Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái khu bảo tồn thiên nhiên pù hoạt – tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.42 KB, 58 trang )

Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu BTTN Pù Hoạt là đơn vị trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Nghệ An, cách TP Vinh 150 km về phía Tây Bắc. Khu BTTN Pù
Hoạt được chuyển đổi từ Ban quản lý rừng phòng hộ Quế Phong theo Quyết
định số 1109/QĐ-UBND, ngày 02/04/2013 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ
An. Diện tích được giao quản lý 90.701 ha, trong đó vùng lõi 36.226 ha,
vùng đệm 18.749 ha, vùng phòng hộ 35.726 ha. Theo Quyết định số
590/QĐ-UBND ngày 19/02/2014 về việc phê duyệt “Quy hoạch bảo tồn và
phát triển bền vững rừng đặc dụng Khu BTTN Pù Hoạt giai đoạn 2013-
2020” thì diện tích quản lý của Khu BTTN Pù Hoạt là 85.761,43ha, trong đó
rừng đặc dụng 34.589,89 ha, rừng phòng hộ 51.171,54 ha. Khu BTTN Pù
Hoạt còn có vai trò to lớn trong trong việc phòng hộ đầu nguồn. cung cấp
nước cho sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường, là đầu nguồn của 2 hệ
thống sông lớn là Sông Hiếu ở Nghệ An, Sông Chu ở Thanh Hóa, trong đó là
nguồn sinh thủy của các thủy điện Hủa Na, Sao Va, Bản Mồng, Cửa Đạt…
Khu BTTN Pù Hoạt từ xưa đã nổi tiếng là vùng có khu hệ động, thực
vật rừng rất phong phú và đa dạng. Trong đó có nhiều loài động thực vật
quý hiếm cần được bảo vệ, bảo tồn và phát triển nguồn gen. Là khu rừng đặc
dụng nằm trong “Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An” đã được
UNESCO công nhận ngày 20-9-2007. Có giá trị đa dạng hệ sinh thái và cảnh
quan, đa dạng loài và nguồn gen cao, đặc biệt có cây Sa mu dầu to lớn nhất
trong rừng tự nhiên, là biểu tượng không chỉ riêng cho Pù Hoạt mà cho cả
toàn bộ thực vật Việt Nam.
Pù Hoạt có nhiều địa danh nổi tiếng như Thác Sao Va, Thác Bảy Tầng,
Đền Chín Gian Những danh thắng này tạo nên một quần thể cảnh quan kì
vĩ cùng với nhiều bản sắc văn hóa dân tộc nên từ lâu, là nơi thăm quan du
lịch sinh thái lí tưởng cho du khách trong và ngoài nước. Mỗi năm, có hàng
ngàn lượt du khách trong và ngoài nước tới đây thăm quan, du lịch và tìm
hiểu thiên nhiên.
Khu BTTN Pù Hoạt vừa mới được thành lập, do đó rất cần thiết và cấp


bách phải lập các quy hoạch, dự án để định hướng hoạt động bảo tồn và phát
triển bền vững các loài động- thực vật rừng đặc hữu quí hiếm, cũng như làm
cơ sở để xây dựng các dự án đầu tư nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác bảo
tồn thiên nhiên, nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái, phòng hộ, phát triển
kinh tế xã hội vùng đệm, khai thác hiệu quả về tiềm năng du lịch sinh thái,
du lịch tâm linh, nơi nghỉ dưỡng kết hợp giáo dục môi trường phù hợp với
tình hình thực tiễn và yêu cầu của chiến lược quản lý hệ thống các khu rừng
đặc dụng Việt Nam.
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 1
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
Vì vậy, việc đánh giá tiềm năng du lịch nhằm khai thác và phát triển du
lịch sinh thái của Khu BTTN Pù Hoạt phù hợp với xu thế phát triển chung, là
cơ sở lập quy hoạch phát triển du lịch sinh thái nhằm đáp ứng mục tiêu bảo tồn
đa dạng sinh học, phát triển kinh tế - xã hội của khu vực. Vì vậy, Ban quản lý
Khu BTTN Pù Hoạt đã phối hợp cùng Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp
Nghệ An điều tra, khảo sát lập Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái của
Khu BTTN Pù Hoạt. Nội dung báo cáo gồm các phần sau:
Phần thứ nhất: Tổng quan vấn đề nghiên cứu.
Phần thứ hai: Đánh giá điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
Phần thứ ba: Mục tiêu, Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Phần thứ tư: Kết quả nghiên cứu
Phần thứ năm: Kết luận và kiến nghị
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 2
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
Phần 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Du lịch sinh thái được coi là một trong những cách thức vừa hỗ trợ bảo
tồn đồng thời Phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Tại hội nghị các
Vườn Quốc gia thế giới lần thứ V do IUCN tổ chức đã khẳng định “Du lịch

sinh thái ở trong và ngoài khu bảo tồn là một phương pháp bảo tồn: hỗ trợ, tăng
cường nhận thức về các giá trị quan trọng của Khu bảo tồn như giá trị sinh thái,
văn hóa, tinh thần, thẩm mỹ, giải trí và kinh tế; đồng thời tạo thu nhập phục vụ
bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học, hệ sinh thái và di sản văn hóa. Du lịch sinh
thái cũng đóng góp nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng bản địa”.
Du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo
tồn và phát triển bền vững. Ở Costa Rica và Nê Pan, Thái Lan… một số chủ
trang trại chăn nuôi đó bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, do
bảo vệ rừng mà họ đó biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt
động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc
làm mới cho dân địa phương.
Ở Ecuado sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galapze để
giúp duy trì toàn bộ mạng lưới vườn quốc gia. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái
trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở
nông thôn, những người da đen này ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt
động du lịch sinh thái.
Chính phủ Nhật Bản cũng tích cực khuyến khích phát triển du lịch sinh
thái với những chính sách rõ ràng, thành lập các đơn vị chuyên trách và các quỹ
nhằm duy trì và phát triển nghành Du lịch hướng tới thiên nhiên để tăng cường
công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia. Theo báo cáo về xu
hướng du lịch của khách du lịch Nhật Bản do Công ty giao thông Nhật Bản
thực hiện vào năm 2004, loại hình du lịch được khách du lịch Nhật Bản ưa
thích nhất là du lịch tắm suối nước nóng (chiếm 57,9 %). Xếp thứ 2 là du lịch
hướng tới thiên nhiên (45,7%). Nhận thức về du lịch sinh thái của người dân
cũng cải thiện rõ rệt trong những năm gần đây.
Hector Ceballos Lascurain- một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch
sinh thái, định nghĩa DLST lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: "Du lịch sinh
thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với
những mục tiêu đặc biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 3

Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
và giới động-thực vật hoang dã, cũng như những biểu thị văn hoá (cả quá khứ
và hiện tại) được khám phá trong những khu vực này. Năm 1994 nước Úc đã
đưa ra khái niệm “DLST là Du lịch dựa vào thiên nhiên, có liên quan đến sự
giáo dục và diễn giải về môi trường thiên nhiên được quản lý bền vững về mặt
sinh thái. Theo Hiệp hội DLST Hoa Kỳ, năm 1998 “DLST là du lịch có mục
đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của
môi trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có cơ
hội để phát triển kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính
cho cộng đồng địa phương”. Một định nghĩa khác của Honey (1999) “DLST là
du lịch hướng tới những khu vực nhạy cảm và nguyên sinh thường được bảo vệ
với mục đích nhằm gây ra ít tác hại và với quy mô nhỏ nhất. Nó giúp giáo dục
du khách, tạo quỹ để bảo vệ môi trường, nó trực tiếp đem lại nguồn lợi kinh tế
và sự tự quản lý cho người dân địa phương và nó khuyên kích tôn trọng các giá
trị về văn hóa và quyền con người. Theo Hiệp hội Du lịch sinh thái (The
Internatonal Ecotourism society) thì “DLST là du lịch có trách nhiệm với các
khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân
địa phương”. Nghiên cứu về những yêu cầu cơ bản đối với phát triển du lịch
sinh thái tại các khu BTTN và VQG, theo Drumm thì những yếu tố dưới đây có
vai trò quyết định đối với việc tổ chức thành công hoạt động DLST là:
- Ít gây ảnh hưởng tới tài nguyên thiên nhiên của KBTTN và VQG
- Thu hút sự tham gia của các cá nhân, cộng đồng, khách DLST, các nhà
điều hành tour và các cơ quan tổ chức phi chính phủ.
- Tôn trọng văn hóa truyền thống địa phương.
- Tạo thu nhập lâu dài và bình đẳng cho cộng đồng địa phương và cho
các bên tham gia khác, bao gồm cả những nhà điều hành tour tư nhân.
- Tạo nguồn tài chính cho công tác bảo tồn của KBTTN
- Giáo dục những người tham gia về vai trò của họ trong công tác bảo
tồn.
Theo Tổ chức du lịch thế giới (WTO) nguyên tắc phát triển du lịch sinh

