CSTT của một quốc gia có thể được thực hiện theo hai
hướng:
+ CSTT “nới lỏng” là chính sách nhằm tăng thêm khối lượng tiền
tệ cung
ứng cho nền kinh tế làm cho tiền trở nên dồi dào, lãi suất hạ xuống từ đó
kích

3



thích tiêu dùng và đầu tư. Kết quả của CSTT “nới lỏng” là sản lượng
tăng, nền
kinh tế tăng trưởng cao với tỉ lệ thất nghiệp thấp.
+ CSTT “thắt chặt” là chính sách nhằm giảm khối lượng tiền tệ
cung ứng cho nền kinh tế làm cho tiền tệ trở nên khan hiếm về số lượng,
lãi suất bị đẩy lên cao, tổng cầu giảm và do đó giá cả trên thị trường
giảm sút, lạm phát bị đẩy lùi.
1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Trong hệ thống các chính sách kinh tế, CSTT khơng chỉ giữ vị trí đặc
biệt quan trọng mà cịn được coi là cơng cụ hữu hiệu để điều tiết kinh tế
vĩ mơ của Nhà nước. Vì vậy, CSTT phục vụ cho việc thực hiện những
mục tiêu kinh tế vĩ mô sau:
1.2.1. Tăng trưởng kinh tế cao.
Bất kỳ CSTT của một quốc gia nào thì mục tiêu cao nhất của nó là
sự tăng lên của GDP thực tế. Đó là phần tăng trưởng có được sau khi lấy
phần tăng trưởng danh nghĩa trừ đi phần tăng giá trong tăng trưởng cùng
thời kỳ. Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là
mục tiêu của bất kỳ một chính sách kinh tế vĩ mơ nào. Bởi lẽ, nền kinh tế
có tăng trưởng cao là đồng nghĩa với việc giải quyết các mục tiêu kinh tế
khác của CSTT như giảm thất nghiệp, tăng thu nhập quốc dân…
1.2.2. Ổn định giá cả.
Giá cả có tỷ lệ thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế. Khi giá cả lạm
phát thấp mức tăng thu nhập thực tế của nhân dân sẽ dương, do vậy đời
sống người lao động tốt hơn. Nhân dân tin tưởng vào chính quyền và
chính sách của Nhà nước. Giá cả có tỷ lệ lạm phát thấp sẽ đồng thời làm
cho lãi suất thực tế dương và lãi suất danh nghĩa sẽ thấp hơn, do đó sản
xuất sẽ có vốn với chi phí hạ về mặt dài hạn và nền kinh tế sẽ có sức bật

4



đầu tư về lâu dài. Khi giá cả có tỷ lệ lạm phát thấp, hiện tượng đầu cơ sẽ
biến mất, giá trị tiền nội địa sẽ được ổn định.
Ngược lại, khi giá cả lạm phát cao, thu nhập người lao động sẽ
không tăng kịp với phần tăng của giá sẽ làm cho đời sống họ thêm khó
khăn, nạn đầu cơ sẽ phát sinh làm cho một số bộ phận giàu lên rất nhanh
trong khi đại đa số nhân dân trở nên nghèo hơn. Khoảng cách giàu và
nghèo lớn dần và nhân dân mất niềm tin vào chính quyền.
Ổn định giá cả vì thế là một mục tiêu quan trọng nhất của CSTT .
1.2.3. Công ăn việc làm cao.
Việc làm cao cho người lao động là một mục tiêu kinh tế -xã hội của
mọi quốc gia hiện nay. Nếu xã hội có ít cơng ăn việc làm, tỷ lệ thất
nghiệp cao sẽ dẫn đến hậu quả: lãng phí các nguồn lực, làm giảm sản
lượng quốc gia, làm giảm thu nhập trong dân chúng gây khó khăn cho
đời sống của họ thậm chí có thể làm tăng các tệ nạn xã hội. Vì vậy việc
làm cao là một yêu cầu bức thiết của mọi quốc gia có nền kinh tế phát
triển cũng như đang phát triển.
Một chính sách tiền tệ đúng thúc đẩy sản xuât, khuyến khích đầu tư
sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp
giảm xuống.
1.2.4. Ổn định thị trường tài chính.
Nền tảng tài chính ổn định là mục tiêu chủ đạo của CSTT ngồi
những mục tiêu nói trên. NHTW phải ổn định hoạt động tài chính của hệ
thống tài chính trong nước một cách gián tiếp. Tăng cường hiệu quả cho
nó, kể cả thu thập thơng tin, hướng dẫn, ngăn ngừa rủi ro cho các tổ chức
tài chính trong chiều hướng quản lý hoạt động của nó phù hợp với các
mục tiêu của nền kinh tế.
Bản thân hệ thống tài chính có những mục tiêu riêng của nó và
nhiều khi những mục tiêu này đối chọi với những mục tiêu chung của


