Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học Kể chuyện cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 76 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Tên đề tài: Vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học Kể chuyện
cho học sinh lớp 3
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Thị Kiều Diễm
Ngày sinh: 24 – 11 – 1992
Lớp: ĐHSPTH K12
Khóa: 2011 – 2015
Trường Đại học Hải Phòng
Người hướng dẫn: Thạc sĩ Nguyễn Thị Dung – GV Khoa GDTH
NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ
1. Ý thức tổ chức kỉ luật trong quá trình nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, sinh viên Nguyễn Thị Kiều Diễm luôn
thực hiện tốt các yêu cầu của người hướng dẫn, có thái độ nghiên cứu khoa
học nghiêm túc, có tinh thần học hỏi và cầu tiến cao. Mặc dù tham gia nhiều
hoạt động Đoàn – Hội của nhà trường, khoa và lớp nhưng em đã dành thời
gian khoa học cho việc nghiên cứu đề tài. Với sự nỗ lực, say mê cùng thái độ
làm việc nghiêm túc, em đã hoàn thành khóa luận đúng tiến độ và đảm bảo
chất lượng.
2. Khả năng nghiên cứu và vận dụng phương pháp
Sinh viên Nguyễn Thị Kiều Diễm là một sinh viên có khả năng tự
nghiên cứu khoa học tốt, biết cách tìm tòi tài liệu ở nhiều nguồn khác nhau,
nắm bắt nhanh các vấn đề khoa học và vận dụng vào quá trình nghiên cứu.
1
Bên cạnh đó, em có khả năng hiểu các phương pháp dạy học, biết phân
tích và tổng hợp kiến thức cũng như vận dụng linh hoạt vào thực tiễn dạy học
ở Tiểu học. Và bước đầu đã khẳng định được tính khả thi của vấn đề nghiên
cứu, góp phần nâng cao chất lượng dạy học Kể chuyện ở Tiểu học nói chung
và dạy học Kể chuyện ở lớp 3 nói riêng.


3. Nhận xét khác
Là người hướng dẫn, tôi đánh giá cao tinh thần học hỏi, say mê nghiên
cứu khoa học và sự linh hoạt nhạy bén của sinh viên Nguyễn Thị Kiều Diễm
khi vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào quá trình nghiên cứu.
Khóa luận đảm bảo tính mới về nội dung và có ý nghĩa thực tiễn cao,
có thể là một tài liệu tham khảo dành cho giáo viên Tiểu học và sinh viên
chuyên ngành Giáo dục Tiểu học. Kính trình hội đồng xem xét!
Hải Phòng, ngày 22 tháng 5 năm 2015
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Th.s Nguyễn Thị Dung

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ của các thầy, cô, gia đình và bạn bè.
2
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.s Nguyễn Thị
Dung – Giảng viên Khoa Giáo dục Tiểu học đã tận tình hướng dẫn tôi trong
suốt quá trình triển khai, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Giáo dục Tiểu
học – Trường Đại học Hải Phòng đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt những
kiến thức khoa học chuyên ngành Giáo dục Tiểu học; Ban giám hiệu các trường
Tiểu học Nguyễn Văn Tố (quận Lê Chân – Thành phố hải Phòng), trường Tiểu
học Thực hành (quận Kiến An – Thành phố Hải Phòng) cùng tập thể thầy, cô giáo
và các em học sinh đã nhiệt tình tham gia, góp ý chân thành và tạo mọi điều kiện
thuận lợi giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện khóa luận này.
Cuối cùng xin được cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn
quan tâm và động viên tôi.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do giới hạn về thời gian, phạm vi đề
tài và năng lực của bản thân, nên khóa luận không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến bổ sung, đóng góp quý báu

của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hải Phòng, ngày 22 tháng 5 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Kiều Diễm
MỤC LỤC
Trang
3
4
BẢNG CHÚ THÍCH CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
STT KÍ HIỆU DIỄN GIẢI
1
2
3
4
NXBGD
NXBĐHSP
SGK TV 1
SGV
Nhà xuất bản Giáo dục
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
Sách giáo khoa Tiếng Việt 1
Sách giáo viên
5
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong xu hướng chung của thế giới, khi cuộc cách mạng khoa học phát
triển như vũ bão kéo theo những thay đổi lớn trong đời sống kinh tế – xã hội.
Khi thế giới đang bước vào thời đại toàn cầu hoá và phát triển bền vững,
ngành Giáo dục & Đào tạo đứng trước những thách thức và vận hội mới.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo trong thời kì
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã ghi rõ: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
giáo dục là nhằm xây dựng những con người thiết tha gắn bó với lí tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn
và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức
cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và
công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi, có tác
phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỉ luật, có sức khỏe; là những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời dặn của
Bác Hồ”.
Để đáp ứng mục tiêu phát triển của xã hội, trong những năm gần đây
đổi mới phương pháp dạy học, hướng đến nền giáo dục toàn diện luôn là vấn
đề được quan tâm. Giải pháp này nhằm thực hiện chuyển việc truyền đạt tri
thức thụ động (thầy giảng – trò ghi) sang hướng học chủ động, tư duy trong
quá trình tiếp cận tri thức (lấy người học làm trung tâm, dạy cho học trò
phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách chủ động và có hệ thống
nhằm phát triển năng lực của mỗi cá nhân). Do vậy, môn Tiếng Việt ở Tiểu
học nói chung và phân môn Kể chuyện nói riêng cũng không xa rời xu thế đổi
mới chung đó.
6
Ở Việt Nam, Tiểu học được xem là bậc học nền tảng trong hệ thống
Giáo dục quốc dân. Các môn học ở Tiểu học có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, hỗ trợ cho nhau. Trong đó, Tiếng Việt là môn học có vị trí vô cùng quan
trọng. Chương trình Tiếng Việt Tiểu học nhấn mạnh chủ trương: “Hình thành và
phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học
tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi”. Mỗi phân môn Tiếng
Việt đều rèn cho học sinh kĩ năng nói, trong đó Kể chuyện là phân môn học sinh