thái là:
- Phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi, tham quan giải trí, khám phá tìm hiểu tự
nhiên và con người. Đây chính là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động DLST.
- Hỗ trợ công tác bảo tồn tài nguyên du lịch sinh thái nói riêng và tài
nguyên ở các VQG, KBT nói chung. Cụ thể là DLST phải được tổ chức có tính
khoa học, có tính giáo dục môi trường cao, đồng thời đem lại lợi nhuận tái phục
vụ cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
- Hỗ trợ kinh tế, tạo thêm những lợi ích kinh tế lâu dài cho cộng đồng
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 4
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
dân địa phương, những người có quyền quyết định cho sự phát triển VQG và
trong công tác hoạch định du lịch.
Xuất phát từ những vấn đề trên chúng ta có thể thấy, nếu các hoạt động
du lịch mà không đáp ứng được các tiêu chí trên thì không thể xem là DLST.
* Kinh nghiệm phát triển DLST tại một số VQG và khu BTTN trên thế
giới:
- DLST ở VQG Galapagos
Vườn Quốc gia Galapagos ở Equado không chỉ là một VQG mà còn là
một di sản thế giới, một khu dự trữ sinh quyển, và giời đây còn là một khu dự
trữ sinh thái biển. Về mặt vị trí thì VQG Galapagos nằm tách khỏi lục địa, có
môi trường phù hợp cho các loài sinh vật thích nghi như Rùa, Kỳ đà, Chim sẻ,
Xương rồng khổng lồ và họ hàng Hướng dương, Chim cốc không bay, Chim
bói cá và nhiều giống động thực vật khác.
Galapagos có lẽ là một trong những nơi thuận lợi nhất trên thế giới để
nghiên cứu về tiến hóa của hệ sinh thái. Được thưởng thức những quang cảnh
đại dương, ven biển và đất liền. Nơi động vật hoang dã đã tiến hóa và như
không có chút sợ hãi nào đối với con người đây chính là một cảm giác thật khó
so sánh.
Khác với các VQG khác ở Equado và các nước Châu Mỹ la tinh khác,
nơi có thể có người sống hợp pháp hoặc không hợp pháp trong phạm vi được

bảo vệ, người dân ở Galapagos không được pháp sống trong VQG. Họ tập
trung ở khoảng 4% diện tích của quần đảo trên đất thuộc sở hữu tư nhân. Hầu
hết khách tham quan từ đất liền đi bằng máy bay đến các đảo, sau đó đi thăm
thú bằng các tua du lịch được thiết kế sẵn.
Sau mười năm đầu kể từ khi đón khách, chiến lược quản lý và hỗ trợ
quản lý đầu tiên của VQG được thực hiện tương đối suôn sẻ với một số lượng
nhỏ du khách và phát triển liên tục trong nhưng năm 1970. Từ ban đầu có 7000
khách tham quan đến năm 1973 là 12.000 khách, năm 1981 là 2.500 khách và
năm 1989 đã thu hút gần 42.000 khách. Sau đó, sự sa sút của nền kinh tế khu
vực đã dẫn đến việc giảm ngân sách của dịch vụ DLST ở VQG Galapagos.
Nhưng với những biện pháp hữu hiệu cộng với sự hỗ trợ nỗ lực của các tổ chức
quốc tế như Ngân hàng thế giới, Quỹ môi trường toàn cầu đã làm vực lại sự
phát triển DLST ở đây.
Chuyến du lịch truyền thống ở đây là một chuyến đi chơi biển bằng tàu
thủy kéo dài một tuần đến các điểm du lịch khác nhau. Những năm gần đây
Galapagos phải tiếp ngày càng tăng lượng khách tới thăm, các nhà điều hành đã
rất linh hoạt, ngoài tour Du lịch truyền thống thì họ đã tổ chức các tour ngắn
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 5
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
ngày hơn, thậm chí là 1 ngày, để phù hợp hơn với các đối tượng khách khác
nhau. Nhìn chung các hoạt động đã đem lại lợi nhuận cao cho VQG Galapagos
và cộng đồng người dân ở đây. Hiện có 6 du thuyền, bốn tàu thủy (chở được từ
34 người đến 90 người), 75 thuyền máy lớn và 10 thuyên buồn những năm
gần đây nhu cầu cấp phép hoạt động thuyền du lịch ở đây là rất lớn, đã có nhiều
bất cập xảy ra trong hoạt động này song Ban quản lý VQG và chính phủ
Equador đã có những điều chỉnh kịp thời nhằm hạn chế phù hợp số lượng
thuyền hoạt động. Với nguồn thu 40 USD lệ phí vào VQG và nguồn phí từ các
hoạt động của các nhà điều hành du lịch được dùng để phục vụ cho các hoạt
động của Vườn và hỗ trợ các hoạt động bảo tồn ở các khu bảo tồn khác ở
Equador, đây là những đóng góp đáng kể mà không phải các VQG khác trên

thế giới làm được. Hiện nay thì Galapagos đang được coi là mỏ vàng của
Equador.
- Một số kinh nghiệm của việc phát triển DLST ở VQG Galapagos:
+ Các hoạt động dịch vụ VQG đã được tổ chức tập huấn cẩn thận và
được cấp chứng nhận cho các hướng dẫn viên, các hướng dẫn viên này sẽ đi
cùng với tất cả các đoàn tham quan, vừa đóng vai trò hướng dẫn vừa kiểm soát
các hoạt động không tốt cho môi trường của khách du lịch.
+ Phương tiện tham quan là đa phần bằng thuyền, các dịch vụ ăn nghỉ
điều ở trên thuyền phần nào đã giảm tác động vào các khu vực tham quan của
khách. Khu tham quan thường ngắn và có ranh giới rõ ràng. Các hành trình của
chuyền tham quan điều được cố định và không được vào các khu vực chưa bị
xâm nhập của các loài nhập nội.
+ Các phương tiện hoạt động dịch vụ ở VQG điều kiểm soát và cấp phép
khá chặt chẽ.
+ Các hoạt động của VQG điều được phân vùng quản lý và có chiến lược
quản lý các hoạt động DLST.
- Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ những mô hình Du lịch Sinh
thái ở các VQG trên thế giới.
Qua việc tìm hiểu hoạt động DLST ở các VQG và khu BTTN trên thế
giới, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm khi tiến hành hoạt động DLST ở
các khu rừng đặc dụng của Việt nam nói chung và Khu BTTN Pù Hoạt nói
riêng.
- Du lịch sinh thái phải được nhận thức một cách đầy đủ, phải được xem
là công cụ thiết thực trong việc bảo tồn và phát triển bền vững, bảo tồn để phát
triển, phát triển không đe dọa đến lợi ích của các thế hệ mai sau.
- Cần thay đổi quan niệm của mọi người về bảo tồn và phát triển. Giáo
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 6
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
dục tuyên truyền để nâng cao nhận thức của các đối tượng trực tiếp hoặc gián
tiếp sử dụng tài nguyên đến các tầng lớp nhân dân.

- Tại các khu rừng đặc dụng, du lịch sinh thái vẫn mới mẻ và có vị trí
độc lập. Chính vì thế trong việc đánh giá tài nguyên, nghiên cứu thị trường,
chiến dịch quảng bá, chia sẻ lợi ích cộng đồng, phát triển chuỗi giá trị, đào tạo
nhân lực, chính sách đầu tư phát triển cũng cần có phương pháp tiếp cận
riêng.
- Cần có cơ chế quản lý phù hợp trong đó có sự tham gia của người dân
địa phương để có thể quản lý tài nguyên và hoạt động du lịch hiệu quả. Đảm
bảo tính thống nhất giữa các cơ quan quản lý. Quản lý chặt chẽ việc cấp phép
xây dựng và hoạt động của các cơ sở dịch vụ DLST, tránh tình trạng xây dựng
ồ ạt, lấn chiếm đất, phá vỡ cảnh quan tự nhiên và làm mất cân đối cung cầu
trong vùng dự án.
- Cần có chính sách phù hợp nhằm phân phối rộng rãi hơn thu nhập du
lịch. Thu nhập du lịch phải được sử dụng để duy trì hoạt động du lịch và phát
triển cộng đồng địa phương, tránh tình trạng thu nhập chỉ tập trung vào một
nhóm nhỏ, còn đa số người dân địa phương không được hưởng lợi gì từ việc
phát triển DLST.
- Diễn giải và giáo dục môi trường là không thể xem nhẹ mà cần phải
quan tâm đầu tư đúng mức, nếu không sẽ đi chệch mục tiêu và trái nguyên tắc
du lịch sinh thái, có thể nó không trực tiếp đem lại lợi ích kinh tế.
- Nghiên cứu về tài nguyên DLST
Tài nguyên DLST là cơ sở để triển khai và khai thác các loại hình DLST.
Nghiên cứu về tài nguyên du lịch sinh thái trên thế giới đã từng bắt đầu từ
những năm 50 của thế kỷ 20. Từ trước những năm 80 của thế kỷ 20, tài nguyên
du lịch sinh thái được định nghĩa là những khu cảnh quan thiên nhiên đẹp có
sức hấp dẫn du lịch và sự hấp dẫn đó được đánh giá chủ yếu thông qua khả
năng chi trả tự nguyện của du khách thông qua tiền vé tham quan. Du khách đi
du lịch tại những khu cảnh quan thiên nhiên đẹp chủ yếu là để ngắm cảnh, giải
trí và thư giãn sau những ngày làm việc căng thẳng.
Theo Clawson và Knelsch(1985) thì tài nguyên DLST lấy hệ sinh thái tự
nhiên làm trọng tâm, việc khai thác loại hình tài nguyên này cho mục đích du