5


nền kinh tế. Vậy vai trò của CSTT là phải hài hồ một cách tối ưu giữa
các mục tiêu nói trên để phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung mà không
làm tổn hại hay hạn chế khả năng phát triển của hệ thống tài chính.
1.3. Cơng cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ của CSTT là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi
NHTW nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền
trong lưu thông và lãi suất, từ đó mà đạt được các mục tiêu của CSTT .
1.3.1. Công cụ gián tiếp
Khi sử dụng những công cụ gián tiếp, NHTW đã làm thay đổi cơ số
tiền và khả năng tạo tiền của NHTM và do đó làm thay đổi lượng cung
ứng tiền. Có các loại công cụ gián tiếp chủ yếu sau:
a. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là các hoạt động của NHTW trên
thị trường mở thông qua việc mua bán chứng khoán. Các hoạt động này ảnh
hưởng trực tiếp đến dự trữ của các NHTM và ảnh hưởng gián tiếp đến mức
lãi suất.
Khi NHTW đem chứng khoán ra thị trường mở để bán, sau đó thu
tiền về đã làm giảm lượng cung ứng tiền mặt trong lưu thông từ đó làm
giảm khả năng cho vay của NHTM.
Khi NHTW đem tiền mặt hoặc séc ra thị trường mở mua chứng
khốn đã làm cho lượng tiền mặt trong lưu thơng tăng lên, tăng dự trữ,
tăng lượng tín dụng được cấp phát bởi hệ thống NHTM. Lượng chứng
khoán được NHTW mua làm khan hiếm chứng khốn và đẩy giá nó lên.
Như vậy, NHTW thực hiện nghiệp vụ mua mở rộng cung ứng tiền,
giảm lãi suất, tăng dự trữ, tăng tỷ giá và chỉ số lạm phát gia tăng.
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ quan trọng để thực thi việc
“nới lỏng” hay “thắt chặt” cung tiền. Nó có nhiều ưu điểm như : linh


