MỞ ĐẦU
Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng của các giao dịch kinh tế và thương mại của
các chủ thể các quốc gia trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển và
mở rộng hơn nữa trên toàn cầu, vì thế các giao dịch kinh tế và thương mại quốc tế đã và
đang có nhiều thay đổi, phát triển rất đa dạng về hình thức, qui mô và độ sâu. Song song
với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, các công cụ tín dụng đã hình thành và ngày
càng phát triển đa dạng, phong phú, tính hữu ích của nó ngày một cao hơn. Mỗi công cụ
tín dụng ra đời là sản phẩm riêng có của các quan hệ tín dụng tương ứng. Các công cụ
lưu thông tín dụng như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc… có vai trò rất quan
trọng trong thanh toán quốc tế, đem lại sự thuận lợi trong giao dịch xuyên quốc gia. Tuy
nhiên, hoạt động thanh toán quốc tế bên cạnh tiện ích của nó, lại chứa đựng nhiều rủi ro
tiềm ẩn. Một trong những lí do gây nên rủi ro là do môi trường pháp lý quốc tế của
thanh toán quốc tế còn thiếu và chưa đồng bộ, thiếu nhiều luật quốc tế, các tập quán
quốc tế của ICC ban hành tương đối đầy đủ, nhưng vẫn còn nhiều bất cập trong vận
dụng. Chỉ riêng đối với ba công cụ thanh toan: hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và
séc, đã có bốn nguồn luật điều chỉnh là ULB 1930 - Luật thống nhất về hối phiếu và kì
phiếu (hối phiếu nhận nợ) thuộc công ước Geneva, BEA 1882 - Luật hối phiếu của Anh,
UCC 1995 - Luật thương mại thống nhất của Mĩ và Luật công cụ chuyển nhượng của
Việt Nam 2005.
Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu, nhóm chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Nghiên
cứu so sánh những vấn đề pháp lý liên quan đến việc sử dụng các công cụ thanh toán
quốc tế (Hối phiếu đòi nợ, Hối phiếu nhận nợ, Séc,…) trong ULB 1930 (Châu Âu),
BEA188 2(Anh), UCC1995 (Mỹ) và Luật công cụ chuyển nhượng của VN 2006” nhằm
đưa đến cho mọi người một cái nhìn tổng quan về những điểm khác biệt giữa bốn nguồn
luật này khi điều chỉnh các công cụ thanh toán đã kể trên. Do vốn kiến thức còn hạn hẹp
nên bài tiểu luận của chúng tôi không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn.
I- Các công cụ chuyển nhượng và các nguồn luật điều chỉnh
1- Các công cụ chuyển nhượng
a- Hối phiếu đòi nợ
1
Về định nghĩa hối phiếu đòi nợ, mỗi quốc gia lại đưa ra một khái niệm khác nhau.
Tuy có sự khác nhau trong cách hành văn Luật hối phiếu của các quốc gia, nhưng nội
dung của các khái niệm đó tương tự nhau.
Theo Luật công cụ chuyển nhượng của Việt Nam năm 2005, hối phiếu đòi nợ là
một giấy tờ có giá do Người kí phát lập, yêu cầu Người bị kí phát thanh toán vô điều
kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương
lai cho Người thụ hưởng.
Theo ULB 1930, hối phiếu bao gồm các nội dung: một lệnh đòi tiền vô điều kiện
để thanh toán một số tiền nhất định, tên của người trả tiền, thời gian và địa điểm thanh
toán, tên của Người thụ hưởng, tuyên bố ngay và địa điểm kí phát hối phiếu đòi nợ, chữ
kí của Người kí phát.
Theo BEA 1882, hối phiếu là một mệnh lệnh vô điều kiện của một người kí phát
cho người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất
định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai, phải trả một số tiền nhất định
cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho
người cầm hối phiếu.