trực tiếp tham gia vào hoạt động giao tiếp một cách hứng thú nhất.
Kể chuyện là một phân môn khó đối với cả giáo viên và học sinh. Dạy Kể
chuyện không phải chỉ là dạy học sinh thuộc chuyện, đọc lại chuyện. Kể chuyện
vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết về đời sống và tạo điều kiện để học sinh
rèn luyện một cách tự nhiên các kĩ năng tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp, góp
phần khêu gợi tư duy hình tượng cho trẻ. Trên thực tế, học sinh Tiểu học thường
giàu trí tưởng tượng, cảm xúc và sáng tạo. Song, do các em còn nhỏ nên bộ
phận sáng tạo ở lứa tuổi này vẫn còn phiến diện, nghiêng về nhận thức cảm
tính, tư duy trừu tượng mới chỉ ở bước đầu phát triển. Bên cạnh đó chúng tôi
nhận thấy rằng, giáo dục Tiểu học hiện nay chưa thực sự chú trọng đến việc
hình thành kỹ năng sống cho trẻ em. Đó là những điều đáng tiếc khi cơ hội
của các em bị bỏ qua.Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để thúc đẩy quá trình
dạy học sao cho có hiệu quả, nhằm đáp ứng được nhu cầu nhận thức của học
sinh, khai thác và điều chỉnh kĩ năng sống – khả năng làm chủ bản thân, khả
năng ứng xử với người khác, với xã hội và khả năng ứng phó tích cực với các
tình huống trong cuộc sống, phát huy được tính tích cực tự giác của học sinh
Tiểu học hướng đến thực hiện mục tiêu “Học mà chơi, chơi mà học”.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi “Vận dụng phương pháp trò
chơi vào dạy học Kể chuyện cho học sinh lớp 3” nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của phân môn học.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở lứa tuổi Tiểu học, cùng với “học” thì “chơi” là một nhu cầu không
7
thể thiếu của học sinh. Dù không còn là hoạt động chủ đạo, song vui chơi vẫn
giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa lớn lao đối với các em. Có khá nhiều tác
giả đã đề cập tới việc sử dụng trò chơi trong dạy học. Tuy nhiên, vấn đề này
chỉ được đề cập ít ỏi trong giáo trình dành cho sinh viên ở các trường Sư phạm.
Việc nghiên cứu và vận dụng phương pháp trò chơi trong dạy học ở bậc Tiểu học
vẫn chưa nhận được sự quan tâm nghiên cứu thoả đáng của các nhà giáo dục.
Nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học Kể chuyện

cho học sinh lớp 3 là việc làm cần thiết nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
Trong đề tài, chúng tôi sẽ tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu để làm
sáng tỏ các vấn đề quan tâm. Sau đây, chúng tôi xin điểm qua những công
trình nghiên cứu, sách, tài liệu đề cập tới Kể chuyện và phương pháp dạy học
Kể chuyện.
1) Dạy văn cho học sinh Tiểu học. Hoàng Hòa Bình. NXBGD, 1998
[4]. Tác giả đưa ra được quan niệm dạy văn theo hướng đổi mới dựa trên cách
nhìn hiện đại về cảm thụ văn học, về trẻ em và sự sáng tạo, về cơ cấu tâm lí
của việc hình thành năng lực văn Đồng thời trình bày những nội dung cụ thể
về phương pháp dạy văn theo hướng đổi mới (quy trình dạy các phân môn:
Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn ). Vì dung lượng dành cho phân môn Kể
chuyện là rất ít (4 trang) tác giả chỉ đưa ra các bước tiến hành và một số điểm
cần lưu ý, chưa đưa ra được các biện pháp dạy học cụ thể.
2) Những thi pháp của truyện. Nguyễn Thái Hòa. NXBGD, 2000 [7].
Sách miêu tả những khái niệm cơ sở của Thi pháp học thể loại truyện ở góc
nhìn ngôn ngữ học. Những dẫn chứng hay ví dụ minh họa nhằm làm sáng tỏ
các khái niệm và trình bày các góc độ nghiên cứu, mà không đi sâu phân tích
một tác giả hay tác phẩm cụ thể nào.
3) Dạy học Kể chuyện ở trường Tiểu học. Chu Huy. NXBGD, 2000
[8]. Theo tác giả, nhu cầu kể chuyện đối với học sinh Tiểu học là rất lớn.
Cuốn sách này đã đề cập đến vấn đề dạy học kể chuyện từ lớp 1 đến lớp 5 và
xác định vị trí, nhiệm vụ quan trọng của phân môn Kể chuyện. Song, đây
8
không phải là một cuốn sách hướng dẫn cụ thể, sách không bổ sung phần
ngôn ngữ nói sinh động của các Truyện đọc hoặc sách giáo viên Tiếng Việt.
4) Giáo dục trẻ trong trò chơi. Đ.B Menđgieritxkaia. NXBGD, 1976
[5]. Tác giả đã lí giải và phân tích vai trò của hoạt động chơi, trên cơ sở
những kết quả nghiên cứu của mình Đ.B Menđgieritxkaia đã chỉ ra: chính
những trò chơi tạo ra vùng "cận phát triển", là điều kiện đầu tiên thuận lợi
nhất cho sự hình thành và phát triển nhân cách; "hoàn cảnh chơi" mang tính