6


hoạt, có thể tiến hành thường xuyên và đặc biệt có thể dễ dàng đảo
ngược lại.
b. Lãi suất tái triết khấu
Lãi suất tái triết khấu có hai tác dụng, một gián tiếp, một trực tiếp.
Tác dụng gián tiếp là nó làm tăng hay giảm lãi suất cho vay của NHTM
và do đó tác động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động trực tiếp là
nó làm tăng hay giảm dự trữ của NHTM và do vậy tác động đến lượng
cho vay tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế.
Khi NHTW quyết định tăng lãi suất triết khấu, đó là một biến cố
quan trọng giống như thay đổi CSTT. Lãi suất triết khấu tăng sẽ làm cho
NHTM không thể vay của NHTW nhiều và dễ dàng như trước. Do vậy
nó phải giảm bớt cho vay để đảm bảo dự trữ trở lại. Như vậy, tác động
thứ nhất là nó trực tiếp làm tăng dự trữ, giảm cho vay và hiệu quả là tổng
cầu và sản lượng giảm theo.
Tác động thứ hai là nó làm cho NHTM trong trường hợp khẩn cấp
cần vay nóng của NHTW, NHTM phải trả lãi suất cao, do vậy các
NHTM sẽ từ từ nâng lãi suất lên theo để khỏi thiệt hại nặng khi phải vay
của NHTW. Lãi suất tăng tiếp tục thắt chặt cung ứng tiền và tác động
đến nền kinh tế.
Khi NHTW tuyên bố giảm lãi suất triết khấu, nó khuyến khích các
NHTM đến vay nhiều hơn, điều này trước hết làm tăng cung ứng tiền,
tăng dự trữ. Dự trữ tăng kích thích các NHTM cho vay nhiều hơn, dễ
dàng hơn và điều này làm tăng nhanh hơn nữa cung ứng tiền. Bên cạnh
đó, khi NHTM có thể vay tiền của NHTW với lãi suất hạ, nó sẽ sẵn sàng
hạ lãi suất khi cho sản xuất và tiêu dùng vay. Toàn bộ lãi suất, do vậy sẽ
giảm theo, kích thích đầu tư và mở rộng sản lượng.


7


c. Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc của NHTM bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự trữ bắt
buộc quy định bởi NHTW. Bằng việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
NHTW đã làm thay đổi những khoản tiền gửi không kỳ hạn của NHTM,
làm thay đổi số nhân tiền và do đó làm thay đổi lượng cung tiền. Cụ thể,
khi NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM, sẽ làm tăng số
nhân tiền và từ đó làm tăng cung ứng tiền.
Ngược lại, khi NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM
sẽ làm giảm số nhân tiền và từ đó làm giảm cung ứng tiền.
1.3.2. Cơng cụ trực tiếp
Ngồi các công cụ truyền thống kể trên của CSTT, NHTW cịn sử
dụng một số cơng cụ có tính chất can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền
tệ. Đó là cơng cụ hạn mức tín dụng và lãi suất.
a. Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là việc NHTW ấn định một khối lượng tín dụng
phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó
tìm cách để đưa nó vào nền kinh tế thơng qua hoạt động cho vay của hệ
thống NHTM. Nhờ việc ấn định tín dụng này mà NHTW có thể kiểm
sốt và điều hành được khối lượng tiền tệ trong thời gian đó.
Khi NHTW mở rộng hạn mức tín dụng đối với các NHTM thì khối
lượng, phạm vi cho vay trong nền kinh tế tăng lên, nhờ vậy khối tiền
cung ứng cũng tăng. Ngược lại, để “thắt chặt” cung tiền, NHTW có thể
hạn chế tín dụng đối với các NHTM nhằm giảm khối lượng tiền cho vay
trong nền kinh tế.

8



b. Lãi suất
Lãi suất là chi phí phải bỏ ra cho việc vay tiền hay là giá cả của
quyền sử dụng tiền tệ trong một thời gian nhất định. Lãi suất có tác dụng
mạnh mẽ đến nhu cầu tiền tệ dùng cho tiêu dùng và đầu tư, từ đó tác
động đến các biến số kinh tế vĩ mô khác. Thông qua việc thay đổi mức
lãi suất quy định (mức trần lãi suất cho vay tối đa và mức sàn lãi suất
huy động tối thiểu), NHTW buộc các NHTM phải thay đổi mức lãi suất
cho vay và lãi suất huy động của mình. Điều này ảnh hưởng trực tiếp
đến thái độ của các nhà doanh nghiệp cũng như của dân chúng, tức là có
ảnh hưởng tới đầu tư và tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng đến các biến số kinh
tế vĩ mơ khác.
Như vậy là có nhiều cơng cụ để điều hành CSTT. Mỗi công cụ tác
động đến cung tiền ở mức độ, phạm vi khác nhau. Trong quá trình sử
dụng các cơng cụ này, cần phải có sự kết hợp chặt chẽ các cơng cụ đó
với nhau, tạo thành hệ thống cơng cụ đồng bộ thì mới điều tiết kinh tế vĩ
mơ một cách có hiệu quả.