Riêng UCC 1962 lại đưa ra một khái niệm chung chung về công cụ chuyển
nhượng gồm có hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc…
Hối phiếu có bốn đặc điểm. Thứ nhất, hối phiếu được hình thành từ các hợp đồng
giao dịch cơ sở. Những hối phiếu không được hình thành từ giao dịch cơ sở được gọi là
hối phiếu khống. Thứ hai, hình thức của hối phiếu đòi nợ rất dễ nhận dạng trực tiếp. Dù
là tồn tại dưới hình thức phi chứng từ, hình thức của hối phiếu cũng được qui định rõ
ràng để mọi người có thể nhận dạng dễ dàng, trực tiếp và trung thực, vì nó là một tài sản
tài chính vô hình nhưng lại chứa đựng các quyền pháp lý rất quan trọng đối với bên kí
phát. Đặc điểm thứ ba, hối phiếu là trái vụ một bên. Sở dĩ nói như vậy, vì hối phiếu là
một công cụ do một người phát hành, yêu cầu người bị kí phát thực hiện nghĩa vụ dân
sự trả tiền, vì vậy nghĩa vụ dân sự có được thực hiện hay không hoàn toàn phụ thuộc
vào sự chấp nhận của người bị kí phát. Hối phiếu sẽ trở nên vô hiệu khi bị người bị kí
phát từ chối thanh toán một cách hợp pháp hoặc bị phá sản. Và đặc điểm cuối cùng, hối
phiếu mang tính chất “trừu tượng”. Điều này có nghĩa là trong nôi dung của hối phiếu
không cần phải ghi rõ lí do của việc đòi tiền.
2
b. Hối phiếu nhận nợ
Hối phiếu nhận nợ (hay còn gọi là kì phiếu) là một cam kết trả tiền vô điều kiện do
Người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho Người thụ hưởng qui định
trên kì phiếu hoặc theo lệnh của người này để trả cho một người khác.
Hối phiếu nhận nợ cũng là một tài sản tài chính vô hình, vì thế nó cũng mang bốn
đặc điểm tương tự như hối phiếu đòi nợ, tuy nhiên cũng có một số điểm khác biệt. Thứ
nhất, kì phiếu là một công cụ hứa trả tiền chứ không phải là công cụ đòi tiền.Thứ hai, kì
phiếu là một công cụ hứa trả tiền vô điều kiện do con nợ viết ra để hứa trả một số tiền
nhất định cho chủ nợ. Thứ ba, người lập phiếu phải phát hành kì phiếu hứa trả tiền trước
khi Người thụ hưởng kì phiếu thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng giao dịch cơ sở. Và cuối
cùng, các quy định pháp lý đối với hối phiếu đòi nợ cũng có thể áp dụng cho hối phiếu
nhận nợ.
c.Séc
Séc là một lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản ra lệnh cho ngân hàng rút
một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả
theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm séc.
Séc là phương tiện chi trả được dùng hầu như phổ biến trong thanh toán nội địa
của tất cả các nước. Séc cũng được sử dụng trong thanh toán quốc tế về hàng hóa, cung
ứng dịch vụ, du lịch…Séc có giá trị thanh toán trực tiếp giống như tiền tệ, vì vậy có
những qui định về nội dung và hình thức của séc rất cụ thể theo luật định.
2.Các nguồn luật điều chỉnh
a-ULB 1930
ULB 1930 là luật thống nhất về hối phiếu và kì phiếu (hối phiếu nhận nợ) thuộc
công ước Geneva kí kết năm 1930. ULB mang tính chất khu vực châu Âu. Pháp đã tham
gia công ước Geneva năm 1930 nhưng chính thức áp dụng luật ULB vào năm 1930.