tưởng tượng là con đường dẫn tới trừu tượng hoá; việc thực hiện các quy tắc
chơi là trường học rèn luyện các phẩm chất ý chí và phẩm chất đạo đức cho
trẻ. Đây là một công trình đi sâu nghiên cứu về mặt lí luận, chứ không đi sâu
về mặt thực tiễn.
5) Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. Lê Phương Nga –
Đặng Kim Nga. NXBGD, NXBĐHSP, 1999 [14]. Sách đề cập đến phương
pháp dạy học Kể chuyện trong chủ đề 8. Đối với chủ đề này, các tác giả đề
cập đến vị trí, nhiệm vụ, vai trò của dạy học Kể chuyện, nội dung chương
trình, biện pháp và cách tiến hành. Vì phạm vi đề cập đến khá rộng, bao quát
toàn bộ chương trình Kể chuyện ở Tiểu học, nên vấn đề chỉ mới dừng lại ở
mức sơ giản.
6) Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở Tiểu học. Lê
Phương Nga, NXBĐHSP [13]. Tác giả đề cập đến các vấn đề về bồi dưỡng
học sinh giỏi Tiếng Việt ở Tiểu học và đưa ra một số trò chơi có thể vận dụng
vào quá trình tổ chức dạy học Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học nói chung và
quá trình tổ chức dạy học Kể chuyện nói riêng.
7) Dạy và kể chuyện văn học ở vườn trẻ. M.K Mogoliupxkaia, v.v.
Septsenko. NXBGD, 1976 [11]. Tác giả đã đề cập đến vấn đề phương pháp,
những thủ thuật đọc và kể chuyện văn học cho trẻ em. Mặc dù, các vấn đề mà
tác giả đề cập đến là dành cho lứa tuổi mẫu giáo nhưng chúng tôi thấy những
vấn đề mà tác giả nêu cũng có những điểm tương đồng với học sinh Tiểu học.
9
Nhìn chung, nghiên cứu phương pháp dạy học Kể chuyện cho trẻ em
đã và đang được các nhà giáo dục quan tâm ở những bình diện khác nhau.
Song, chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến một cách đầy đủ và
tập trung về vận dụng phương pháp trò chơi nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động giao tiếp của học sinh trong giờ học Kể chuyện. Căn cứ vào chương
trình Sách giáo khoa và thực tế dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học hiện
nay, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu vận dụng phương pháp trò chơi vào
dạy học Kể chuyện cho học sinh lớp 3 là cần thiết. Vận dụng phương pháp

dạy học tích cực phù hợp với từng hoạt động dạy học Kể chuyện sẽ phát huy
được tính độc lập, sáng tạo của học sinh. Từ định hướng trên, chúng tôi chọn
đề tài “Vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học Kể chuyện cho học
sinh lớp 3”. Hi vọng đóng góp nhỏ bé của đề tài là những thể nghiệm có tính
khả thi cho quá trình đổi mới Phương pháp dạy học Kể chuyện ở trường Tiểu
học hiện nay. Đồng thời, cũng hi vọng kết quả nghiên cứu này sẽ là những
gợi ý giúp sinh viên sư phạm tiểu học và giáo viên trong việc dạy học Kể
chuyện cho học sinh Tiểu học.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài “Vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học Kể chuyện cho
học sinh lớp 3” góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn Kể chuyện lớp
3 nói chung và hình thành kỹ năng tự tin – bạo dạn trước đám đông cho học
sinh nói riêng. Đề tài tiến hành tổ chức dạy học nội dung này theo hướng tích cực
hoá hoạt động nhận thức của học sinh nhằm đạt hiệu quả dạy học cao hơn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, chúng tôi cụ thể hóa thành các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu những cơ sở của việc xây dựng đề tài.
- Vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học Kể chuyện cho học sinh
lớp 3.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính khả thi của đề tài.
10
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học Kể
chuyện cho học sinh lớp 3.
Phạm vi nghiên cứu: Dạy học Kể chuyện là một vấn đề rộng, trong quá trình
tổ chức dạy học phân môn này giáo viên có thể vận dụng nhiều phương pháp dạy
học khác nhau. Tuy nhiên, trong khuôn khổ thời gian có hạn chúng tôi chỉ tập trung
đi sâu nghiên cứu Vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học Kể chuyện cho học
sinh lớp 3. Các trò chơi học tập mà chúng tôi nêu ra nhằm hỗ trợ rèn cho học
sinh khả năng nói tốt, tư duy tốt theo hướng tích cực tạo cơ sở cho các em học tập

tốt các kiểu dạng bài Kể chuyện nâng cao ở lớp 4, 5.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành giải quyết các vấn đề đặt ra trong đề tài, chúng tôi sử dụng
những phương pháp sau:
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Tham khảo tài liệu, sách báo có liên quan đến việc tổ chức các hoạt
động dạy học Kể chuyện cho học sinh.
Tham khảo nội dung, phương pháp, hình thức dạy học Kể chuyện lớp 3.
6.2. Phương pháp quan sát, đàm thoại
Quan sát cử chỉ, điệu bộ, nét mặt của học sinh khi kể chuyện.
Trò chuyện, tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp để tìm hiểu
những khó khăn, nguyện vọng của học sinh trong quá trình rèn luyện từ đó
đưa ra biện pháp giải quyết phù hợp.
6.3. Phương pháp điều tra, khảo sát
Sử dụng phiếu điều tra để tìm hiểu:
- Thực trạng rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh ở những năm trước.
- Kết quả rèn kĩ năng kể chuyện của học sinh
- Những khó khăn, nguyện vọng khi rèn kĩ năng kể chuyện .
- Đánh giá của học sinh về phân môn Kể chuyện.
11
- Những quy định đặt ra cho học sinh và mức độ đạt được của học sinh
khi thực hiện các quy định đó.
6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Liên hệ trường sở tại đồng ý, thiết kế giáo án và tiến hành thực nghiệm
sư phạm để đánh giá tính khả thi của đề tài và biện pháp đưa ra nhằm nâng
cao hiệu quả rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh lơp 3.
7. Cấu trúc đề tài
Đề tài có cấu trúc gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm 3 chương:
- Chương 1: Những cơ sở của việc xây dựng đề tài.

