Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Ngữ văn 9 - Ôn tập Truyện Kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.32 KB, 15 trang )

NGỮ VĂN 9 – ÔN TẠP TRUYỆN KIỀU
TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU
Đê: Hãy viết một bài văn thuyết minh ngắn giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Du và giá trị tác phẩm
“truyện Kiều”.
Gợi ý bài làm: Nội dung cụ thể
I- Mở bài:
-Giới thiệu khái quát về
Nguyễn Du (thiên tài văn
học-“thi sĩ của các thi sĩ”
-Giới thiệu truyện Kiều (tác
phẩm lớn của Nguyễn Du,
đỉnh cao của nghệ thuật thi ca
tiếng Việt).
II-Thân bài :
a/ Thuyết minh về cuộc đời và
sự nghiệp văn học của Nguyễn
Du:
-Thân thế: sinh mất, bút hiệu,
quê quán, gia đình
-Thời đại: đầy biến động
-Về cảnh đời :+Năng khiếu
văn học bâm sinh
+Trải qua mười
năm gió bụi => có vốn sống
phong phú.
-Sự nghiệp văn chương : thơ
chữ Hán, chữ Nôm.
b/ Thuyết minh về giá trị của
truyện Kiều:
-Nguồn gốc.
-Giá trị :


+Nội dung: hiện thực, nhân
đạo.
I- Nguyễn Du được coi là một thiên tài văn học, một tác gia văn
học tài hoa và lỗi lạc nhất của văn học Việt Nam “thi sĩ của các
nhà thi sĩ”. Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) là tác phẩm lớn
nhất của ông, là đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật thơ ca tiếng
Việt.
II-
a/ Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn Du:
-Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh
Hiên;quê ở làng Tiên Điền , huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; sinh
trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền
thống văn học.
Quê hương ông vẫn lưu truyền câu ca:
Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Lam hết nước , họ này hết quan.
Cuộc đời của Nguyễn Du gắn bó với những biến cố lịch sử của
giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu hế kỷ XIX . Đây là giai đoạn lịch
sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật : chế độ phong kiến
Việt Nam khủng hoảng trầm trọng , bão táp phong trào nông dân
khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Du sống phiêu bạt nhiều năm trên
đất Bắc (1786-1796). “Ông trải qua mười năm gió bụi”, có lúc ốm
đau không có thuốc, mái tóc sớm bạc. Năm 1802, Gia Long triệu
Nguyễn Du ra làm quan. Ông được làm chánh sứ sang Trung
Quốc (1913-1914). Năm 1820, ông được cử làm chánh sứ lần thứ
hai, nhưng chưa kịp đi, ông đã mất.
Năng khiếu văn học bẩm sinh, vốn sống vô cùng phong phú, kết
hợp với trái tim yêu thương vĩ đại đã tạo nên thiên tài Nguyễn Du
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du vô cùng rạng rỡ, để lại

nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm:
Về chữ Hán có 3 tập thơ : Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp
lục, Thanh Hiên thi tập.
Về chữ Nôm có Truyện Kiều, Văn chiêu hồn
b/ Truyện Kiều:
Nguyễn Du đã lấy cốt truyện từ “Kim Vân Kiều truyện” của
Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc) mà sáng tạo ra truyện Kiều
bằng thơ lục bát dài 3254 câu, đậm đà màu sắc dân tộc.
Giá trị nội dung và nghệ thuật:
Về nội dung: Truyện Kiều có hai giá trị lớn là giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo:
Giá trị hiện thực : Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một
xã hội bất công , tàn bạo.
Giá trị nhân đạo: Truyện Kiều là tiếng nói thương cảm
trước số phận bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo
+Nghệ thuật?
III- Kết bài :
Phát biểu chung về tác giả, tác
phẩm.
những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng,
nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người như
khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, cơng lý, khát vọng
tình u, hạnh phúc.
Về nghệ thuật :
Truyện Kiều là kết tinh hành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên
các phương diện ngơn ngữ, thể loại. Với truyện Kiều, ngơn ngữ
văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ. Với
tryuện Kiều , nghệ thuật tự sự đã có bước phát triển vượt bậc từ
nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc
họa tính cách và miêu tả tâm lý nhân vật.