9


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CƠNG CỤ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ
2.1.1. Cơng cụ nghiệp vụ thị trường mở
Từ ngày 12/7/2000, NHNN tiến hành đưa công cụ NVTTM vào
hoạt động. Hoạt động này đã có tác động tới vốn khả dụng của các tổ
chức tín dụng (TCTD) tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động

và luân chuyển vốn, tạo ra khả năng phối kết hợp giữa thị trường liên
ngân hàng - thị trường mở - thị trường chứng khoán.
Ngay từ khi triển khai, NHNN đã xác định NVTTM sẽ là một công
cụ chủ yếu trong điều hành CSTT. Để đạt được mục đích đó, NHNN đã
tập trung thực hiện việc điều hồ lưu thơng tiền tệ thông qua công cụ
này. Điều này thể hiện ở doanh số mua bán giấy tờ có giá (GTCG) trên
thị trường mở tăng nhanh qua các năm.
Thống kê từ đầu năm nay đến hết tháng 6/2011, NHNN đã bơm ra
thị trường qua nghiệp vụ thị trường mở là 2.300.062 tỷ đồng, hút về
2.287.006 tỷ đồng, mức bơm ròng là 13.056 tỷ đồng. Số liệu cụ thể được
thể hiện tổng hợp qua bảng dưới đây:

10


Bảng 1: Tình hình hoạt động NVTTM 6 tháng đầu năm 2011
Đơn vị tính: Tỷ đồng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Với quy mơ, doanh số và tính linh hoạt trong hoạt động của thị
trường mở như nói trên, nên tính đến cuối tháng 6/2011, nhìn chung,
thanh khoản hệ thống ngân hàng vẫn trong trạng thái ổn định và khá
dồi dào. Thanh khoản ngân hàng tốt là một cơ sở để giảm lãi suất, tuy
vậy, muốn lãi suất có thể thực sự giảm thì cần tín hiệu rõ ràng của giảm
lạm phát.
Bảng 2: Lượng tiền cung ứng ròng qua nghiệp vụ thị trường mở
Đơn vị tính: Tỷ đồng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước


11


Qua bảng 2 cho thấy từ năm 2008, NHNN đã bơm ròng 100.685 tỷ
đồng; năm 2009, cũng bơm ròng tới 122.830 tỷ đồng; năm 2010, bơm
ròng 294.304 tỷ đồng, trong khi đó, 6 tháng đầu năm 2011, chỉ bơm rịng
13.056 tỷ đồng. Điều này thể hiện NHNN quyết tâm thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, nhằm mục đích kiềm chế lạm phát.
Qua bảng số liệu 3 cho thấy, trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN
đã thực hiện 241 phiên giao dịch mua có kỳ hạn. Để đảm bảo khả năng
thanh khoản cho các TCTD nên NHNN chỉ chào các phiên giao dịch
mua có kỳ hạn và chủ yếu là kỳ hạn ngắn.
Các chủ thể tham gia thị trường trong 6 tháng đầu năm 2011cũng
tăng mạnh, gần như các chủ thể đăng ký tham gia thị trường, nếu có đủ
điều kiện đều được giao dịch và đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời. Các chủ
thể tham gia gồm: 05 NHTM Nhà nước, 32 NHTMCP, 01 ngân hàng
liên doanh, 07 chi nhánh ngân hàng nước ngồi, 04 cơng ty tài chính.
Bảng 3: Doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Doanh số giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở liên tục tăng,
năm sau cao hơn năm trước theo cả hai chiều mua và bán. Năm 2008,
tổng doanh số trúng thầu là1.036.066 tỷ đồng, đến cuối năm 2010, tổng