- Chương 2: Vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy học Kể chuyện
cho học sinh lớp 3.
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
12
Chương 1
NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC XÂY DỰNG ĐỀ TÀI
1.1. Dạy học Kể chuyện
1.1.1. Khái niệm về kể chuyện
Kể là một động từ biểu thị hành động nói. Từ điển Tiếng Việt (Văn Tân
chủ biên) giải thích kể là nói rõ đầu đuôi, và nêu ví dụ: kể chuyện cổ tích. Khi
ở vị trí một thuật ngữ, kể chuyện bao hàm bốn phạm trù định nghĩa sau:
- Chỉ loại hình tự sự trong văn học (phân biệt với loại hình trữ tình, loại
hình kịch) – còn gọi là truyện hoặc tiểu thuyết.
- Chỉ tên một phương pháp nói trong diễn giảng.
- Chỉ tên một loại văn học thuật chuyện trong môn Tập làm văn.
- Chỉ tên một phân môn được học ở các lớp trong trường Tiểu học.
Theo Chu Huy, Dạy Kể chuyện ở trường Tiểu học, NXB Giáo dục,
2000: “Kể chuyện là kể lại sự việc đã xảy ra, có diễn biến, có nhân vật với
ngôn ngữ, tâm trạng, tính cách riêng”.
Như vậy, Kể chuyện là hình thức trình bày lại câu chuyện bằng lời kể
một cách hấp dẫn, sáng tạo, giàu ngữ điệu và sự phối hợp diễn xuất qua nét
mặt, cử chỉ, điệu bộ của người kể một cách tự nhiên, nhằm truyền cảm đến
người nghe.
1.1.2. Vai trò của kể chuyện
a. Trong đời sống
Nhu cầu hiểu biết khám phá thế giới là nhu cầu rất lớn của con người.
Con người không chỉ muốn biết những gì đang xảy ra hoặc sắp xảy ra, mà còn
muốn hiểu biết những gì đã xảy ra trong quá khứ (quá khứ gần, quá khứ xa và
rất xa trong lịch sử). Hàng ngày, do vô tình hay cố ý, ta được thông tin về đủ
mọi chuyện trong nhà, ngoài ngõ, rộng hơn là trong vùng, trong nước và trên

13
thế giới ngày nay hay ngày xưa. Từ những chuyện lớn, chuyện nhỏ ta nghe kể
từ tuổi ấu thơ bên bếp lửa của bà, đến những điều nghe thầy cô, bạn bè kể,
bình giảng ở trường, nhờ đó sự hiểu biết về thế giới và con người cứ tăng dần
lên theo năm tháng.
Thuở hồng hoang của lịch sử loài người cũng vậy. Những bộ tộc
nguyên thủy tập hợp lại ngày này sang tháng khác nghe kể cổ tích (kể khan
như người Tây Nguyên hiện nay), cúng mo (người Mường), sau này nghe
những người hát rong kể chuyện phiêu lưu, ma quái Ở Trung Quốc ngày
xưa có những người kể chuyện lấy tiền (thuyết thoại nhân) ở xó chợ, quán
xá Ở vùng sa mạc Tây á, Bắc Phi, những truyện kể suốt ngày này qua ngày
khác trên lưng lạc đà của các thương nhân, sau này thành bộ truyện cổ tích
Nghìn lẻ một đêm, những truyện trào tiếu dân gian thời Trung cổ ở Tây Âu
được nhiều người sưu tập lại, trong đó có những truyện trong sách của
Rabelais, Boccacio
Về sau, do nghề in ấn phát triển, lối kể bằng miệng được thay bằng
sách in phát hành khắp nơi và thể tiểu thuyết ra đời (ở Trung Quốc nghề in ấn
phát triển sớm hơn). Tiểu thuyết trở thành thể loại tự sự phổ biến rộng khắp
mà Hegel ví như là “anh hùng ca của tầng lớp thị dân”. Trong những thế kỉ
gần đây, những thành tựu tiểu thuyết thật vĩ đại với các tên tuổi: M.
Cervantes, G. Stendhal, G. Flaubert, V. Hugo, L. Tolstoi, F.Đostoievski, M.
Gorki, M. Solokhov ở châu Âu; La Quán Trung, Thi Nại Am, Tào Tuyết
Cần Ở châu Á. Tiểu thuyết đáp ứng đầy đủ các nhu cầu nhận thức, giáo
huấn của con người hiện đại. Kho tàng kể chuyện nói chung và tiểu thuyết nói
riêng là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Trước khi có
các phương tiện truyền thông hiện đại như phim ảnh, băng hình thì nhờ tiểu
thuyết mà con người có thể biết mọi chuyện từ quá khứ đến hiện tại, từ Đông
sang Tây và khám phá thế giới bên trong của con người một cách sinh động,
sâu sắc, cụ thể mà không một phương tiện nào có thể làm được.
14

Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng
ngôn ngữ. Mặc dù đã có những phương tiện thông tin đại chúng hiện tại như
ti vi, đài phát thanh, rađiô cát xét, người ta vẫn thích nghe nói chuyện bằng
miệng. Theo định nghĩa rộng, thuật ngữ “kể chuyện” có thể bao hàm toàn bộ
ngôn ngữ nói sinh hoạt hàng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: “Tiếng
nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu. Chúng ta phải biết quý
trọng nó, giữ gìn nó, phát triển nó”. Nhờ có tiếng nói và lao động mà con
người thoát hẳn khỏi đời sống động vật, vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ
xã hội, làm chủ thiên nhiên. Bầy người nguyên thủy quây quanh đám lửa trại
nướng thịt thú rừng, nướng quả hạt thường kể những truyện săn, bắt, hái,
lượm cho nhau nghe. Đó cũng là khởi đầu của sự tích lũy tri thức khoa học và
kể chuyện ở đây mang chức năng thông tin. Khi ngôn ngữ ngày càng phát
triển, số lượng từ cơ bản tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần ngày một
phong phú thì kể chuyện không chỉ dừng ở mức độ thông tin nữa mà mang
thêm chức năng giải trí, hay cao hơn nữa là chức năng nghệ thuật. Nhờ vậy
mà kho tàng đồ sộ truyện cổ dân gian hết sức giàu có, hết sức đa dạng được
truyền lại đến ngày nay bằng hình thức kể. Trải qua 10 thế kỉ Bắc thuộc, dân
tộc Việt Nam sở dĩ bảo toàn bản lĩnh và bản sắc dân tộc độc đáo, không bị
phong kiến phương Bắc xâm lược, đồng hóa thôn tính, một phần là nhờ ở
hùng khí những câu chuyện cổ. Chùm truyền thuyết về Âu Cơ, Lạc Long
Quân, về Hùng Vương, về Thánh Gióng, về Sơn Tinh Thủy Tinh, về An
Dương Vương, về bánh chưng bánh giầy, về An Tiêm đã nhem nhóm niềm
tin tất thắng về một tương lai của cả một dân tộc bị ngoại bang thống trị. Cho
đến năm 939, với chiến thắng của Ngô Quyền, dân tộc ta đã bẻ gãy cái vòng
xiềng xích “quận huyện” của bọn phong kiến nhà Hán. Ta lại là ta, ta là dân
tộc Việt Nam chứ không thể là ai khác. Chùm truyện cổ về háo khí dân tộc ấy
nhờ vậy mà được bảo tồn và phát triển mãi mãi bằng hình thức truyền miệng.
Trong một thời gian lịch sử lâu dài, khi đã có văn tự để ghi chép, in ấn rồi thì
15
kể chuyện vẫn còn tồn tại và tiếp tục phát triển song song với sự phát triển

của văn tự.
b. Trong học tập và tiếp nhận tác phẩm của học sinh
Trong học tập và tiếp nhận tác phẩm văn học kể chuyện đóng vai trò vô
cùng quan trọng với tư duy nhận thức của trẻ. Góp phần phát triển, hình thành
nhân cách, đem lại cho trẻ những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh. Bên cạnh đó
rèn cho các em kĩ năng nghe, nói, diễn đạt một vấn đề có sức thuyết phục.
Thích nghe kể chuyện là một đặc điểm của trẻ em. Từ thuở nhỏ, trẻ em
đã say mê nghe kể chuyện. Nhiều người không bao giờ quên những kỉ niệm
về các buổi tối nghe kể chuyện. Puskin từng tâm sự: “Buổi tối tôi nghe kể
chuyện cổ tích và lấy việc đó bù đắp những thiếu sót trong sự giáo dục đáng
nguyền rủa của mình. Mỗi truyện cổ tích ấy mới đẹp làm sao, mỗi truyện là
một bài ca”. Lớn lên các em đi học, biết chữ, có thể đọc được truyện nhưng
vẫn không giảm hứng thú nghe kể chuyện. Kể chuyện có sức mạnh riêng
trong việc giáo dục trẻ em, đem lại những cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh. Qua
đó, mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng cho các em.
Mặt khác, giờ Kể chuyện giúp phát triển ngôn ngữ nói của học sinh.
Các em học sinh Tiểu học thường mang tư duy trừu tượng, dâng cao cảm xúc
khiến trẻ ở lứa tuổi này có một sự thay đổi đáng kể là các em đã thay đổi hoạt
động sáng tạo bằng lời. Trong tiết Kể chuyện, ngôn ngữ được giáo viên và
học sinh sử dụng là ngôn ngữ nghệ thuật, tức là phải được chọn lọc, có tính
hàm súc, đáp ứng yêu cầu của quan điểm dạy học luyện nói theo chương trình
cải cách giáo dục. Học sinh trên cơ sở nắm được nội dung truyện, sau đó kể
lại, có thể sử dụng nhiều yếu tố phi ngôn ngữ để ghi dấu ấn riêng và thu hút
người nghe vào quá trình tái tạo câu chuyện. Qua giờ học Kể chuyện, học
sinh được rèn luyện rất nhiều kĩ năng: nghe, ghi nhớ, kĩ năng nói trước đám
đông, diễn tả điều muốn trình bày với lời lẽ gọn gàng, rành mạch, có ngữ
điệu, thuyết phục người nghe.
16
Từ những cơ sở lí luận trên, chúng tôi thấy việc dạy học Kể chuyện cho
học sinh lớp 3 đòi hỏi rất cao ở người giáo viên về cách thức tổ chức các hoạt

động dạy học và việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực ở phân môn
học này.
1.1.3. Vai trò của dạy học Kể chuyện
Kể chuyện là một phân môn của Tiếng Việt. Do đó, dạy học Kể chuyện
góp phần thực hiện mục tiêu dạy học Tiếng Việt đề ra.
a. Phân môn Kể chuyện phát triển kĩ năng tiếng Việt cho học sinh
Trước hết phân môn Kể chuyện phát triển kĩ năng nói cho học sinh.
Giờ Kể chuyện rèn cho học sinh kĩ năng nói trước đám đông dưới dạng độc
thoại thành đoạn bài theo phong cách nghệ thuật. Đồng thời với nói, các kĩ
năng nghe, đọc, kĩ năng ghi chép cũng được phát triển trong quá trình kể lại
truyện đã nghe, kể lại truyện đã học.
b. Phân môn Kể chuyện góp phần phát triển tư duy, đặc biệt là tư duy hình
tượng và cảm xúc thẩm mĩ ở học sinh
Cùng với sự rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ, tư duy cũng phát triển.
Đặc biệt, sống trong thế giới các nhân vật, thâm nhập vào các tình tiết của
truyện, tiếp xúc với nghệ thuật ngôn từ kể chuyện, tư duy hình tượng và cảm
xúc thẩm mĩ của học sinh cũng được phát triển.
“Truyện cổ tích gắn liền với cái đẹp góp phần phát triển các cảm xúc
thẩm mĩ mà thiếu chúng không thể có tâm hồn cao thượng, lòng mẫm cảm
chân thành trước nỗi bất hạnh, đau đớn và khổ ải của con người Truyện cổ
tích cung cấp cho trẻ em những biểu tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi
nghĩa”. Những truyện kể, truyện dân gian là một trong những hình thức nhận
thức thế giới của học sinh, giúp các em chính xác hóa những biểu tượng đã có
về thực tế xã hội xung quanh, từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới
và mở rộng kinh nghiệm sống cho học sinh. Những tác phẩm ấy giúp cho các
em xác lập một thái độ đối với các hiện tượng của đời sống xung quanh.
17
c. Phân môn Kể chuyện góp phần tích lũy vốn sống, vốn văn học cho học sinh
Giờ kể chuyện giúp học sinh tiếp xúc với tác phẩm văn học. Suốt 5
năm ở bậc Tiểu học, học sinh được nghe và tham gia kể hàng trăm câu