lịch phải nhấn mạnh đến công tác bảo vệ môi trường tự nhiên và gắn liền với sự
phát triển bền vững về kinh tế xã hội của khu vực. Trên quan điểm này, những
nơi có thể khai thác phát triển du lịch sinh thái chủ yếu là những khu bảo tồn
thiên nhiên, công viên rừng, khu danh lam thắng cảnh, các khu vườn động, thực
vật.
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 7
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
Theo Lindberg (1991), nếu xét về phạm trù tài nguyên DLST thì tài
nguyên DLST gồm tài nguyên DLST tự nhiên và tài nguyên DLST nhân văn,
nếu xét trên cơ sở nguyên nhân hình thành thì tài nguyên DLST được phân
thành phần tài nguyên DLST nguyên sinh và tài nguyên DLST thứ sinh; còn
nếu xét trên cơ sở động cơ đi du lịch thì tài nguyên DLST gồm loại tài nguyên
DLST nghỉ dưỡng, tài nguyên DLST thám hiểm, tài nguyên DLST rèn luyện
sức khỏe và loại hình tài nguyên DLST phong cảnh.
Theo Yuan Shu Qi (2004), dựa trên đặc điểm phân bố của tài nguyên
DLST trong không gian đã phân tài nguyên DLST thành 5 loại hình tài nguyên
gồm: tài nguyên DLST đồi núi, tài nguyên DLST biển, tài nguyên DLST sông
hồ, tài nguyên DLST đất ngập nước, tài nguyên DLST thảo nguyên.
Qua một số quan điểm về tài nguyên DLST nói trên, có thể thấy nhận
thức về tài nguyên DLST vẫn còn có những điểm chưa thống nhất. Song đa số
đều đề cập đến các vấn đề về tài nguyên thiên nhiên.
Theo quan điểm của chúng tôi, thì tài nguyên DLST ở đây không chỉ đơn
thuần là tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn mà nó bao hàm tất cả
các nhân tố sinh thái và hiện tượng sinh thái như chuỗi thức ăn, tính đa dạng
sinh học, sự biến đổi cảnh quan theo thời tiết có khả năng hấp dẫn du lịch.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1. Tổng quan về hệ thống Khu bảo tồn Việt Nam
Thuật ngữ “Rừng đặc dụng” là tên gọi chung cho các Khu bảo tồn thiên
nhiên, VQG của Việt Nam được thiết lập ở các hệ sinh thái rừng. Lịch sử xây
dựng hệ thống các khu rừng đặc dụng của Việt Nam đã có chiều dài trên 40

năm kể từ ngày thành lập Khu rừng cấm Cúc Phương (hiện nay là Vườn quốc
gia Cúc Phương) – Khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam. Tuy vậy,
do hoàn cảnh chiến tranh và đất nước gặp nhiều khó khăn sau chiến tranh nên
quá trình này bị gián đoạn và tiến triển chậm (Viện ĐTQHR, 1998). Có thể
chia lịch sử xây dựng hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam thành 2 giai đoạn
lớn như sau: 1962 -1986 và 1987 đến nay.
- Giai đoạn từ 1962 đến 1986:
Đây là giai đoạn điều tra khảo sát lựa chọn địa điểm và xây dựng các khu
rừng đặc dụng cũng như bước đầu xây dựng qui chế quản lý rừng đặc dụng ở
nước ta. Ngày 7/7/1962, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 72/TTg thành
lập Khu rừng cấm Cúc Phương bắt đầu cho thời kỳ điều tra khảo sát xây dựng
hệ thống rừng đặc dụng ở Việt Nam. Trong những năm từ 1962-1975, do miền
Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ chiếm đóng nên công tác điều tra khảo sát chỉ tiến
hành ở phía Bắc Việt Nam. Có 9 khu rừng cấm được để xuất thành lập trong
giai đoạn này.
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 8
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
Sau ngày giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước (1975) công tác
điều tra, khảo sát xây dựng hệ thống rừng đặc dụng quốc gia được mở rộng trên
toàn quốc. Ngày 24/1/1977, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 41/TTg
thành lập thêm 10 khu rừng cấm, trong đó có 3 Khu bảo tồn thiên nhiên và 7
khu Văn hoá-Lịch sử: Đền Hùng, Pắc Pó, Bắc Sơn (Mỏ Rẹ), Tân Trào (Núi
Hồng), Đảo Ba Mùn, Ba Bể, Ba Vì, Núi Tam Đảo, Bán đảo Sơn Trà và Khu
rừng thông TP. Đà Lạt. Tiếp đó, ngày 7/7/1978, Thủ tướng Chính phủ ký
Quyết định số 41-TTg thành lập Khu rừng cấm Nam Bãi Cát Tiên. Giai đoạn
này, khái niệm về hệ thống rừng đặc dụng ở nước ta còn rất đơn giản. Tất cả
được gọi chung dưới tên “Rừng cấm” với 2 loại hình là: Khu bảo tồn thiên
nhiên và Khu Văn hoá-Lịch sử. Các qui chế quản lý tập trung chủ yếu vào việc
ngăn cấm sự tiếp cận của người dân địa phương đến tài nguyên thiên nhiên của
các khu rừng cấm. Điều 3, Quyết định số 41-TTg, ngày 24/1/1977 của Thủ

tướng Chính phủ về việc quy định các khu rừng cấm ghi:
“ Việc quản lý, bảo vệ rừng và xây dựng các khu rừng cấm phải theo
những nguyên tắc sau đây:
- Không được làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của rừng cấm. Muốn xây
dựng các công trình lớn trong khu vực rừng cấm phải được phép của Thủ
tướng Chính phủ.
- Không được khai thác, chặt hạ, săn bắt, gây tiếng ồn hoặc làm bất cứ
công việc nào khác có hại đến điều kiện sinh sống và phát triển bình thường
của các loài động vật, thực vật trong rừng cấm.
- Không được đốt lửa hoặc làm ô nhiễm môi trường trong các khu rừng
cấm. Những trường hợp cần thiết phải chặt hạ cây cối, săn bắt lấy tiêu bản
động vật, thực vật, hoặc đốt lửa dùng cho sinh hoạt trong rừng cấm phải do Bộ
trưởng Bộ Lâm nghiệp xét và quyết định. Bộ Nông nghiệp phải có kế hoạch
trồng thêm cây và gây thả phục hồi số lượng các loài chim, thú trong các khu
rừng cấm”.
Từ năm 1983, việc xây dựng các khu rừng đặc dụng được quan tâm nhiều
hơn. Hàng loạt các khu rừng đặc dụng được khảo sát và đề xuất. Khu rừng cấm
Côn Đảo ra đời ngày 01/03/1984 theo Quyết định 85-CT của Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng. Ngày 9/8/1986, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 194-
CT công nhận 73 khu rừng đặc dụng với tổng diện tích là 769.512 ha, đưa hệ
thống rừng đặc dụng của nước ta lên 86 khu với tổng diện tích gần một triệu héc
ta.
Đến thời kỳ này khái niệm về rừng đặc dụng của nước ta cũng đã có
những bước tiến đáng kể. Thuật ngữ “Rừng cấm” được thay thế bằng thuật ngữ
“Rừng đặc dụng” thể hiện có những thay đổi trong nhận thức về bản chất của
các khu rừng này. Ngày 30/12/1986, Bộ Lâm nghiệp (cũ) đã ra Quyết định số
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 9
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
1171 ban hành “Quy chế quản lý rừng đặc dụng”. Văn bản này lần đầu tiên đưa
ra định nghĩa và xác định rõ chức năng, tiêu chuẩn lựa chọn của 3 loại hình

phân loại rừng đặc dụng của Việt Nam:
“Định nghĩa và chức năng: Rừng đặc dụng là một thành phần của vốn
rừng quốc gia, được xây dựng nhằm các mục tiêu sau đây:
- Bảo tồn các mẫu sinh cảnh rừng khác nhau.
- Bảo tồn nguồn gen động vật và thực vật rừng.
- Bảo tồn các khu rừng có giá trị về cảnh quan, văn hoá, lịch sử và bảo
vệ sức khoẻ.
- Nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo.
Phân loại và phân cấp quản lý: Rừng đặc dụng do ngành Lâm nghiệp thống
nhất quản lý và được phân loại, phân cấp quản lý như sau:
1. Vườn quốc gia: là khu bảo vệ có giá trị sử dụng toàn diện về các mặt
bảo vệ thiên nhiên, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích văn hoá, phục vụ tham
quan du lịch. Các Vườn quốc gia do Bộ Lâm nghiệp quản lý và xây dựng.
2. Khu bảo tồn thiên nhiên: là khu bảo vệ có giá trị khoa học, giữ nguồn
gen động vật và thực vật, có thể mở cho nghiên cứu khoa học, nhưng không mở
rộng cho việc phục vụ du lịch hoặc các nhu cầu văn hoá khác. Các Khu bảo
tồn thiên nhiên tuỳ theo diện tích, tính chất quan trọng do Bộ Lâm nghiệp
quản lý hoặc do UBND tỉnh chịu trách nhiệm quản lý và xây dựng. Riêng các
Khu bảo tồn thiên nhiên nằm trong các Liên hiệp lâm nông công nghiệp do
ngành Lâm nghiệp chịu trách nhiệm quản lý và xây dựng.
3. Khu rừng Văn hoá- Lịch sử- Môi trường: là khu rừng có các di tích lịch
sử, văn hoá và cảnh quan có giá trị thẩm mỹ hoặc bảo vệ môi trường, có tác
dụng phục vụ tham quan du lịch, giải trí, nghỉ ngơi. Các khu rừng do Bộ Lâm
nghiệp thống nhất quản lý và tuỳ theo diện tích và tính chất mà có thể giao cho
các ngành có liên quan quản lý xây dựng.
Tiêu chuẩn để chọn các khu rừng đặc dụng: có 4 tiêu chuẩn để chọn như
sau:
- Khu vực còn rừng nguyên sinh hoặc ít bị tàn phá, đại diện cho các hệ
sinh thái rừng khác nhau của nước ta.
- Khu rừng hiện đang là nơi sinh trưởng của các loài động thực vật có