VIệt Nam bấy giờ là thuộc địa của Pháp nên cũng áp dụng luật này từ năm 1937 dến
nay. Vì vậy ngày nay để giải thích về hối phiếu nhận nợ và hối phiếu đòi nợ ở nước ta
cũng chỉ nên dựa vào ULB hơn là các văn bản pháp lý khác do ULB 1930 được rất
nhiều nước trên thế giới áp dụng, bao gồm Úc, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy
3
Lạp, Hungari, Ý, Lúc-xem-bua, Mô-na-cô, Hà Lan, Na-uy, Balan, cộng hòa Xô Viết,
Thụy Điển,Thụy Sĩ, Nhật, Bra-xin.
b-BEA 1882
Mặc dù trên thế giới có rất nhiều quốc gia đã áp dụng ULB 1930 nhưng nước Anh
lại không sử dụng luật này, mà là Luật hối phiếu của Anh năm 1882 – Bill of Exchange
Act of 1882.
c-UCC 1995
UCC 1995 – Uniform commercial Code of 1995 - là Luật thương mại thống nhất
của Mĩ, được ban hành năm 1995. Cũng giống như nước Anh, Mĩ không áp dụng ULB
1930 mà áp dụng luật này khi sử dụng các công cụ thanh toán quốc tế trong giao dịch.
d-Luật công cụ chuyển nhượng của Việt Nam 2005
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xác hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã
được sửa đổi và bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12 năm 2001 của
Quốc hội khóa X, luật này qui định về công cụ chuyển nhượng như hối phiếu, kì phiếu
và séc.
Luật này được áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức và cá nhân
nước ngoài tham gia vào quan hệ công cụ chuyển nhượng trên lãnh thổ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
II. Nghiên cứu so sánh các vấn đề pháp lý về việc sử dụng các công cụ chuyển
nhượng trong ULB 1930, BEA 1882, UCC 1995 và LCCCNVN 2006.
1-Hối phiếu đòi nợ
1.1 -Nội dung
Hối phiếu thường bao gồm những nội dung sau : (1) tiêu đề, (2) số hiệu, (3) số
tiền, (4) địa điểm ký phát, (5) ngày ký phát, (6) mệnh lệnh đòi tiền, (7) thời hạn thanh
toán, (8) người thụ hưởng, (9) người bị ký phát, (10) người ký phát, (11) địa điểm thanh
toán.
Hối phiếu phải có tiêu đề. Nhằm tránh nhầm lẫn với những công cụ chuyển
nhượng khác, hầu hết luật các nước đều quy định hối phiếu phải có tiêu đề. Theo luật
của các nước chịu ảnh hưởng của Công ước geneva 1930 đều yêu cầu hối phiếu phải có
4
tiêu đề nếu không sẽ vô hiệu. Còn theo BEA 1882 và UCC 1995, không bắt buộc hối
phiếu phải có tiêu đề, miễn là trong nội dung có diễn đạt từ “hối phiếu”.
Số tiền ghi trên hối phiếu phải là một số tiền xác định, được ghi một cách đơn giản, rõ
ràng và dễ nhận biết. Số tiền có thể được ghi cả bằng chữ vàbằng số và phải khớp nhau.
Trong trường hợp số tiền bằng số và bằng chữ không khớp nhau, số tiền bằng chữ sẽ
được thanh toán. Trên hối phiếu có thể quy định lãi suất, tỷ giá và việc thanh toán thành
nhiều lần. Luật CCCNVN chỉ có quy định về lãi suất, còn BEA 1882 và ULB 1930 đều
có quy định về tỷ giá hối đoái khi thanh toán hoặc việc thanh toán nhiều lần. ( Điều 5,
39, 41 ULB 1930 và mục 9 BEA 1882)
Địa điểm ký phát là căn cứ để xác định nguồn luật điều chỉnh hối phiếu. Hầu hết
luật các nước đều không buộc phải ghi địa điểm ký phát trên hối phiếu. Nếu hối phiếu
không ghi địa chỉ ký phát thì có thể suy đoán địa chỉ bên cạnh tên người ký phát. Điều
2 ULB 1930 và điều 16 khoản 2 LCCCN uy định nếu không có địa chỉ bên cạnh tên
người ký phát thì hối phiếu vô hiệu.
Địa điểm trả tiền là nơi người thụ hưởng hối phiếu xuất trình hối phiếu để đòi tiền.