chuyện với đủ các thể loại. Đó là những tác phẩm có gái trị của Việt Nam và
thế giới, từ truyện cổ tích đến truyện hiện đại. Nhờ đó, vốn văn học của học
sinh được tích lũy dần. Đây là những hành trang quý sẽ theo các em trong
suốt cuộc đời mình.
Giờ kể chuyện còn mở rộng tầm hiểu biết, khêu gợi trí tưởng tượng cho
các em. Qua từng câu chuyện, thế giới muôn sắc màu mở rộng trước các em.
Các em tìm thấy ở trong truyện từ phong tục tập quán đến cảnh sắc thiên
nhiên, từ những thân phận và biết bao hành động nghĩa hiệp của con người
trong muôn vàn trường hợp khác nhau. Truyện kể đã làm tăng vốn hiểu biết
về thế giới, xã hội loài người xưa và nay của học sinh. Truyện còn chắp cánh
cho trí tưởng tượng và mơ ước của các em, thúc đẩy sự sáng tạo góp phần
hình thành và phát triển hoàn thiện nhân cách sống cho học sinh.
1.2. Phương pháp trò chơi
1.2.1. Phương pháp trò chơi
Theo Từ điển Tiếng Việt (Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2007)
định nghĩa: “Phương pháp là cách thức nghiên cứu, nhìn nhận các hiện tượng
của tự nhiên và đời sống xã hội ”.
G.henghen (1770 – 1883) cho rằng: “Phương pháp là hình thức vận
động của sự vật ”. Ta có thể hiểu mỗi sự vật đều có bản chất và được thể hiện
qua hình thức nhất định. Hình thức không bao giờ tồn tại tách rời nội dung,
chúng có phương pháp vận động của riêng mình.
Trong cuốn Giáo dục học (Phạm Viết Vượng. NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2001) có viết: “Phương pháp là hệ thống những hành động tự giác –
liên tiếp của con người nhằm đạt tới kết quả ứng với mục đích đã đề ra”.
18
Nói tóm lại: “Phương pháp chính là con đường, cách thức tiến hành
một việc gì đó”. Trong dạy học và giáo dục, “Phương pháp chính là con
đường, cách thức tiến hành hoạt động dạy học”. Đó là hình thức vận động của
một “hoạt động đặc thù”.
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt (Trung tâm Từ điển học xuất bản năm

2007) định nghĩa: “Trò chơi là hoạt động bày ra để vui chơi, giải trí ”.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người và lịch sử phát triển trò
chơi, các nhà Tâm lý học Xô Viết trước đây đã cho rằng: “Trò chơi là một
nghệ thuật xuất hiện sau lao động và là một hiện tượng mang tính chất xã hội,
là phương tiện chuẩn bị cho đứa trẻ làm quen với xã hội của người lớn”.
Theo cách hiểu chung của mọi người thì: “Trò chơi là một hoạt động
thường dùng để giải trí và đôi khi cũng được sử dụng như một công cụ giáo
dục”. Trò chơi còn là một hình thức dưỡng sinh của người lớn tuổi, giúp họ
thư giãn và vui vẻ…
Trong Giáo dục thì: “Trò chơi là một phương pháp giáo dục thực hành
hiệu nghiệm nhất đối với việc hình thành nhân cách – trí dục của trẻ em”.
Như vậy, phương pháp trò chơi là phương pháp dạy học trong đó giáo
viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh chủ động lĩnh hội tri thức, kĩ năng,
kĩ xảo thông qua việc trực tiếp tham gia các trò chơi học tập.
1.2.2. Phương pháp trò chơi có tác dụng kích thích hứng thú học tập cho
học sinh lớp 3
Đối với học sinh lớp 3, động cơ học tập của các em chưa thật bền vững,
còn thiên về cảm tính. Các em tham gia học tập do sự thích thú hấp dẫn của
bộ môn hoặc thầy, cô. Vì vậy, bên cạnh việc dạy học sinh kiến thức – kĩ năng,
các nhà giáo dục cần tạo cho các em nhưng giây phút thoải mái thông qua
việc nghe cô giáo kể chuyện, các em được đóng vai thành các nhân vật trong
truyện, tham gia thi kể cùng các bạn góp phần phát triển trí tưởng tượng,
khả năng sáng tạo và hợp tác.
19
Thực tế, hầu hết học sinh ở lứa tuổi này có sự hưng phấn về mặt cảm
xúc. Do vậy, khi được nghe cô giáo kể và hòa mình vào các nhân vật, sự hứng
thú, tò mò ở các em được kích thích. Khi có hứng thú học tập, học sinh sẽ yêu
thích phân môn Kể chuyện. Các câu chuyện có thể còn mới mẻ, khó nhớ đối
với các em nhưng dưới sự tổ chức và vận dụng khéo léo các phương pháp dạy
học tích cực của giáo viên thì hứng thú đó không bị giảm sút mà nó càng tăng