12


doanh số trúng thầu là 2.108.715 tỷ đồng. Trong các hình thức giao dịch
thị trường mở thì hình thức NHNN mua các GTCG -“bơm” tiền ra là

chủ yếu, có thời điểm là 100% trong tổng doanh số trúng thầu như 6
tháng đầu năm 2009 và năm 2010. Tuy nhiên, 6 tháng đầu năm 2011,
NHNN lại “hút” là chủ yếu, (tháng 5 và 6), NHNN chỉ bơm ra khoảng
13.056 tỷ đồng. Điều này cho thấy thị trường mở là một “kênh” cung
ứng hoặc thu hút tiền về quan trọng của NHNN nhằm thực hiện mục tiêu
của CSTT. Cụ thể: Lãi suất trên thị trường mở cũng có nhiều biến động:
nếu năm 2008, mua có kỳ hạn 7 ngày lãi suất bình quân là 12,82%/năm,
14 ngày là 13,12%/năm, thì năm 2009, đã giảm xuống tương ứng là
7,23%/năm và 7,51%/năm và năm 2010 tương

ứng 8,35%/năm và

7,69%/năm. Trong tháng 1/2011, lãi suất mua có kỳ hạn 7 ngày đã tăng
lên 10%/năm, từ ngày 22/2, tăng lên 12%, 1/4 là 13%, ngày 4/5, đã
được đẩy lên mức 14%/năm, khơng dừng ở đó, ngày 17/5, NHNN đã
nâng lãi suất trên thị trường mở lên 15%.
Đây là lần thứ 8, NHNN điều chỉnh mức lãi suất trên thị trường
mở kể từ tháng 1/2010. Từ ngày 4/7/2011, lãi suất trên nghiệp vụ thị
trường mở đã giảm nhẹ xuống 14%/năm. Điều này cho thấy năm 2008
và 2011 nền kinh tế có lạm phát cao, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt dẫn đến tình hình thanh khoản của các NHTM khó khăn, đặc
biệt là các NHTM cổ phần quy mô nhỏ.
2.1.2. Công cụ lãi suất tái triết khấu
Lãi suất tái chiết khấu (hay lãi suất chiết khấu) là lãi suất áp dụng
khi NHNN tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác (tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi) cho các TCTD.
Trong quá trình cho vay triết khấu, NHNN ln ln điều chỉnh
lãi suất cho vay lãi suất phù hợp với mục tiêu của CSTT trong từng thời

13



kỳ. Có thể nói trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây cho
vay triết khấu thực sự trở thành công cụ đắc lực trong điều hành CSTT
của NHNN Việt Nam.
Việc điều chỉnh lãi suất cho vay triết khấu của NHNN những năm
vừa qua đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các NHTM và khả
năng huy động vốn trong nền kinh tế đã tăng lên nhiều.
Bảng 4. Lãi xuất chiết khấu qua các năm
Ngày áp dụng

Giá trị lãi xuất
chiết khấu

13/03/2012

12%

01/05/2011

13%

08/03/2011

12%

01/12/2010

7%


05/11/2010

7%

01/11/2010

6%

01/10/2010

6%

01/09/2010

6%

01/08/2010

6%

01/09/2010

6%

10/08/2010

6%

01/06/2010


6%

01/02/2010

6%

01/12/2009

6%

01/10/2009

5%

10/04/2009

5%

01/02/2009

6%

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

14


Qua bảng số liệu thống kê về lãi xuất chiết khấu trong thời gian từ
năm 2009 đến năm 2012 luôn luôn biến động .Trong năm 2009, mức lãi
suất triết khấu được điều chỉnh nhiều lần cho phù hợp với diễn biến của