III-
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, niềm tự hào của nhân dân ta, đất
nước ta:
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
(Kính gửi cụ Nguyễn Du - Tố Hữu)
Truyện Kiều là tập đại thành của ngơn ngữ văn học dân tộc.
Đoạn: CHỊ EM THÚY KIỀU (Trích truyện Kiều)
1. Qua đoạn trích “Chò em Thúy Kiều” em có nhận xét gì về nghệ thuật tả người của Nguyễn
Du ?
-Đoạn thơ miêu tả nhân vật theo bút pháp nghệ thuật ước lệ quen thuộc trong văn học
cổ. Nghóa là sử dụng những qui ước trong biểu hiện nghệ thuật như dùng hình tượng thiên nhiên
đẹp: trăng , hoa , ngọc, tuyết,….để nói về vẻ đẹp con người. Để gợi lên vẻ đẹp duyên dáng,
thanh cao, trong trắng của người thiếu nữ :
Mai cốt cách , tuyết tinh thần
Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của Thúy Vân được so sánh với hình tượng thiên nhiên, với
những thứ cao đẹp trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc:
Vân xem trang trọng khác vời
Khn trăng dầy dặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng những hình tượng ước lệ:
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm , liễu hờn kém xanh
Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sống động vẻ đẹp của
đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt,…Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân sơn” – nét núi mùa
xuân lại gợi lên đôi mày thanh tú trên giương mặt trẻ trung.
Cái tài của Nguyễn Du là tuy sử dụng bút pháp ước lệ nhưng chân dung hai chò em Thúy
Vân, Thúy Kiều hiện lên thật sinh động, đa dạng , “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.
Khi miêu tả chân dung nhân vật là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Thúy

Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh, “mây thua”, “tuyết nhường” nên nàng sẽ có cuộc
đời bình lặng, suôn sẻ . Còn vẻ đẹp của Thúy Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, các vẻ đẹp
khác phải đố kò – “hoa ghen”, “liễu hờn” – nên số phận nang phải éo le đau khổ.
-Sự tinh tế của tác giả là khi miêu tả nhân vật Thúy Kiều, tác giả miêu tả chân dung
Thúy Vân trước để làm nền nổi bật lên chân dung Thúy Kiều. Có thể coi đây là thủ pháp nghệ
thuậït đòn bẩy. Nguyễn Du chỉ dành bốn câu để gợi tả Vân, trong khi đó dành tới mười hai câu
thơ để cực tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp của Vân chủ yếu là ngoại hình, còn vẻ đẹp của Kiều là
nhan sắc , tài năng , tâm hồn.
Thúy Vân, Thúy Kiều là những nhân vật chính diện nên khi miêu tả tác giả chủ yếu tác giả
dùng bút pháp ước lệ. Vì vẻ đẹp của hai chò em Kiều là vẻ đẹp lí tưởng nên Nguyễn Du đã
dùng những khuôn mẫu, ước lệ để diễn tả vẻ đẹp vượt ra ngoài, vượt lên trên khuôn mẫu của
tuyệt sắc giai nhân.
2-Em có nhận xét gì về cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du trong việc miêu tả ngoại hình hai
chò em Thuý Kiều ,cách miêu tả ấùy đã dự báo số phận của hai nhân vật như thế nào?
-“Chò em Thuý Kiều” là đoạn thơ miêu tả nhân vật vô cùng đặc sắc trong thơ trung đại, một
trong những nét đặc sắc ấùy là việc sử dụng từ ngữ.
+Miêu tả ngoại hình hai chò em Thuý Kiều , Nguyễn bút pháp ước lệ – truyền thống của văn
học cổ điển, dùng hình tượng thiên nhiên đẹp : trăng, hoa, ngọc, tuyết, để nói về vẻ đẹp con
người.
+Cách sử dụng ngôn ngữ để miêu tả hai nhân vật có điểm khác. Với Thuý Vân thì dùng “thua”,
“nhường”:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Còn Thuý Kiều thì dùng “ghen”, “hờn”:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
*Vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, một vẻ đẹp mà thiên nhiên (mây,tuyết) cũng
phải chòu thua, nhường! Nhưng chỉ đến mức ấy thôi, nghóa là ở trong vòng trời đất , vẫn trong
qui luật tự nhiên. Vẻ đẹp của Vân tạo sự hoà hợp, êm đềm với xung quanh . Vẻ đẹp này báo
hiệu tính cách ,số phận cuộc đời sau này của Thuý Vân là một cuộc đời êm ả, bình lặng.
*Vẻ đẹp của Thuý Kiều là vẻ đẹp sắc sảo mặn mà, khác nhiều với vẻ đẹp trang trọng hiền hoà
của Vân. Một vẻ đẹp đếùn độ “hoa ghen”, “liễu hờn”. Điều đó chứng tỏ nhan sắc Thuý Kiều đã