Luật của nhiều nước yêu cầu phải ghi rõ địa điểm thanh toán trên hối phiếu. Điều 16
khoản 2 LCCCN và điều 111 UCC quy định nếu trên hối phiếu không ghi rõ địa điểm
trả tiền thì hối phiếu sẽ được thanh toán tại địa chỉ hoặc trụ sở kinh doanh của người bị
ký phát.
Ngày ký phát hối phiếu là thời điểm phát sinh quyền đòi tiền của Người ký phát
đối với Người bị ký phát và cũng là căn cứ để xác định thời hạn trả tiền của hối phiếu.
Trường hợp trên hối phiếu không ghi rõ ngày ký phát, theo LCCCN và ULB thì hối
phiếu vô hiệu trong khi BEA quy định hối phiếu đó vẫn có hiệu lực và có thể bổ sung
true date.
Thời hạn thanh toán hối phiếu : trong trường hợp là hối phiếu trả ngay thì việc trả
tiền phải được thực hiện ngay sau khi hối phiếu được xuất trình. Thời hạn xuất trình để
thanh toán hối phiếu trả ngay theo ULB là 1 năm, theo LCCCN là 90 ngay và theo BEA
quy định là một khoảng thời gian hợp lý.
Về quy định ghi tên người thụ hưởng trên hối phiếu : họ tên và địa chỉ phải được ghi rõ
ràng và đầy đủ. Nêu tên và địa chỉ người thụ hưởng không được ghi trên hối phiếu,
5
LCCCN và ULB quy định hối phiếu đó là vô hiệu trong khi BEA lại quy định số tiền
ghi trên hối phiếu sẽ được thanh toán cho người cầm giữ hối phiếu.
Về quy định ghi tên người bị ký phát trên hối phiếu : LCCCN và ULB quy định
nếu không ghi rõ tên người bị ký phát hối phiếu sẽ vô hiệu trong khi BEA quy định hối
phiếu đó vẫn có giá trị nếu thể hiện được một sự ‘ rõ ràng hợp lý”.
Người ký phát là người lập ra mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện. Chữ ký của người ký
phát là bắt buộc. LCCCN VN còn yêu cầu phải đóng dấu nếu người ký phát là cơ quan,
tổ chức.
1.2- Các nghiệp vụ liên quan đến hối phiếu
1.2.1 Chấp nhận
a. Định nghĩa
Điều 4.16 Luật Công cụ chuyển nhượng: chấp nhận là cam kết của người bị ký
phát về việc sẽ thanh toán toàn bộ hoặc một phần số tiền ghi trên hối phiếu đòi nợ khi
đến hạn thanh toán bằng việc ký chấp nhận trên hối phiếu đòi nợ theo quy định của Luật
này
b.Hình thức chấp nhận
Trong Luật công cụ chuyển nhượng quy định, Điều 21, Khoản 1: Người bị ký phát
thực hiện việc chấp nhận hối phiếu đòi nợ bằng cách ghi trên mặt trước của hối phiếu
đòi nợ cụm từ "chấp nhận", ngày chấp nhận và chữ ký của mình. Nếu thiếu ngày chấp
nhận hoặc chữ ký, thì chấp nhận được coi là vô hiệu. Trong khi ULB, BEA không bắt
buộc phải có ngày chấp nhận. Theo ULB, trường hợp không ghi ngày chấp nhận, chấp
nhận được xem là vô hiệu, nếu hối phiếu có yêu cầu về một khoảng thời gian nhất định
để thanh toán hoặc xuất trình. Theo BEA, trường hợp không ghi ngày ký chấp nhận,
người nắm giữ có thể tự bổ sung ngày ký chấp nhận thực tế.
c.Thời hạn chấp nhận
Về thời hạn xuất trình để yêu cầu chấp nhận:
- Đối với hối phiếu trả chậm: Trong ULB và Luật công cụ chuyển nhượng, thời hạn xuất
trình hối phiếu để yêu cầu chấp nhận là 1 năm, nếu thời hạn thanh toán hối phiếu vào
một thời điểm nhất định sau khi xuất trình. Về khoản này, BEA quy đinh, thời hạn là
thời gian hợp lý.
6