cao hơn. Các em được đóng vai thành các nhân vật trong truyện, được hoạt
động nhóm, được bày tỏ tình cảm của mình về các nhân vật và được tham gia
các trò chơi học tập. Thông qua những hoạt động này, trẻ được thoải mái thể
hiện năng khiếu của bản thân.
Bên cạnh đó, mỗi trò chơi học tập được lồng ghép trong bài học sẽ là
điều kiện tốt cho trẻ phát triển tư duy, tăng vốn hiểu biết, gần gũi với cuộc
sống xung quanh. Để từ đó, bồi dưỡng cho học sinh Tiểu học tình yêu thiên
nhiên, yêu con người và những bài học bổ ích rèn kĩ năng sống một cách tự
nhiên, thoải mái nhất.
1.3. Chương trình dạy học Kể chuyện cho học sinh lớp 3
1.3.1. Nội dung chương trình dạy học Kể chuyện trong SGK Tiếng Việt 3
Qua khảo sát chương trình SGK Tiếng Việt 3, chúng tôi nhận thấy các
truyện được chọn kể là các tác phẩm có giá trị của Việt Nam và thế giới, đều
có cốt truyện, có độ dài vừa phải, trọn vẹn về nội dung và hình thức của một
văn bản truyện, phù hợp với đặc điểm tâm lí và trình độ nhận thức của học
sinh lớp 3.
Nội dung chương trình được xây dựng theo chủ điểm của tuần học. Các
truyện có nội dung trong sáng, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, có tính giáo dục cao.
Mỗi câu chuyện đều mang đến cho các em những bài học bổ ích.
Ví dụ: Câu chuyện “Người mẹ” (TV3, tuần 4) nói về sự hi sinh cao cả
của bà mẹ đối với đứa con thân yêu, “vì con người mẹ có thể làm tất cả”…
Hay truyện “Hũ bạc của người cha” (TV3, tuần 15) khuyên chúng ta chỉ có
lao động chân chính mới làm ra được của cải lâu bền, “hũ bạc tiêu không bao
20
giờ hết chính là đôi bàn tay”…
Qua những câu chuyện đó các em biết ghét sự lười biếng và quý trọng
những người lao động chân chính. “Người con gái Tây Nguyên”,“Người liên
lạc nhỏ” là những câu chuyện giản dị nhưng cảm động về gương chiến đấu
hi sinh anh dũng để bảo vệ tổ quốc của những người con đất Việt. Những câu
chuyện cổ tích: “Sự tích chú Cuội cung trăng”,“Cóc Kiện trời”… như lời giải

thích nhẹ nhàng, dễ hiểu về những hiện tượng thiên nhiên xảy ra xung quanh
các em. Mỗi câu chuyện không đơn thuần chỉ là những lời khuyên bổ ích mà
còn giáo dục các em cách sống, cách ứng xử hợp đạo lí. Những câu chuyện ấy
thấm vào tâm hồn các em, bồi đắp thêm lòng yêu thương, hiếu thảo, tình đoàn
kết cho học sinh.
Qua việc tìm hiểu nội dung phân môn Kể chuyện trong SGK Tiếng
Việt 3, chúng tôi nhận thấy chương trình đã xây dựng toàn bộ nội dung tiết
Kể chuyện gắn liền sau tiết Tập đọc. Như vậy, trước khi học tiết Kể chuyện,
học sinh đã được luyện đọc và tìm hiểu kĩ câu chuyện nên tiết Kể chuyện
không mất nhiều thời gian tìm hiểu mà học sinh được rèn nhiều kĩ năng nghe,
nói. Hệ thống ngữ liệu phong phú với những câu chuyện của nhiều nước
thuộc các thể loại khác nhau: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn,
truyện cười Các truyện kể phản ánh nhiều nội dung khác nhau của cuộc
sống, gần gũi với lứa tuổi Tiểu học. Mỗi truyện đều có tác dụng giáo dục cho
học sinh một quy tắc đạo đức hay một đức tính nào đó.
Tuy nhiên, truyện “Hũ bạc của người cha”(TV3, tuần 14) được xếp
vào chủ điểm “Anh em một nhà” theo chúng tôi là chưa hợp lí. Ngoài những
truyện sáng tác có nội dung gần gũi, dễ hiểu với học sinh, vẫn còn một số
truyện có nội dung chưa hay, chưa hấp dẫn và khó kể, như câu chuyện “Ở lại
với chiến khu”,“Hội vật”. Điều này gây khó khăn cho các em khi luyện nói
trong giờ Kể chuyện.
21
1.3.2. Hệ thống bài tập Kể chuyện trong phân môn Kể chuyện lớp 3
Qua khảo sát, chúng tôi hệ thống bài tập Kể chuyện lớp 3 theo bảng sau:
Tập Tuần Bài tập Trang
1 1 Dựa vào tranh sau kể lại từng đoạn câu chuyện “Cậu bé
thông minh”
5
2 Dựa vào tranh sau kể lại từng đoạn câu chuyện “Ai có
lỗi” bằng lời của em

12
3 Dựa vào gợi ý dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện
“Chiếc áo len” theo lời của Lan
21
4 Phân vai (Người dẫn chuyện, bà mẹ, Thần Đêm Tối, bụi
gai, hồ nước, Thần Chết) dựng lại câu chuyện “Người
mẹ”
30
5 Dựa vào tranh sau, kể lại câu chuyện “Người lính dũng
cảm”
40
6 Sắp xếp lại các tranh dưới đây theo đúng thứ tự trong câu
chuyện “Bài tập làm văn”
Kể lại một đoạn câu chuyện bằng lời của em
47
7 Kể lại một đoạn của câu chuyện “Trận bóng dưới lòng
đường” theo lời một nhân vật
55
8 Kể lại câu chuyện “Các em nhỏ và cụ già” theo lời một
bạn nhỏ.
63
9 Ôn tập 69
10 Dựa vào tranh minh hoạ, hãy kể lại câu chuyện “Giọng
quê hương”
78
11 Sắp xếp lại các tranh dưới đây theo đúng thứ tự trong câu
chuyện “Đất quý, đất yêu”
Dựa vào tranh kể lại toàn bộ câu chuyện
86
22