vượt ra ngoài khuôn khổ, ngoài tưởng tượng ,ngoài qui luật tự nhiên. Thiên nhiên ,tạo hoá có sự
ganh ghét , đố kò , báo hiệu một sự trả thù sau này của trời đất (thiên nhiên) đối với số phận của
Kiều .Hai từ ghen hờn đã báo trước cuộc đời Kiều chắc sẽ trải qua nhiều tai ương , bất hạnh.
Trong miêu tả, Nguyễn Du đã dự cảm về thân phận mỗi người trong tương lai : Thuý
Vân thì êm đềm phẳng lặêng, còn tương lai Thuý Kiều đầy sóng gió bất trắc.
CẢNH NGÀY XN (Đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên)
1- Phân tích bức tranh cảnh thiên nhiên ở bốn câu thơ đầu trong đoạn trích “Cảnh ngày xn”?
“Cảnh ngày xn” (Trích truyện Kiều - Nguyễn Du) là bức tranh thiên nhiên mùa xn cùng
với cảnh lễ hội xn nhộn nhịp, tươi vui. Trong dó, bốn câu đầu gợi tả khung cảnh mùa xn :
Ngày xn con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bơng hoa.
Hai câu đầu:
Ngày xn con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngồi sáu mươi
gợi tả mùa xn theo cách riêng. Trước hết hình ảnh “con én đưa thoi”là hình ảnh ẩn dụ nhân hóa
vừa gợi thời gian vừa gợi khơng gian, Hình ảnh chim én bay liệng trong bầu trời xn ất nhanh như
chiếc thoi chạy đi chạy lại trên khung dệt khơng những nêu lên nét đặc trưng của mùa xn (mùa
xn chim én về) mà còn gợi thời gian trơi đi rất nhanh (như thoi đưa), ngày xn , ngày vui trơi rất
nhanh. Cảm giác nuối tiêc thời gian thống hiện ở câu thơ “Thiều quang chín chục đã ngồi sáu
mươi” khi tác giả tả ánh sáng đẹp của mùa xn đã trải qua hơn sáu mươi ngày, đã hết tháng hai
sang tháng ba. Những số từ “chín chục, ngồi sáu mươi” cùng với từ “đã” nói lên điều ấy. Trong
tháng cuối cùng của mùa xn chim én vẫn rộn ràng bay liệng giữa bầu trời trong sáng.
Hai câu thơ tiếp theo không hoàn toàn là sáng tạo của Nguyễn Du. Ông đã tiếp thu và đổi
mới từ hai câu thơ cổ Trung Quốc :
Phương thảo thiên liên bích
Lê chi sổ điểm hoa
( cỏ non liền với trời xanh, tên cành lê có mấy bông hoa)
So với hai câu thơ xưa, rõ ràng hai câu thơ của Nguyễn Du trở thành một bức họa tuyệt đẹp về mùa