giá trị về khoa học và kinh tế.
- Khu rừng có các di tích lịch sử hoặc văn hoá đã được Nhà nước xếp
hạng.
- Khu rừng có phong cảnh đặc sắc, có tác dụng bảo vệ môi trường vui
chơi, giải trí phục vụ các trung tâm dân cư lớn, nơi nghỉ mát hoặc các vùng
công nghiệp.”
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 10
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
- Giai đoạn từ 1987 đến nay
Trong giai đoạn này, công tác xây dựng rừng đặc dụng được đẩy mạnh,
với sự quan tâm cao hơn của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa
phương, sự tham gia tích cực của các nhà khoa học trong và ngoài ngành lâm
nghiệp và đặc biệt là sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên
nhiên như: Quỹ Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF), Hiệp hội Bảo vệ Thiên
nhiên Thế giới (IUCN), Tổ chức Birdlife Quốc tế, Tổ chức Bảo tồn Động thực
vật Quốc tế (FFI), Nhiều chính phủ và tổ chức phi chính phủ cũng đã giúp đỡ
về vồn, kỹ thuật và chuyên gia cho công tác xây dựng và phát triển hệ thống
rừng đặc dụng của Việt Nam (Viện ĐTQHR, 1998). Vì vậy, nhiều Khu bảo tồn
lần lượt được xây dựng hoặc củng cố như Vườn quốc gia (VQG) Yok Đôn
(1991), VQG Tràm Chim (1994), Khu bảo tồn đất ngập nước Xuân Thuỷ
(1994), Đến tháng 11/1997, hệ thống rừng đặc dụng của nước ta đã bao gồm
92 khu với tổng diện tích là 1.928.979 ha. Trong đó, có 10 vườn quốc gia, 56
Khu bảo tồn thiên nhiên và 26 khu Văn hoá- Lịch sử- Môi trường.
Tuy nhiên, hệ thống rừng đặc dụng trong thời kỳ này còn có nhiều khiếm
khuyết cần khắc phục như: tỷ lệ diện tích rừng đặc dụng so với diện tích rừng
của cả nước còn thấp, đa số các khu có diện tích nhỏ, diện tích đất không có
rừng (trảng cỏ, trảng cây bụi, đất canh tác nông nghiệp) chiếm tỷ lệ lớn trong
các Khu bảo tồn, tỷ lệ rừng thường xanh và các hệ sinh thái khác nhau được
bảo vệ trong các khu rừng chưa cân đối, các khu rừng đặc dụng thường được
thành lập ở những vùng có độ cao lớn, một số loài có nguy cơ bị tiêu diệt trên

toàn cầu còn chưa được thiết lập Khu bảo tồn, (Wege et al, 1999). Vì vậy,
trong những năm 1977-1978, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đề
xuất phương án cải tiến qui hoạch phát triển hệ thống rừng đặc dụng của nước
ta (Viện ĐTQHR, 1998). Kết quả là một số khu được mở rộng hoặc chuyển
hạng, nhiều khu mới được đề xuất thành lập và hệ thống phân hạng cũng được
đổi mới thành 4 loại hình (Vườn quốc gia, Khu dự trữ thiên nhiên, Khu bảo tồn
loài/sinh cảnh và Khu bảo tồn cảnh quan) thay cho 3 loại hình trước đây. Đến
tháng 2/2003, cả nước đã có 126 khu rừng đặc dụng được công nhận với tổng
diện tích là 2.541.675ha.
Song song với việc cải tiến quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng, công tác
quản lý rừng đặc dụng cũng có những bước tiến đáng kể. Nhiều khu rừng đặc
dụng được xây dựng luận chứng kinh tế-kỹ thuật (nay gọi là Dự án đầu tư) và
thành lập Ban quản lý. Nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp qui phục vụ
công tác quản lý rừng đặc dụng như: Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (1991), Kế
hoạch hành động đa dạng sinh học của Việt Nam (1995), Quy chế quản lý rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên (Quyết định 08-
2001/QĐ-TTg, ngày 11/1/2001 của Thủ tướng Chính phủ). Đặc biệt, năm 2003,
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 11
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
“Chiến lược quản lý hệ thống Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm
2010” đã được phê duyệt (Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg, ngày 17/9/2003
của Thủ tướng Chính phủ) là định hướng quan trọng cho công tác xây dựng và
quản lý hệ thống Khu bảo tồn thiên nhiên nói chung và rừng đặc dụng nói riêng
của nước ta trong những năm tới.
1.2.2. Một số thành tựu bảo tồn đa dạng sinh học
- Hệ thống rừng đặc dụng nước ta hiện nay chiếm khoảng 7.7% diện tích
cả nước, dự kiến sẽ tăng lên 10% diện tích cả nước. Đến tháng 3/2013, nước ta
có 131 khu rừng đặc dụng được quy hoạch và xác lập với diện tích 2.541.675ha,
tương đương 7.7% diện tích đất nước (Bảng 1.1). Đồng thời, nước ta cũng đã qui
hoạch được một hệ thống các Khu bảo tồn đề xuất cho năm 2010 gồm 133 khu (32

Vườn quốc gia, 52 khu dự trữ thiên nhiên, 28 Khu bảo tồn loài /sinh cảnh và 21
Khu bảo tồn cảnh quan). Không kể 10 Khu bảo tồn loài/sinh cảnh biển, tổng diện
tích của 123 Khu bảo tồn trên đất liền (kể cả đất ngập nước) là 2.852.310ha,
chiếm 8,7% diện tích cả nước. Tỷ lệ này được xem là tương đối phù hợp với yêu
cầu bảo tồn các hệ sinh thái và điều kiện kinh tế-xã hội đặc thù của nước ta, cũng
gần đạt được như hướng dẫn của IUCN là chiếm 10% - 15% diện tích đất nước.
Bảng 1: Hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam đến 3/2013
Phân hạng Số lượng Diện tích
I. Vườn quốc gia 30 khu 957.330 ha
II. Khu bảo tồn thiên nhiên 60 khu 1.369.058 ha
IIa. Khu dự trữ thiên nhiên 49 khu 1.283.209 ha
IIb. Khu bảo tồn loài/sinh cảnh 11 khu 85.849 ha
III. Khu bảo vệ cảnh quan 41 khu 215.287
Tổng cộng: 131 khu 2.541.675 ha
- Rừng đặc dụng đã được bố trí ở các vùng khí hậu khác nhau (vùng
nhiệt đới, vùng Á nhiệt đới, vùng mưa ẩm, vùng khô hạn, vùng núi cao, vùng
trung du núi thấp, vùng đồng bằng, ), đặc biệt, là ở cả 8 vùng sinh thái cơ bản
của nước ta.
Bảng 2: Phân bố các khu rừng đặc dụng trên 8 vùng sinh thái của
Việt Nam
T
TT
Vùng sinh thái Một số Khu bảo tồn đại diện
1
1
Đông Bắc
(Cao Bằng, Hà Giang,
- 6 VQG: Ba Bể, Bái Tử Long, Tam Đảo,
Hoàng Liên Sơn-Sapa, Xuân Sơn.
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 12

Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
Tuyên Quang, Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Lào Cai, Phú Thọ, Vĩnh
Phúc, Bắc Giang, Quảng
Ninh, Bắc Ninh, Yên
Bái).
- 15 KBTTN: Hữu Liên, Núi Pia Oắc, Phong
Quang, Trạm Chu, Tây Côn Lĩnh, Trùng
Khánh, Hoàng Liên Sơn-Văn Bàn, Tây Yên
Tử, Yên Tử, Bắc Mê, Du Già, Khe Rỗ, Kim
Hỷ, Thần Sa-Phượng Hoàng, Kỳ Thượng.
- 2 KBTL/SC: Na Hang, Mỏ Rẹ-Bắc Sơn.
- 11 KBVCQ: An toàn khu (Thái Nguyên),
Ải Chi Lăng, Bãi Cháy, Các đảo Thác Bà,
Các đảo Vịnh Hạ Long, Đền Hùng, Hồ Cấm
Sơn, Hồ Núi Cốc, Pắc Bó, Tân Trào, Yên
Thế.
2
2
Đồng Bằng Sông Hồng
(Hà Nội, Hà Tây,
Hà Nam, Hải Phòng, Hải
Dương,Hưng Yên, Nam
Định, Ninh Binh, Thái
Bình)
- 4 VQG: Ba Vì, Cát Bà, Cúc Phương, Xuân
Thuỷ.
- 2 KBTL/SC: Tiền Hải, Vân Long
- 5 KBTCQ: Côn Sơn Kíp Bạc, Đồ Sơn, Hoa

Lư, Hương Sơn, Kim Bình.
3
3
Tây Bắc
(Lai Châu, Sơn La, Hoà
Bình)
- 9 KBTTN: Mường Nhé, Nậm Dôn, Pà Cò-
Hang Kia, Phu Canh, Sốp Cộp, Tà Sùa,
Copia, Thượng Tiến, Xuân Nha.
- 1 KBTCQ: Đảo hồ Sông Đà.
4
4
Bắc Trung Bộ
(Thanh Hoá, Nghệ An,
Hà Tỉnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên-
Huế)
- 5 VQG: Bến En, Pù Mát, Vũ Quang, Bạch
Mã, Phong Nha-Kẻ Bàng.
- 9 KBTTN: Hòn Mê, Xuân Liên, Kẻ Gỗ, Pù
Huống, Pù Luông, Pù Hoạt, Pù Hu, Đak
Rông, Phong Điền.
- 1 KBTL/SC: Tam Quy
- 8 KBVCQ: Đền Bà Triệu, Bắc Hải Vân,
Lam Sơn, Ngọc Trạo, Núi Chung, Săng Lẻ
Tương Dương, Yên Thành.
5
5
Nam Trung Bộ
(Quảng Nam, Đà Nẵng,

Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Khánh Hoà)
- 5 KBTTN: Bà Nà-Núi Chúa, Bán Đảo Sơn
Trà, Cù Lao Chàm, Krông Trai, Sông Thanh.
- 7 KBVCQ: Ba Tơ, Cao Muôn, Đèo Cả-
Hòn Nưa, Ghềnh Ráng, Nam Hải Vân, Ngũ
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 13
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
Hành Sơn, Núi Thành.
6
6
Tây Nguyên
(Kon Tum, Gia Lai, Đăk
Lăk, Đắk Nông)
- 4 VQG: Chư Mom Ray, Chư Yang Sin,
Yok Đôn, Kon Ka Kinh.
- 6 KBTTN: Ea Sô, Kon Cha Răng, Nam Ca,
Nam Nung, Ngọc Linh (Kon Tum), Tà
Đùng.
- 2 KBTL/SC: Ea Ral, Trấp Ksơ.
- 1 KBTCQ: Hồ Lăk
8
7
Đông Nam Bộ
(Đồng Nai, Lâm Đồng,
Ninh Thuận, Bình Thuận,
Tây Ninh, Bà Rịa, Bình
Phước, Bình Dương, TP.
Hồ Chí Minh.
- 5 VQG: Bù Gia Mập, Cát Tiên, Côn Đảo,

Lò Gò-Sa Mát, Núi Chúa.
- 9 KBTTN: Đèo Ngoạn Mục, Kalon-Sông
Mao, Núi Đại Bình, Núi Ông, Tà Kou, Vĩnh
Cửu, Bi Đúp-Núi Bà, Bình Châu-Phước
Bửu, Núi Đại Bình.
- 6 KBTCQ: Chàng Riệc, Chiến khu Bời
Lời, Dương Minh Châu, Núi Bà Đên, Núi Bà
Rá, Rừng Thông Đà Lạt,
8
8
Đồng Bằng Sông Cửu
Long
(An Giang, Bạc Liêu,
Bến Tre, Cà Mau, Cần
Thơ, Đồng Tháp, Kiên
Giang, Long An, Tiền
Giang, Trà Vinh, Vĩnh
Long
- 4 VQG: Phú Quốc, Tràm Chim, U Minh
Thượng, Mũi Cà Mau.
- 3 KBTTN: Lung Ngọc Hoàng, Núi Cấm,
Thạnh Phú.
- 5 KBTL/SC: Sân chim Bạc Liêu, Sân chim
Chà Là, Đầm Dơi, Kiên Lương, Vồ Dơi.
- 2 KBTCQ: Hòn Chông, Núi Sam.
Tóm lại: Với lịch sử trên 40 năm xây dựng, ở Việt Nam đã hình thành
một hệ thống rừng đặc dụng gồm 131 khu với tổng diện tích là 2.541.675ha,
chiếm 7,7% diện tích Đất nước.
Hiện nay, tổng số khu rừng đặc dụng là 131, trong đó có 30 Vườn quốc
gia, 48 khu dự trữ thiên nhiên, 12 Khu bảo tồn loài, 40 khu bảo vệ cảnh quan.

Tổng diện tích các khu rừng đặc dụng trên 2,5 triệu ha và tổng diện tích rừng
của cả nước gần 13,4 triệu ha, độ che phủ rừng toàn quốc 39,5 % (tính đến
31/12/2010 theo QĐ số 1828/QĐ-BNN-TCLN, ngày 11/8/2011), tỷ lệ giữa
diện tích rừng đặc dụng và diện tích rừng cả nước là 15 % (tiêu chuẩn của thế
giới 10 %). Tuy nhiên, nó còn phụ thuộc vào chất lượng của rừng, sự phân bố
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 14
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
đều trên toàn bộ diện tích tự nhiên và tính đa dạng sinh học mới có thể duy trì
bảo tồn rừng.
Hệ thống quản lý các rừng đặc dụng này phụ thuộc vào từng loại rừng
đặc dụng, như ở cấp Trung ương quản lý 06 Vườn quốc gia, còn lại trực thuộc
tỉnh, việc xây dựng và quản lý chúng dựa trên Luật bảo vệ và phát triển rừng
năm 2004; QĐ số 62/2005/QĐ-BNN, ngày 12/10/2005 về việc ban hành tiêu
chí phân loại rừng đặc dụng; QĐ số 186/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006 về quy chế
quản lý rừng; Nghị định số 32/2006/NĐ-CP, ngày 30/3/2006 về quản lý thực
vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và mới đây là Nghị định số
117/2010/NĐ-CP, ngày 24/12/2010 về tổ chức quản lý hệ thống rừng đặc dụng,
đây là nghị định được xây dựng tương đối hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay,
thể hiện sự thông suốt về tổ chức và quản lý rừng.
Như vậy, hệ thống này đã phân bố rộng trên tất cả 8 vùng sinh thái của
Việt Nam và trên hầu khắp các vùng, địa hình, đai cao; đã bao hàm đại diện của
hầu hết các hệ sinh thái rừng tự nhiên quan trọng cũng như các loài động thực
vật quí hiếm của Việt Nam và đang có những đóng góp tích cực vào công tác
bảo tồn đa dạng sinh học của Nước ta, đồng thời góp phần bảo vệ sự an toàn
môi trường cho đất nước, góp phần nâng cao đời sống của các cộng đồng địa
phương. Sự phân hạng của hệ thồng Khu bảo tồn Việt Nam đã cải tiến đáp ứng
tốt hơn nhu cầu hoà nhập quốc tế và mang tính đặc thù dân tộc. Hệ thống Khu
bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam vẫn đang tiếp tục được mở rộng, hoàn thiện
và phát triển.
1.2.3. Nghiên cứu về du lịch sinh thái

Trong những năm qua, du lịch sinh thái đã và đang phát triển nhanh
chóng ở nhiều quốc gia trên thế giới, ngày càng thu hút được sự quan tâm
rộng rãi của các tầng lớp xã hội. Ngoài ý nghĩa góp phần bảo tồn tự nhiên,
bảo vệ đa dạng sinh học và văn hóa cộng đồng, phát triển du lịch sinh thái đã
và đang mang lại những nguồn lợi kinh tế to lớn, tạo cơ hội tăng thêm việc
làm và nâng cao thu nhập cho các quốc gia cũng như cộng đồng người dân
các địa phương, nhất là người dân ở các vùng sâu, vùng xa - nơi có các khu
bảo tồn tự nhiên và các cảnh quan hấp dẫn. Ngoài ra, du lịch sinh thái còn
góp phần vào việc nâng cao dân trí và sức khỏe cộng đồng thông qua các
hoạt động giáo dục môi trường, văn hóa lịch sử và nghỉ ngơi giải trí. Chính
vì vậy ở nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, bên cạnh các lợi ích về
kinh tế, du lịch sinh thái còn được xem như một giải pháp hữu hiệu để bảo
vệ môi trường sinh thái thông qua quá trình làm giảm sức ép khai thác nguồn
lợi tự nhiên phục vụ nhu cầu của khách du lịch, của người dân địa phương
khi tham gia vào các hoạt động du lịch.
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 15
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
Nằm ở vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, lãnh thổ Việt Nam trải dài
trên 15 độ vĩ tuyến với 3/4 là địa hình đồi núi và cao nguyên, với hơn 3200 km
đường bờ biển, hàng ngàn hòn đảo…, giàu có về đa dạng sinh học trên lãnh
thổ, là nơi sinh sống của cộng đồng nhiều dân tộc với lịch sử hàng nghìn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước với nhiều truyền thống có những nét đặc
trưng riêng, nhiều di tích văn hóa lịch sử nên Việt Nam có nhiều điều kiện phát
triển du lịch sinh thái. Mặc dù có tiềm năng phát triển, song du lịch sinh thái ở
Việt Nam mới ở giai đoạn khởi đầu, còn là loại hình du lịch mới cả về khái
niệm lẫn tổ chức quản lý và khai thác sử dụng tài nguyên phục vụ cho mục đích
du lịch. Công tác nghiên cứu, điều tra cơ bản và quy hoạch phát triển du lịch
sinh thái còn hạn chế.
Nhận thức rõ vai trò của du lịch sinh thái đối với sự phát triển của ngành
du lịch nói riêng và bảo vệ tài nguyên, môi trường đảm bảo cho sự nghiệp phát

triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, tháng 9/1999, Tổng cục
Du lịch Việt Nam đã phối hợp tổ chức Hội thảo quốc tế về xây dựng khung
chiến lược phát triển du lịch sinh thái làm cơ sở cho việc xây dựng chiến lược
phát triển du lịch Việt Nam cũng như đẩy mạnh hợp tác phát triển hoạt động du
lịch sinh thái của Việt Nam với các nước trong khu vực và quốc tế. Hội nghị
đưa ra định nghĩa như sau: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch thiên nhiên
có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường có tác động tích cực đến
việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài chính
cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn”.
Việt Nam là một trong những nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú,
có tính đa dạng sinh học cao và có nhiều dạng hệ sinh thái điển hình. Tính đến
năm 2009, cả nước đã có 167 khu rừng đặc dụng trong đó có 30 vườn quốc gia,
60 khu bảo tồn thiên nhiên và 38 khu rừng văn hóa - lịch sử - môi trường với
tổng diện tích trên 2,4 triệu ha. Đây chính là những là tiền đề để phát triển loại
hình du lịch sinh thái. Nhưng hiện nay, du lịch sinh thái ở Việt Nam vẫn đang
là loại hình du lịch mới cả về khái niệm lẫn tổ chức quản lý và khai thác sử
dụng tài nguyên phục vụ cho mục đích du lịch sinh thái.
Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030 đã định hướng phát triển Du lịch Việt Nam theo 7 vùng
với các đặc trưng riêng về loại hình và sản phẩm du lịch. Bên cạnh đó định
hướng phát triển 46 khu du lịch quốc gia, 42 điểm du lịch quốc gia làm động
lực phát triển du lịch và du lịch sinh thái cho từng vùng và cả nước.
Có thể nhận thấy, định hướng phát triển các khu du lịch quốc gia của
Chiến lược là tiền đề quan trọng cho công tác quy hoạch, quản lý tài nguyên để
làm động lực phát triển ngành du lịch trên phạm vi cả nước.
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 16
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
Thực tế cho thấy, trong số các khu du lịch quốc gia, có những khu du
lịch đã được quan tâm quy hoạch từ những năm trước đây và đã đem lại hiệu
quả trong công tác đầu tư, quản lý phát triển du lịch như Khu du lịch Hạ Long -