12 Dựa theo các ý tóm tắt dưới đây, kể lại từng đoạn của câu
chuyện “Nắng phương Nam”
95
13 Tập kể lại một đoạn câu chuyện “Người con của Tây
Nguyên”
104
14 Dựa vào tranh sau, kể lại toàn bộ câu chuyện “Người liên
lạc nhỏ”
114
15 Sắp xếp lại các tranh dưới đây theo đúng thứ tự trong câu
chuyện “Hũ bạc của người cha”
Kể lại toàn bộ câu chuyện
122
16 Dựa vào gợi ý dưới đây kể lại toàn bộ câu chuyện“Đôi
bạn”
132
17 Dựa vào tranh sau, kể lại toàn bộ câu chuyện “Mồ Côi xử
kiện”
141
18 Ôn tập 148
2 19 Dựa vào tranh sau, kể lại từng đoạn câu chuyện “Hai Bà
Trưng”
6
20 Dựa theo gợi ý dưới đây, kể lại câu chuyện “Ở lại với
chiến khu”
15
21 Đặt tên cho từng đoạn câu chuyện “Ông tổ nghề thêu”
Kể lại một đoạn của câu chuyện
24
22 Phân vai, dựng lại câu chuyện “Nhà bác học và bà cụ”

(người dẫn chuyện, E-đi-xơn, bà cụ)
33
23 Dựa vào tranh sau, kể lại câu chuyện “Nhà ảo thuật bằng
lời của Xô-phi hoặc Mác”
42
24 Sắp xếp lại các tranh dưới đây theo đúng thứ tự trong câu
chuyện “Đối đáp với vua”
Kể lại toàn bộ câu chuyện
51
23
25 Dựa vào gợi ý dưới đây, em hãy kể lại từng đoạn truyện
“Hội vật”
59
26 Dựa vào tranh sau, em hãy đặt tên và kể lại từng đoạn
truyện “Sự tích lễ hội Chử Đồng Tử”
65
27 Ôn tập 71
28 Dựa vào tranh sau, kể lại toàn bộ câu chuyện “Cuộc chạy
đua trong rừng bằng lời của Ngựa Con”
82
29 Dựa vào tranh sau, kể lại toàn bộ câu chuyện “Buổi học
Thể dục” bằng lời của một nhân vật
90
30 Dựa vào gợi ý dưới đây, kể lại câu chuyện “Gặp gỡ ở
Lúc-xăm-bua” bằng lời của em
99
31 Dựa vào tranh sau, kể lại câu chuyện “Bác sĩ Y-éc-xanh”
theo lời của bà khách
107
32 Dựa vào tranh sau, kể lại câu chuyện “Người đi săn và

con vượn” theo lời của bác thợ săn
113
33 Dựa vào tranh minh hoạ, kể lại một đoạn câu
chuyện“Cóc kiện trời” theo lời của một nhân vật trong
truyện
124
34 Dựa vào gợi ý sau ,kể lại từng đoạn câu chuyện“Sự tích
chú Cuội cung trăng”
132
35 Ôn tập 137
Trong chương trình Tiếng Việt lớp 3, các bài Kể chuyện được dạy sau
mỗi tiết Tập đọc và chỉ chiếm nửa tiết. Vì thời lượng không nhiều nên bài tập
cho học sinh trong tiết Kể chuyện thường chỉ có một bài.
- Bài tập kể chuyện theo tranh minh hoạ.
+ Kể theo đúng thứ tự các tranh.
+ Sắp xếp tranh theo đúng thứ tự diễn biến của câu chuyện.
+ Kể lại từng đoạn.
24
+ Kể lại toàn bộ câu chuyện.
- Bài tập kể chuyện không có tranh minh họa.
+ Kể lại từng đoạn hoặc toàn bộ câu chuyện theo gợi ý bằng lời.
+ Đặt tên cho các đoạn rồi kể.
+ Phân vai dựng lại câu chuyện.
Nếu trong tiết học có hai bài tập thì đó là những kiểu bài đơn giản.
Ví dụ 1: Truyện “Bài tập làm văn” (SGK TV 3, tuần 6)
- Bài tập 1: Sắp xếp lại các tranh theo đúng thứ tự trong câu chuyện.
- Bài tập 2: Kể lại một đoạn câu chuyện bằng lời của em.
Ví dụ 2: Truyện “Đối đáp với vua” (SGK TV 3, tuần 24)
- Bài tập 1: Sắp xếp lại các tranh theo đúng thứ tự trong câu chuyện.
- Bài tập 2: Dựa vào tranh kể lại toàn bộ câu chuyện.

Việc lấy văn bản trong giờ Tập đọc làm ngữ liệu cho giờ Kể chuyện thể
hiện quan điểm tích hợp trong dạy học Tiếng Việt, giúp tiết kiệm được khá
nhiều thời gian, giảm bớt việc kiểm tra bài cũ, hướng dẫn tìm hiểu truyện
Do đó, giáo viên dành được nhiều thời gian tổ chức luyện tập – thực hành cho
học sinh. Mặt khác, các bài tập trong phân môn Kể chuyện không chỉ giúp
học sinh hình thành kĩ năng độc thoại mà còn hình thành cho các em cả kĩ
năng đối thoại.
- Về kĩ năng độc thoại: Học sinh kể lại câu chuyện đã đọc hay đã nghe
theo những mức độ khác nhau, cụ thể là:
+ Kể từng đoạn hoặc toàn câu chuyện.
+ Kể theo lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể theo lời nhân vật.
+ Kể một cách đầy đủ, trôi chảy, kể có điệu bộ và giọng diễn cảm.
- Về kĩ năng đối thoại: Học sinh tập dựng lại câu chuyện theo các vai
khác nhau, bước đầu biết sử dụng các yếu tố phụ trợ trong giao tiếp như: nét
mặt, cử chỉ, điệu bộ
Nhìn chung, các bài tập trong SGK TV3 được biên soạn với nhiều kiểu
bài khác nhau. Các bài tập này có nội dung khá phong phú và hình thức bài
25

×