xuân:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Gam màu làm nền cho bức tranh xuân là thảm cỏ xanh non trải rộng tới chân trời . Trên cái nền
xanh dịu mát đó điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Câu thơ cổ Trung Quốc chỉ nói cành lê điểm
vài bông hoa mà không nói tới màu sắc của hoa lê. Nguyễn Du chỉ thêm một chữ “trắng” cho hoa
lê mà bức tranh xuân đã khác . Trong câu thơ của Nguyễn Du , chữ trắng đã thành điểm nhấn, làm
nổi bậc thần sắc của hoa lê, của bức tranh. Màu xanh của cỏ non và sắc trắng của hoa lê làm cho
màu sắc có sự hài hòa tới mức tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: “cỏ non”
mới mẻ, tinh khiết, giàu sức sống; “xanh tận chân trời” khoáng đạt trong trẻo; “trắng điểm một vài
bông hoa” thanh khiết. Chữ “điểm” làm cho cảnh vật trở nên sinh động, có hồn chứ không tĩnh tại.
Màu trắng –xanh hài hòa gợi cảm giác mênh mông mà không quạnh vắng, trong sáng mà tẻ
trung, nhẹ nhàng mà thanh khiết. Đúng là một bức họa tuyệt tác về cảnh ngày xuân trong sáng.
2- Hãy phân tích sáu câu cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”?
Sáu câu cuối trong đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” ghi lại cảnh chị em Thúy Kiều đi chơi xuân
đang dần bước trở về nhà. Mặt trời đã “tà tà” gác núi. Ngày hội ngày vui đã trôi qua nhanh:
Tà tà bóng ngã về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nhịp thơ chậm rải.Nhịp sống như ngừng trôi. Tâm tình thì “thơ thẩn”, cử chỉ thì “dan tay”, nhịp
chân thì “bước dần” . Một cái nhìn man mác, bâng khuâng: “lần xem” đối với cảnh vật. Tất cả đều
nhỏ bé: khe suối chỉ là “ngọn tiểu khê”, “dịp cầu nho nhỏ”; phong cảnh “thanh thanh”; dòng nước
“nao nao”. Cả một không gian êm đềm , vắng lặng.Tâm tình chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà
dương. Như đang đợi chờ một cái gì sẽ đến, sẽ nhìn thấy? Cặp mắt cứ “lần xem” gần xa:
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Tác giả đã sử dụng liên tiếp một loạt từ láy: “tà tà”, “thơ thẩn”, “thanh thanh”, “nao nao”,

việc dùng từ của thi nhân vừa chính xác vừa tinh tế , vừa có tác dụng gợi nhiều cảm xúc cho người
đọc. Các từ láy vừa gợi tả được hình ảnh sự vật, vừa thể hiện tâm trạng con người.Cảnh vẫn mang
cái thanh , cái dịu của mùa xuân : nắng nhạt, khe nước nhỏ, một dịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển
động đều nhẹ nhàng : mặt trời từ từ ngã bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn
quanh; tất cả nhạt dần , lặng dần. Cảnh ở đây được cảm nhận qua tâm trạng. Những từ láy “tà tà”,
“thanh thanh”, “nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người.
hai chữ “nao nao”(nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Nỗi niềm
man mác bâng khuâng thấm sâu , lan tỏa trong tâm hồn giai nhân đa tình , đa cảm. Cảm xúc bâng
khuâng, xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn mà sự linh cảm một điều xảy ra đã xuất hiện.
Dòng nước “nao nao” uốn quanh như báo trước ngay lúc này thôi Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên :
Sè sè nắm đất bên đường
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Sẽ gặp chàng thư sinh “phong tư tài mạo tót vời” – Kim Trọng.
Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng tưng nhưng rất sống động,
gần gũi, thân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. Không còn xa lạ vì “ngọn tiểu khê” ấy, “dịp
cầu nho nhỏ” ấy là màu sắc đồng q, là cảnh q hương đất nước mình. Tính dân tộc là một nét
đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là những vần thơ tả cảnh.
Đ oạn Mã Giám Sinh mua Kiều (Trích truyện Kiều – Nguyễn Du)
*Nét nội dung , nghệ thuật cơ bản của đoạn trích:
• Nộâi dung: Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trên cả hai phương diện: vừa lên
án những thế lực xấu xa tàn bạo , vừa thương cảm trước sắc đẹp, tài năng nhân
phẩm bò chà đạp.
• Nghệ thuật: miêu tả nhân vật phản diện bằng nét bút hiện thực, khắc họa tính
cách qua diện mạo cử chỉ ( khác với miêu tả nhân vật chính diện bằng bút pháp
nghệ thuật ước lệ có phần lí tưởng hóa nhân vật)
Câu hỏi:
1- Phân tích những nét ngoại hình và tính cách để làm nổi bật bản chất xấu xa
của Mã Giám Sinh?
Mã Giám Sinh được xem là một viễn khách (khách ở phương xa) đến nhà Kiều với mục đích
trang trong đẹp đẽ: vấn danh (hỏi tên tuổi người caon gái sẽ lấy làm vợ) :

Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
-Về lai lòch, tông tích không rõ ràng:ngườiø “viễn khách” mà quê “ cũng gần”; tên Mã
Giám Sinh nhưng Giám sinh đâu phải tên, mà chỉ chung chung người họ Mã, học trường Quốc tử
giám mà thôi! Không nói tên thật của mình.Cách giới thiêu như vậy phải chăng là có dụng ý lừa
dối mẹ con Thúy Kiều (lấy chồng gần , người có học, dù là làm lẻ cũng an ủi được phần
nào).Để chứng tỏ là giám sinh , hắn đến nha øKiều cũng có cả một đám tôi tớ theo sau, nhưng
cái cảnh:
Trước thầy sau tớ xôn xao
Cho thấy “thầy” và “tớ” đều là lũ người ô hợp ; từ láy “xôn xao” đã tả được bộ dạng hàng tôm,
hàng cá của y.
-Ngoại hình: Miêu tả ngoại hình Mã Giám Sinh, tác giả tác giả kết hợp giữa “chụp cận
cảnh” và “quay lướt”. Nguyễn Du chụp cận cản làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi , áo quần bảnh bao
Hắn đã ngoài bốn mươi tuổi tuổi đứng đắn , tuổi làm cha , làm ông mà đi hỏi vợ là hơi lạ
( nhưng ở đây là vợ bé, vợ lẽ -thiếp hay nàng hầu). Cái điều khiến ta nghi ngờ chính là cái
“mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” của hắn. Có cái gì đó làm dáng, làm đỏm quá đáng ,
kệch cỡm, khoe khoang lộ liễu không hợp với lứa tuổi .Ngoài ra, “mày râu nhẵn nhụi”, phải
chăng Nguyễn Du muốn nói hắn là đàn ông mà không râu là kẻ “vô nghì” ( kẻ bất nhân , bất
nghóa :đàn ông không râu vô nghì). Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn , phẳng lì.
o quần “bảnh bao” là áo quần trưng diện cũng thiếu tự nhiên Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ
bên ngoài của nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ấy càng
sâu cay hơn khi một người “trạc ngoại tứ tuần” lại tỉa tót công phu, lại tô vẽ cho mình ra dáng
trẻ.
-Nguyễn Du đã rất nhanh tay ghi lại (quay lướt) cái hành động:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
“Ghế trên” là ghế ở vò trí quan trọng, dành cho bậc cao niên , bậc huynh trưởng , bậc đáng
kính .Thế mà, Mã vừa vào nhà đả nhảy “tót” lên ngồi , hắn đã quên rằng mình là kẻ đi hỏi vợ,
bản chất con buôn của hắn đã bộc lộ, hắn cho rằng mình là kẻ bề trên , kẻ có tiền , muốn làm gì

chẳng đươc. “Tót” là hành động rất nhanh nhẹn .Khác với “tót vời” là tuyệt vời. Ngồi tót là một
hành động hết sức bất nhã của Mã Giám Sinh. Mã vô tình hay cố ý? Đó là bản chất thói quen
hay do sơ suất? Theo dõi Mã từ đầu, biết nguồn gốc của Mã, chúng ta dễ đoán rằng đây là
hành động theo thói quen của y, thói quen của kẻ hạ lưu, vô học, cậy mình có tiền chẳng coi ai
ra gì. Hành động “ngồi tót” là quá bất ngờ, quá nhanh,”ống kính” không nhanh, không nhạy thì
làm sao có thể ghi lại được.
-Nhàthơ cũng đã rất nhanh ghi lại cách nói năng cộc lốc của Mã ( cũng có thể là của mụ
mối):
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Câu trả lời nhát gừng, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi chỉ có thể là lời của kẻ vô
học hoặc hợm của , cậy tiền, của kẻ sợ nói nhiều lộ cái bòp bợm giả dối.
Với cách giới thiệu lai lòch , tông tích cũng như qua việc miêu tả ngoại hình , cử chỉ ,
ngôn ngữ của Mã Giám Sinh, nhà thơ đã lột trần bộ mặt hợm hónh, khoe của, bất lòch sự của một
tên “buôn người” bòp bợm ,gian ngoa.
- Về bản chất , Mã Giám Sinh là điển hình của bản chất con buôn lưu manh với đặc tính
giả dối, bất nhân và vì tiền Bản chất bất nhân , vì tiền của Mã Giám Sinh bộc lộ qua cảnh mua
bán Thúy Kiều.
+Mã bất nhân trong tâm lí lạnh lùng vô cảm, xem Kiều như đồ vật:
Mối càng vén tóc bắt tay
……….
Đắn đo cân sắt cân tài
p cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ
Nếu là lễ “vấn danh” thì làm gì có chuyện “vén tóc bắt tay” “đắn đo cân ép thử ”. Cảnh trên
là cảnh của kẻ đi mua hàng “người” cân nhắc để tính lời lãi. Dưới con mắt của Mã Giám Sinh,
Kiều tài sắc lúc này chỉ là một món hàng không hơn không kém để hắn kiếm chác. Mã đã gật
gù tán thưởng món lời:”Mặn nồng một vẻ một ưa”, chẳng khác gì cử chỉ đê tiện “lẩm nhẩm gật
đầu” của Sở Khanh sau này. Khi đã ưa, đã vừa ý món hàng, Mã mới tùy cơ dặt dìu, lựa lời nói
khách sáo văn hoa. Y trở về giọng điệu của chàng trai đi hỏi vợ:
Rằng:”Mua ngọc đến Lam Kiềup