Cát bà, Khu du lịch Đền Hùng (Phú Thọ), Khu du lịch Tràng An, Tam cốc –
Bích Động (Ninh Bình), Khu du lịch Măng Đen (Kon Tum), Khu du lịch Phan
Thiết - Mũi Né (Bình Thuận), Khu du lịch đảo Phú Quốc Kiên Giang).
Một số khu du lịch vừa mới được tiến hành lập quy hoạch như Khu du
lịch Mộc Châu (Sơn La), Khu du lịch Thiên Cầm (Hà Tĩnh), Khu du lịch thác
Bản Giốc (Cao Bằng).
Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo ngành Du lịch thực hiện
các quy hoạch Khu du lịch Điện Biên Phủ- Pá Khoang- Mường Phăng
(Điện Biên), Khu du lịch Sơn Trà (Đà Nẵng), Khu du lịch núi Bà Đen (Tây
Ninh). Trong những năm tiếp theo sẽ tiếp tục chỉ đạo thực hiện quy hoạch
các khu du lịch khác.
Trong luật du lịch năm 2005, đã định nghĩa khá ngắn gọn “Du lịch sinh
thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa
phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”. Theo quy
chế quản lý các hoạt động du lịch sinh thái tại các Vườn quốc gia, khu bảo tồn
thiên nhiên, do Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành năm 2007, thì “Du lịch
sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa
phương với sự tham gia của cộng đồng dân cư ở địa phương nhằm phát triển
bền vững”.
Một số chính sách có liên quan đến phát triển DLST đã được ban hành,
như Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, Nghị định 23 về hướng dẫn thực
hiện Luật bảo vệ và phát triển rừng, Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg, ngày
14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý các loại rừng,
Quyết định số 104/2007/QĐ-BNN, ngày 27/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về Quản lý các hoạt động DLST tại các VQG,
Khu BTTN. Năm 2002, mô hình sử dụng môi trường rừng đặc dụng để phát
triển du lịch sinh thái được triển khai thí điểm tại Vườn Quốc gia Ba Vì theo
Quyết định 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Kết quả sau 6 năm thực
hiện cho thấy mô hình thí điểm đã có những tác động tích cực, như giảm áp lực
cho công tác bảo vệ rừng, tạo cơ hội khôi phục nghề truyền thống và giải quyết

công ăn việc làm tại địa phương, qua đó giảm tỉ lệ đói nghèo…Tuy vẫn còn bộc
lộ nhiều bất cập, song đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của các hoạt động
DLST và bảo tồn thiên nhiên. Mặc dù đã có một số chính sách khuyến khích
các thành phần kinh tế tư nhân có thể tham gia đầu tư và quản lý hoạt động
DLST ở các VQG, nhưng cho đến nay hoạt động DLST chủ yếu vẫn do các
VQG tự tổ chức, vận hành. Lợi ích từ hoạt động DLST vẫn chưa đến được với
những cộng đồng địa phương một cách đầy đủ.
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 17
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
1.2.4. Tình hình phát triển du lịch sinh thái tại các VQG và khu
BTTN ở Việt Nam
Du lịch sinh thái ở các khu rừng đặc dụng của Việt Nam là khái niệm
không còn mới mẻ, Vườn quốc gia Cúc Phương có lẽ là Vườn quốc gia đầu tiên
của Việt Nam thực hiện tổ chức hoạt động du lịch sinh thái và đã phát huy
được hiệu quả của loại hình này đặc biệt đối với bảo vệ rừng, bảo vệ đa dạng
sinh học, nâng cao nhận thức và tạo điều kiện nâng cao mức sống của cộng
đồng địa phương.
Các hoạt động DLST ở các khu rừng đặc dụng Việt Nam chủ yếu là
nghiên cứu, tìm hiểu các hệ sinh thái, tham quan hang động, tìm hiểu đời sống
động thực vật hoang dã và văn hóa bản địa. Tuy nhiên, du khách đến các VQG
mới chỉ tiếp cận được các hệ sinh thái rừng, các loài thực vật, và một số loài
côn trùng.
Chỉ ở VQG Cát Tiên du khách có thể quan sát được một số thú lớn như
Hươu, Nai, Lợn rừng, Cầy, Chồn, Nhím vào ban đêm. Tại Cúc Phương và
Tam Đảo đã xây dựng khu nuôi thú bán hoang dã để bảo tồn và phục vụ khách
tham quan. Khu cứu hộ các loài Linh trưởng, trạm cứu hộ Rùa và Cầy vằn tại
VQG Cúc Phương cũng là điểm dừng chân thú vị cho khách du lịch.
Các hệ sinh thái đất ngập nước với nhiều loài chim nước và các loài thuỷ
sinh cũng đang thu hút nhiều khách du lịch. VQG Xuân Thuỷ, với hệ sinh thái
rừng ngập mặn là nơi cư trú của hàng trăm loài chim. Khu BTTN Vân Long

(Ninh Bình) bao gồm cả hệ sinh thái đất ngập nước và hệ sinh thái rừng rừng
trên núi đá vôi với loài Voọc quần đùi quý hiếm và các loài chim nước như
Sâm cầm. VQG Tràm chim là nơi bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên Đồng Tháp
Mười với loài đặc hữu là Sếu đầu đỏ đã thu hút hàng nghìn khách du lịch mỗi
năm.
Năm 2005: “Bản đồ du lịch sinh thái của Việt Nam”, đây là lần đầu tiên
một bản đồ chi tiết về du lịch sinh thái ở Việt Nam được xuất bản, Chương
trình Hỗ trợ bảo tồn Việt Nam – FFI thực hiện. Bản đồ được trình bày dưới
dạng một cuốn sách hướng dẫn về thiên nhiên Việt Nam, trong đó có nhiều ảnh
chụp phong cảnh và động vật hoang dã có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Tuy có nhiều tiềm năng phát triển DLST song lượng khách đến các
KBTTN Việt Nam còn rất thấp. Theo số liệu điều tra của đề tài nghiên cứu đề
xuất tiêu chí khu DLST ở Việt Nam (2009), thì phần lớn là khách du lịch đến
các VQG và KBTTN là khách nội địa (chiếm tới 80% tổng lượng khách) và
cũng chưa thể thống kê được có bao nhiêu khách là khách DLST đích thực.
Tuy nhiên có những điểm thu hút được đa số khách du lịch quốc tế, điển hình là
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 18
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
KBTTN đất ngập nước Vân Long với trên 82,3% (40,000 khách) lượng khách đến
tham quan du lịch là khách quốc tế .
Một số mô hình DLST cộng đồng đã hình thành, như ở Bản Khanh
(VQG Cúc Phương), Bản Pác Ngòi (VQG Ba Bể), thôn Chày Lập (VQG Phong
Nha - Kẻ Bàng), bản A Đon (VQG Bạch Mã),….Do khó khăn trong khâu tiếp
thị nên chưa thu hút được nhiều khách du lịch, lợi ích mang lại cho người dân
còn rất khiêm tốn.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật hỗ trợ cho phát triển DLST đã được xây dựng
nhưng chất lượng và số lượng còn rất hạn chế. Nhiều khu DLST như VQG Cúc
Phương, Bái Tử Long, Bạch Mã, Cát Tiên đã xây dựng Trung tâm du
khách/Trung tâm thông tin và các đường mòn thiên nhiên có các biển diễn giải.
Nhiều khóa tập huấn về DLST và giáo dục môi trường đã được các dự án, các

tổ chức quốc tế (JICA, WWF, IUCN…), Cục Kiểm lâm và Hiệp hội VQG và
KBTTN Việt Nam triển khai cho các đối tượng liên quan.
Dựa vào tiêu chuẩn của du lịch sinh thái ta có thể nhận thấy rằng, mặc dù
đã có những hoạt động du lịch mang tính chất du lịch sinh thái nhưng trên thực
tế chỉ là du lịch thiên nhiên. Hoạt động giáo dục, diễn giải môi trường chưa quan
tâm đúng mức và thiếu cán bộ am hiểu về lĩnh vực mới mẻ này. Lợi ích từ hoạt
động du lịch còn ít, chưa hỗ trợ được nhiều cho công tác bảo tồn và phát triển cộng
đồng địa phương.
- Tiềm năng, tài nguyên du lịch sinh thái: Lợi thế quan trọng nhất của du
lịch sinh thái là khai thác chủ yếu vào các tiềm năng tự nhiên và nhân văn.
Tiềm năng du lịch sinh thái ở Việt Nam khá phong phú và đa dạng, giàu bản
sắc còn tiềm ẩn nhiều nét hoang sơ, độc đáo hấp dẫn đối với người nước ngoài
và du khách trong nước:
- Có bờ biển dài trên 3200 cây số với nhiều bãi tắm đẹp kéo dài từ Bắc
xuỗng Nam, nhiều bãi tắm còn có thể hoạt động quanh năm. Bên cạnh các bãi
tắm có thể tổ chức đi tham quan các hệ sinh thái gắn liền với biển như các bãi
san hô, đụn cát, đầm phá và đầm lầy, rừng ngập mặn.
- Diện tích đá cacbonat trong đó chủ yếu là đá vôi có diện tích khoảng
50.000km2(chiếm khoảng 15% diện tích lãnh thổ) phân bố chủ yêu ở Bắc Việt
Nam từ Thừa Thiên- Huế trở ra (Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ), Nam Bộ
có Kiên Giang. Đây là nơi đã phát hiện nhiều cảnh quan cactơ nổi tiếng như
vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, động Hương Tích, động Phong Nha.
Núi rừng chiếm tới 4/5 diện tích cả nước với nhiều loại rừng khác nhau
hình thành trong các cảnh quan nhiệt đới tạo ra những vùng du lịch sinh thái
hấp dẫn đối với nhiêù đối tượng du lịch trong và ngoài nước nhất là các vườn
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 19
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
quốc gia, các khu vực bảo tồn thiên nhiên với nhiều loại động, thực vật quý
hiếm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc đáo.
Trên 400 nguồn nước khoáng, nước nóng bao gồm nhiều kiểu loại khác