nền kinh tế. Đầu năm, mức lãi xuất chiết khấu là 6%/tháng, từ tháng 4
đến tháng 10 thì mức lãi xuất giảm còn 5%/tháng. Từ tháng 12 năm
2009 đến tháng 11 năm 2010 thì lãi xuất triết khấu quy định là 6%/năm.
Điều này cho thấy trong thời gian này, tình hình kinh tế trong nước phát
triển đồng bộ và luôn ở mức ổn định.
Khi NHNH tăng mức lãi suất lên 12%/ tháng của tháng 3 năm 2011
đã ghi nhận một bước ngoặt lớn của nền kinh tế là tình hình lạm phát
đang diễn ra ngày một mạnh mẽ hơn. Lãi suất tái chiết khấu tăng cao đã
hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn của các TCTD, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Liên tục trong năm 2011 đến năm 2012 thì vấn đề này trở nên nóng
hơn. Đây làmột năm đầy biến động của kinh tế thị trường khi lãi xuất
chiết khấu tăng từ 7% lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng từ 11% lên
12%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng tăng từ 11% lên 12%/năm.
Tăng lãi suất tái chiết khấu được coi là một trong số các công cụ
thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát của NHTW các quốc gia.Với việc
tăng mạnh lãi suất tái chiết khấu và 3 loại lãi suất khác, NHNN đang
ngày càng siết chặt việc bơm tiền cho các NHTM, thực hiện đúng Nghị
định 11 của Chính phủ về việc siết chặt thị trường tín dụng, kiềm chế
lạm phát.
2.1.3. Cơng cụ dự trữ bắt buộc
Từ năm 1990, dự trữ bắt buộc ( DTBB) đã trở thành công cụ chủ
yếu để điều hành CSTT ở Việt Nam. Theo pháp lệnh Ngân hàng ( ban

15


hành năm1990) tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn
vốn huy động của các NHTM.

Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng hoạt động tại
Việt Nam phải duy trì trên tài khoản tiền gửi thanh tốn tại NHNN. Đây
là cơng cụ rất quan trọng trong điều hành của NHNN. Tuy nhiên, nhiều
năm qua, cơng cụ này mất tác dụng vì tăng trưởng tín dụng nhiều trong
khi tỷ lệ dữ trữ bắt buộc lại quá thấp. Cụ thể, khi lạm phát cao Ngân
hàng Nhà nước sẽ phải hút tiền về, biện pháp có thể sử dụng tới là tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các tổ chức tín dụng. Nhưng thời gian qua, do
hệ thống ngân hàng thiếu thanh khoản nên nếu NHNN tăng tỷ lệ dự trữ
bắt

buộc

thì

sẽ

gây

khó

khăn

cho

nền

kinh

tế.


Theo số liệu thống kê, từ tháng 5/2011 đến nay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc với
tiền gửi VND tại hầu hết các tổ chức tín dụng (trừ ngân hàng Nơng
nghiệp và Phát triển Nông thôn, NHTM nông thôn, ngân hàng hợp tác,
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương) duy trì ở 3% với tiền gửi không kỳ
hạn và dưới 12 tháng, 1% với tiền gửi trên 12 tháng.
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc với tiền gửi VND tại các TCTD
(trừ NHNo và PTNT) từ năm 2007 đến nay

Nguồn: GAFIN/SBV

16


Qua biểu đồ cho thấy từ tháng 01/2007 - 09/2011 đến nay, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc được điều chỉnh giảm, việc điều chỉnh này của NHNN, một
mặt, nhằm đưa ra tín hiệu nới lỏng tiền tệ; mặt khác, thơng qua việc nâng
cao hệ số nhân tiền chính thức mở rộng khả năng cho vay, kích thích các
ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tích cực cung ứng
vốn cho nền kinh tế.
2.1.4. Cơng cụ hạn mức tín dụng
Cơng cụ hạn mức tín dụng được NHNN áp dụng để điều hành
CSTT trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, do các công cụ gián
tiếp để điều hành CSTT chưa phát huy đầy đủ hiệu quả.Việc đưa ra và
áp dụng công cụ này trong những năm qua đã có những kết quả nhất
định, chứng tỏ cơng cụ này phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam
những năm đầu chuyển sang kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, trước tình hình kinh tế diễn biến khơng ổn định,
NHNN đã sử dụng tất cả các công cụ CSTT theo hướng thắt chặt để
kiềm chế lạm phát. Giai đoạn lạm phát bùng nổ vào năm 2008 như là kết
quả tất yếu của chính sách nới rộng tổng cầu. Sang năm 2009, CSTT lại