nhau phân bố hầu như đều khắp lãnh thổ và có giá trị sử dụng vào nhiều mục
đích, trong đó đặc biệt du lịch sinh thái, một số cụm như cụm Tam Hợp -
Quang Hanh (Quảng Ninh) cụm Mỹ An (Huế), cụm Vĩnh Hảo (Bình Thuận)
cụm Mỹ Khê (Hà Nội), cụm Đồng Nghệ(Đà Nẵng). Các cộng đồng dân tộc với
bản sắc văn hoá riêng về phong tục, tập quán, lối sống, di tích lịch sử, văn hoá,
kiến trúc, nghệ thuật, lễ hội là nguồn thông tin tiềm tàng, hấp dẫn cuốn hút rất
nhiều đối tượng cho nhiều du khách trong và ngoài nước; hệ thống di sản văn
hoá vật thể và phi vật thể phong phú và đa dạng gắn kết với hệ sinh thái đặc sắc
của đất nước là một trong những điều kiện thuận lợi phát triển du lịch sinh thái.
- Một số công trình nghiên cứu ở Khu BTTN Pù Hoạt: Trước đây công
việc nghiên cứu đã được tiến hành bởi các nhà địa lý, địa chất, kinh tế, sinh vật
của người Pháp; các nhà Khoa học Việt Nam ở các trường Đại học; Viện
nghiên cứu khoa học như: trường Đại học Lâm nghiệp; Viện điều tra quy hoạch
rừng; Viện sinh thái; Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật; trường Đại học xã
hội và nhân văn; Viện nghiên cứu và Phát triển du lịch và một số các tác
giả kết quả một số công công trình liên quan vấn đề nghiên cứu ở Khu BTTN
Pù Hoạt như: Dương Văn Lợi và cộng sự(2013) “Quy hoạch bảo tồn và phát
triển bền vững rừng đặc dụng- Khu BTTN Pù Hoạt giai đoạn 2013 – 2020”
Nguyễn Hải Hà và cộng sự (2013) “Báo cáo đánh giá đa dạng Khu hệ động-
thực vật Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt, Nghệ An”.
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 20
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
Phần 2
ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ- XÃ HỘI
2.1. Điều kiện tự nhiên, dân sinh, kinh tế
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích
Theo kết quả rà soát điều chỉnh quy hoạch ba loại rừng tỉnh Nghệ An
năm 2013 thì Khu BTTN Pù Hoạt có tổng diện tích tự nhiên 85.761,43 ha,
trong đó rừng đặc dụng34.589,89 ha và rừng phòng hộ 51.171,54 ha. Nằm trên

địa bàn 9 xã thuộc huyện Quế Phong: Tri Lễ, Tiền Phong, ThôngThụ,
HạnhDịch, Nậm Giải, Đồng Văn, Nậm Nhoóng, Cắm Muộn và xã Châu Thôn.
- Tọa độ địa lý:
+ Từ 19
o
27'46” đến 19
o
59'55

độ vĩ Bắc;
+ Từ 104
o
37'46
’’
đến 105
o
11'11

độ kinh Đông.
- Ranh giới
+ Phía Bắc giáp Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên và các xã Vạn Xuân,
Xuân Lệ và xã Xuân Chinh, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
+ Phía Đông giáp xã Châu Bình, Châu Tiến, huyện Quỳ Châu.
+ Phía Nam giáp xã Yên Tĩnh huyện Tương Dương và xã Quang Phong
huyện Quế Phong.
+ Phía Tây giáp nước Công hòa dân chủ nhân dân Lào và xã Nhôn Mai,
xã Hữu Khuông huyện Tương Dương.
2.1.1.2. Địa hình, địa thế
Khu BTTN Pù Hoạt xứng đáng là “nóc nhà” của vùng Bắc Trung Bộ, nơi
có đỉnh Pù Hoạt cao 2.457 mét. Trong vùng có 3 dạng địa hình chính:

Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 21
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
- Địa hình núi cao: Là địa hình đặc trưng trong khu vực, gồm các dãy núi
có độ cao hơn 1.700m, nằm ở phía Tây Bắc của huyện, tập trung ở 5 xã Đồng
Văn, Thông Thụ, Hạnh Dịch, Nậm Giải và Tri Lễ. Địa hình bị chia cắt mạnh
bởi các dãy núi cao và hệ thống sông suối khá dày đặc, điển hình dãy núi cao
Trường Sơn từ 1.600 - 1.828m và núi Chóp Cháp (1.705m), đỉnh cao nhất là Pù
Hoạt (2.457m). Địa hình có độ dốc thường trên 30o, dễ gây hiện tượng sạt lở,
trượt đất, diện tích dạng địa hình này gần 52% diện tích tự nhiên, đây cũng là
vùng thượng lưu của hai con sông lớn là sông Chu và sông Hiếu. Thảm thực
vật chủ yếu là rừng cây tự nhiên, dạng địa hình này chỉ có ý nghĩa lâm sinh duy
trì độ che phủ đất rừng tự nhiên phòng hộ, tạo nguồn sinh thuỷ điều hòa khí hậu
trong vùng.
- Địa hình núi trung bình và núi thấp: Bao gồm các dãy đồi núi có độ cao
trong bình từ 300 đến 1.700m; là vùng chuyển tiếp khu vực núi cao và vùng
thấp, nằm ở phía Tây Nam của vùng quy hoạch, tập trung ở các xã Châu Thôn,
Cắm Muộn, Nậm Nhoóng, Tri Lễ và Nậm Giải. Diện tích chiếm 40% diện tích
tự nhiên, thảm thực vật chủ yếu là rừng cây tự nhiên và ngoài ra còn có ít diện
tích rừng trồng đặc sản (quế), rừng nguyên liệu gỗ như keo lai v.v Trên địa
hình này còn diện tích đất đồi núi chưa sử dụng có khả năng khai thác vào
trồng rừng.
- Địa hình bằng, thấp: Gồm những thung lũng nằm dưới chân núi cao
hoặc dải đất bằng nằm dọc hai bên bờ suối, có những nơi diện tích rộng từ 300
đến 400 ha, phân bố tập trung ở xã Tiền Phong. Độ dốc thường từ 3 đến 5 độ
rất thuận lợi cho canh tác, đây là vùng sản xuất lúa, rau, màu tập trung với sản
lượng lớn của huyện Quế Phong.
2.1.1.3. Địa chất, đất đai
- Địa chất: Vùng quy hoạch Khu BTTN Pù Hoạt có cấu trúc địa chất rất
phức tạp, với nhiều loại đá có tuổi trên 2 triệu năm: Đá cổ sinh (Paleozoi), đá
trung sính (Mezozoi) phát triển khá rộng rãi trên khu vực và ít hơn là đá tân

sinh (Cenozoi). Khu vực đã hình thành các tiểu vùng lập địa có nhiều đặc thù
riêng biệt như vùng núi cao dốc, có xen lẫn những vùng đất thấp giữa núi,
những thung lũng hẹp và sâu Mặc dù ở kiểu địa hình nào thì các sườn núi
trong khu vực đều có độ dốc khá lớn, đất đai chưa bị thoái hoá mạnh, nhưng
muốn sử dụng có hiệu quả thì đòi hỏi phải có sự đầu tư cao về kinh phí và kỹ
thuật.
- Thổ nhưỡng: Do ảnh hưởng của cấu trúc địa hình, đặc điểm địa chất, đá
mẹ, khí hậu, thực bì che phủ và tác động của con người đã tạo cho Khu BTTN
Pù Hoạt có sự phong phú và đa dạng về đất đai với sự xuất hiện các nhóm đất
chính sau:
+ Nhóm dạng đất mùn Alít trên núi cao (H): Diện tích là 1.783,0 ha, phân
bố
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 22
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
ở các xã Tri Lễ, Hạnh Dịch, Nậm Giải, có đặc điểm như sau: Phân bố ở độ
cao >1.700m. Lớp thảm mục dày 20- 30cm, lớp mùn dầy 7-10cm, màu xám đen,
càng xuống sâu màu đen nhạt dần. Đất có thành phần cơ giới cát pha, cấu trúc
không bền vững, đất có phản ứng rất chua (PH = 4), hàm lượng mùn cao (>8%);
+ Nhóm dạng đất Feralít mùn trên núi trung bình (FH): Loại đất này
được hình thành ở độ cao từ 700m-1.700m, có diện tích 54.349,0 ha, chiếm
63,4%, phân bố ở hầu hết các xã trong khu vực. Tính chất đặc biệt của đất có
mùn là lớp thảm mục và tầng mùn tương đối dầy, hàm lượng mùn khá cao (7-
8%);
+ Nhóm dạng đất Feralít điển hình trên vùng đồi và núi thấp (F): Loại
đất này phân bố ở độ cao dưới 700m có diện tích là 29.398,1 ha. Quá trình
Feralít xảy ra chưa nhiều, đất có cấu tượng khá bền vững. Một số diện tích
vùng đồi đã bị kết von nhưng không có đá ong chặt;
+ Nhóm dạng đất đồng bằng (D), thung lũng (T): Nhóm đất này có diện
tích 161,0 ha, chiếm 0,2% diện tích tự nhiên khu vực, được hình thành trên các
kiểu địa hình máng trũng, thung lũng, bồn địa;