hướng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua một loạt các công
cụ như hỗ trợ lãi suất mà thực chất là mở rộng cung tiền, hạ lãi suất cơ
bản từ 14% xuống 8,5% và cặp lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn xuống
7,5% và 9,5%, duy trì lãi suất cơ bản ở mức 7% trong gần suốt năm
2009... Kết quả là tốc độ tăng trưởng tín dụng lên tới mức kỷ lục gần
40% vào năm 2009 và lạm phát tạm thời ở mức 6,9% - tỷ lệ cao nhất
trong khu vực vào thời gian đó.
Bước sang năm 2010 là giai đoạn thực hiện chính sách vĩ mơ thận
trọng nhằm ổn định và duy trì mục tiêu tăng trưởng, CSTT với các giải
pháp nới rộng cung tiền, chỉ trong 6 tháng cuối năm 2010, dư nợ tín

17


dụng đã tăng tới 18% và đưa tổng mức dư nợ tín dụng tăng tới gần 28%
so với năm 2009 (vượt 12% so với cam kết). Kết quả là cả hai mục tiêu
đều vượt chỉ tiêu của Quốc hội: tốc độ tăng trưởng vượt 104% và tỷ lệ
lạm phát vượt 168%.
Đặc biệt là giai đoạn ưu tiên ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát
trong suốt thời gian từ 2011 – 2012. Đây là một giai đoạn mà CSTT thực
hiện thắt chặt với mục tiêu trung gian là dư nợ tín dụng với mức tăng
trưởng 20% trong năm 2011. Sang năm 2012, hạn mức tín dụng được
NHNN chia thành 4 nhóm, tương ứng với các mức là 17%, 15%, 8% và
0%, quy định tỉ trọng dư nợ tín dụng cho lĩnh vực khơng khuyến khích là
16%. Từ q IV năm 2011, NHNN bắt đầu thể hiện dấu hiệu nới lỏng
nhưng nhu cầu tín dụng vẫn rất thấp, báo hiệu tình trạng đình đốn của
khu vực sản xuất, giảm nhu cầu tín dụng, chỉ số giá đã bắt đầu giảm từ
tháng 8/2011. Tính đến q I/2012, dấu hiệu đình đốn sản xuất rõ nét với
tỷ lệ tăng sản xuất công nghiệp là 4,1% (so với 9,3% cùng kỳ năm
2011), mức bán lẻ chỉ là 5% (thấp xa so với số liệu cùng kỳ từ 2006), tốc

độ tăng trưởng kinh tế là 4% (thấp nhất từ 2007 đến nay) (Biểu đồ 2.2)
Biểu đồ 2.2: Tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát 2000-2012