+ Ngoài ra trên địa bàn còn có 79,3 ha núi đá, chiếm 0,1% diện tích tự
nhiên, phân bố ở các xã Hạnh Dịch, Nậm Giải và Tri Lễ.
2.1.1.4. Khí hậu, thuỷ văn
- Khí hậu: Theo số liệu của trạm khí tượng thủy văn Quỳ Châu, Khu
BTTN Pù Hoạt nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều,
khu vực chịu ảnh hưởng lớn của khí hậu dãy Trường Sơn Bắc.
+ Nhiệt độ trung bình năm 23,1
o
C. Nhiệt độ cao nhất 41,3
o
C (tháng 6),
thấp nhất 10
0
C (tháng 12);
+ Độ ẩm trung bình năm 86%;
+ Lượng mưa trung bình năm 1.734,5mm. Mùa mưa từ tháng 7 đến
tháng 9 hàng năm, do địa hình cao dốc nên mỗi khi mưa lớn thường gây lũ
nhanh, lũ lớn trên các con sông. Lượng mưa thấp ở các tháng về mùa khô (1-3);
+ Gió: Trong khu vực có hai loại gió chính, đó là: Gió mùa Đông Bắc
xuất hiện từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, thổi mạnh vào tháng 11, 12 và
tháng 1, mỗi đợt 3-4 ngày, có khi kéo dài cả tuần. Gió mùa đông bắc về gây giá
rét, thường kéo theo mưa phùn. Gió Lào thổi từ tháng 5 đến tháng 6, khi có gió
Lào, nhiệt độ lên cao, có khi lên đến 41,3
o
C, độ ẩm xuống thấp, gây khô nóng.
- Thủy văn: Khu BTTN Pù Hoạt thuộc là vùng đầu nguồn của hai hệ
sông:
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 23
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
+ Sông Chu ở phía Bắc bắt nguồn từ phía Tây Pù Hoạt (Lào) với tên là

Nậm Xam chảy qua huyện Hửa Phăn, vào Việt Nam với tên là sông Chu, chảy
qua các xã Đồng Văn, Thông Thụ huyện Quế Phong về Thanh Hoávới chiều
dài đi qua hơn 64 km. Đây là hệ thủy lớn, nổi tiếng phong phú về các loài thủy
sinh, cá, lưỡng cư cả về thành phần loài và số lượng. Dọc hai bên sông, bên các
suối lớn là vùng sinh sống và canh tác của cộng đồng các dân tộc thuộc hai xã
Thông Thụ và Đồng Văn;
+ Hệ sông Hiếu bắt nguồn trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, có lưu
vực lớn thứ hai trong khu vực (Chiếm khoảng 30% diện tích Khu BTNT Pù
Hoạt), với các chi lưu Nậm Việc, Nậm Giải, Nậm Quàng:
+ Sông Nậm Việc bắt nguồn từ xã Hạnh Dịch, Tiền Phong, lưu lượng
nước rất lớn, chảy quanh năm. Hệ thủy này được tạo bởi khá nhiều khe suối lớn
bắt nguồn từ biên giới Việt Lào, từ các đỉnh núi cao đổ về như: suối Hạt, suối
Phùng,suối Hiên, suối Co, suối Nậm Lan
+ Sông Nậm Quàng bắt nguồn từ biên giới Việt Lào ở xã Tri Lễ, dài
71km, diện tích lưu vực 594,8 km
2
;
+ Sông Nậm Giải bắt nguồn từ biên giới Việt Lào ở xã Nậm Giải dài 43
km chảy qua các xã Châu Kim, Mường Nọc.
Nhờ hệ thống sông suối khá dày đặc, cùng với địa hình tương đối cao - là
cơ hội lớn để phát triển các công trình thủy điện phục vụ lợi ích quốc gia, lợi
ích dân tộc và toàn xã hội; Cho đến nay trên địa bàn huyện có 06 công trình
thủy điện được đầu tư xây dựng: Thủy điện Hủa Na; Nhãn Hạt, Bản Cốc, Sao
Va, Sông Quàng, Châu Thôn với tổng công suất gần 280 MW, trong đó 02
công trình đã đưa vào vận hành và hòa vào mạng lưới điện quốc gia.
Ngoài ra, còn có thác Sao Va, thác Bảy Tầng là điểm đến lý tưởng cho
các du khách thích khám phá các nét đẹp mà tự nhiên ban tặng cho huyện Quế
Phong.
2.2. Dân sinh kinh tế - xã hội
2.2.1. Dân tộc, dân số và lao động

Theo số liệu của Chi cục Thống kê huyện Quế Phong và các xã trong
khu vực Khu BTTN Pù Hoạt tính đến tháng 6 năm 2013, tình hình dân số, dân
tộc và lao động như sau:
- Dân số: Tổng dân số 09 xã, trong khu vực Khu BTTN Pù Hoạt là 2.993
hộ với 10.924 nhân khẩu.
- Dân tộc: Trên địa bàn có 2 dân tộc sinh sống, gồm:
+ Dân tộc Kinh với 10.498 người, chiếm tới 96,1% dân số. Nhóm đồng
bào Kinh, Thái,
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 24
Báo cáo đánh giá tiềm năng du lịch sinh thái Khu BTTN Pù Hoạt – Tỉnh Nghệ An
+ Dân tộc Mông với 426 người chiếm 3,9% dân số. Nhóm đồng bào
Mông, Đan Lai, Rục, Sách sinh sống chủ yếu ở vùng sâu, vùng cao xa, nơi
gần rừng, có nguồn nước, nhưng đường giao thông đi lại khó khăn. Kinh tế
nương rẫy là nguồn sống chính, ngoài ra còn kết hợp chăn nuôi và thu lượm sản
phẩm sẵn có trong rừng.
- Lao động: Tổng số 6.818 lao động trong độ tuổi, 80% lao động thuần
nông, còn lại là CBCNV chức và lao động dịch vụ buôn bán khác
2.2.2. Các hoạt động kinh tế
Sản xuất nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp đang giữ vai trò chủ đạo
trong các hoạt động kinh tế chính của khu vực, trong sản xuất nông nghiệp thì
lương thực là chủ yếu và là nguồn sống chính của đồng bào.
- Trồng trọt: Diện tích đất sản xuất nông nghiệp là ha, chiếm 3,2% tổng
diện tích tự nhiên. Bình quân diện tích đất nông nghiệp 0,13 ha/người là quá
thấp, cây trồng trên đất nông nghiệp chủ yếu là cây lương thực (lúa, ngô, khoai,
sắn), ngoài ra còn có cây nông nghiệp ngắn ngày (lạc, mía) và các loài cây ăn
quả (mận, mơ, nhãn, cam, bưởi, chuối ).
- Chăn nuôi: Toàn khu vực có 55.330 con Trâu, 77.738 con Bò, 109.257
con Lợn và 700.613 con gia cầm tính bình quân mỗi hộ có từ 1-2 con Trâu, Bò
hoặc Ngựa, 2 con Lợn và từ 10-12 con gia cầm. Hình thức chăn nuôi chủ yếu là
thả rông, do đó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất lâm nghiệp, nhất

là công tác trồng và khoanh nuôi phục hồi rừng.
- Thuỷ sản: Nuôi thuỷ sản trong vùng mới phát triển với quy mô nhỏ
trong các hộ gia đình. Toàn khu vực có 596,3 ha ao thả cá, cho sản lượng 317,6
tấn/năm. Việc khai thác tự nhiên ở sông hồ cho năng suất thấp, với trên 20.000
ha mặt nước hiện có trên các hồ thuỷ điện Hủa Na, Sao Va, Sông Quàng và các
hồ thuỷ lợi khác sẽ là tiềm năng lớn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt
là nuôi cá lồng bè, góp phần tăng thu nhập cho đồng bào trong khu vực.
2.2.3. Sản xuất lâm nghiệp
Trên địa bàn Khu BTTN Pù Hoạt ngoài các công ty, BQL rừng đặc
dụng, còn có các hộ gia đình, tập thể thôn bản và các đồn biên phòng, tham
gia các
hoạt động sản xuất lâm nghiệp. Trong 9 xã có 9.483 hộ gia đình và tập thể nhận
đất nhận rừng để quản lý bảo vệ và sản xuất kinh doanh. Bằng nguồn vốn hỗ
trợ xây dựng và phát triển rừng nhiều nơi sau 1-2 năm nhận đất nhận rừng,
đồng bào đã có sản phẩm thu hoạch, góp phần tăng thu nhập, xoá đói giảm
nghèo và từng bước cải thiện đời sống cho người lao động.
2.2.4. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Kinh tế - xã hội chậm phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém nên khu vực hầu
như không có cơ sở công nghiệp nào. Các hoạt động sản xuất tiểu thủ công
nghiệp cũng hầu như không có. Một số lò rèn sản xuất công cụ thô sơ và các tư
Đoàn Điều tra Quy hoạch Lâm nghiệp - Số 08, Nguyễn Thị Minh Khai, Thành phố Vinh, Nghệ An - 25

×