18


Nguồn: Tổng cục thống kê

Để khác phục tình hình kinh tế, NHNH đã có nhiều động thái để hồi
phục kinh tế như cắt giảm lãi suất 300 điểm liên tiếp, đưa mức trần lãi
suất xuống 11% từ 25/5/2012, liên tiếp hạ lãi suất, áp trần lãi suất
15%/năm rồi giảm xuống 14%/năm cho 4 khu vực ưu tiên: nông nghiệp,
nông thôn; doanh nghiệp vừa và nhỏ; doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Cơ cấu lại nợ (thời hạn trả nợ,
lãi suất, cho vay mới trả nợ cũ,...) và các giải pháp khác cần thiết, phù
hợp với từng loại hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp vay được vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc
quy định nới rộng tín dụng cho khu vực bất động sản với mục đích
thúc đẩy sản xuất các ngành vật liệu xây dựng và giải phóng các
khoản nợ đọng của ngân hàng trong tài sản đảm bảo là bất động sản.
Đăc biệt là các đợt giảm và hoãn thuế cũng được sử dụng từ 2011, tiếp
tục được sử dụng cho hỗ trợ doanh nghiệp trong năm 2012 với quy mô
khoảng 29.000 tỷ.
2.1.5. Công cụ lãi suất
Ở Việt Nam lãi suất được sử dụng như công cụ của CSTT. Đặc biệt
những năm gần đây, việc điều chỉnh lãi suất theo hướng từng bước nới
lỏng của NHNN được coi như một đối sách nhạy bén trước những thay
đổi của cung - cầu về tiền tệ.
Lãi suất do các ngân hàng thông báo và đường cong lãi suất mà thị
trường chấp nhận trong điềukiện mức lãi suất ln có xu hướng tăng lên

(từ năm 2008 đến nay). Trong năm 2010, NHNH đã quyết định khống
chế lãi suất tiền gửi lần lượt ở mức 11% (tháng 7/2010), 12% (tháng
11/2010), 14% (tháng 12/2010).
Bước sang năm 2011 lãi suất tiếp tục lên cao, lãi suất cho vay tiêu
dùng lên tới 25-30%, còn lãi suất cho vay sản xuất là 20% trong 2 tháng

19


đầu năm. Mặc dù lãi suất cao nhưng NHNN vẫn tiếp tục thắt chặt chính
sách tiền tệ, hạ mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ mức 23% xuống cịn
dưới 20%, tăng trưởng cung tiền giảm xuống 15-16%. Ngoài ra, NHNN
quyết định tăng dự trữ bắt buộc đối với ngoại tệ với kỳ hạn dưới 12
tháng từ 4% lên 6% và kỳ hạn trên 12 tháng từ 2% lên 4%.
Biểu đồ 2.3. Lãi xuất chính sách trong năm 2011

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Sau một năm đầy biến động của kinh tế 2011, những ngày đầu 2012,
NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành và 4 lần điều
chỉnh giảm trần lãi suất huy động. Trong đó, lãi suất tái chiết khấu giảm
từ 13%/năm xuống mức 8%/năm, lãi suất tái cấp vốn giảm từ 15%/năm
xuống 10%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng giảm từ 16%/năm xuống 11%/năm, trần lãi suất huy động
giảm từ 14%/năm xuống 9%/năm (với tiền gửi kỳ hạn dưới 12 tháng).

20


Biểu đồ 2.4. Lãi suất tiết kiệm và lãi xuất thực tiết kiệm năm 2012


Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Sau quý I/2012, từ quý II/2012, lãi suất cho vay đã giảm mạnh,trong
nhiều lĩnh vực, với cả khối NHTMNN và NHTMCP. Đến cuối tháng
6/2012, lãi suất cho vay nông nghiệp - nông thôn của khối NHTMNN
giảm từ 16%/năm từ đầu năm xuống chỉ cịn 12%/năm; nhóm NHTMCP
giảm từ 19,2% xuống 13%/năm.
Trong 6 tháng đầu năm 2012, mặc dù NHNN đã có nhiều quyết sách
nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế, lãi suất
tín dụng đã giảm nhưng nhìn chung vẫn cao hơn so với khả năng chịu
đựng của các doanh nghiệp khi tình hình sản xuất kinh doanh vẫn chưa
được cải thiện.
2.2. Hiệu quả từ việc điều hành các cơng cụ của chính sách tiền tệ
a. Tác động tích cực
-

Chính sách chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở: Lãi suất tái chiết

khấu và lãi suất tái cấp vốn tăng đã làm tăng mặt bằng lãi suất, hạn chế
tăng trưởng tín dụng, thực hiện đúng hướng thắt chặt tiền tệ.

21


×