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường
Vì sao Mã lại nói như vậy? Hẳn vì Mã đã khoe y là Giám sinh mà! Người có học phải nói văn
hoa khác người thường chứ! Tuy nhiên, cách nói hoàn toàn mâu thuẫn với chuỗi hành động trên
của Mã. Rồi ngay tiếp sau, khi nghe mụ mối phát giá, y bắt đầu mặêc cả, cò kè thêm bớt chi li
hồi lâu.Bản chất vì tiền của tên họ Mã thể hiện trong hành động mặc cả keo kiệt, đê tiện:
Cò kè bớt một thêm hai
Nếu trước đó, khi giành “ghế trên”, Mã vộ vàng “ngồi tót” thì lúc mua Kiều, hắn lại hết sức
chậm rãi, tính toán chi li, hết “đắn đo”, hết “thử tài” lại “cò kè”, “thêm”,”bớt”. Từ láy “cò kè”
đã lột tả chân dung và bản chất con buôn keo kiệt, dìm giá, đầy mánh lới của Mã. Y mặc cả
mãi , lâu lắm mới ngã giá chỉ còn non một nửa theo giá phát ban đầu của mụ mối. Mã xứng là
tay mua hàng sành sỏi. Cuối cùng, Mã nói vài câu hẹn ước các nghi lễ tiếp theo: nạp thái, vu
qui… nhưng thực chất là đònh ngày đưa người đi (lấy hàng)
Với bút pháp kết hợp giữa kể và tả, bằng một số nét phác họa về mối quan hệ mờ ám,
vẻ ngoài chải chuốt, nói năng vô lễ, cử chỉ vô học,hành động vô lương, Nguyễn Du đã khắc họa
sắc nét hình tượng Mã Giám Sinh, kẻ buôn ngươiø từ ngoại hình, đến tính cách, Mã giám Sinh đã
trở thành một điển hình bất hủ cho sự đê tiện, tàn ác.
2- Cảm nhận của em về hình ảnh Thúy Kiều qua đoạn trích “ Mã Giám Sinh mua
Kiều”? (xem SBT trang 44-45)
3-Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện qua đoạn trích “ Mã Giám Sinh mua
Kiều”?
-Tác giả tỏ thái độ khinh bỉ và căm phẫn sâu sắc bọn buôn người, đồng thời tố cáo thế lực đồng
tiền chà đạp lên con người:
+Qua cách miêu tả Mã Giám Sinh với cái nhìn mỉa mai châm biếm, lên án :bộ mặêt nhẵn nhụi,
quần áo bảnh bao không hợp với tuổi tứ tuần. Hành động “ghế trên ngồi tót”, gật gù tán thưởng
món hàng “ mặn nồng một vẻ một ưa”.
+Tố cáo thế lực đồng tiền đã biến con người tài sắc trở thành món hàng , để bọn buôn người
mua bán , kiếm chác. Thái độ ấy còn thể hiện qua lời nhận xét: “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng
xong” . Lời nhận xét có vẻ khách quan nhưng chứa đựng trong đó cả sự chua xót, căm phẫn.
Đồng tiền biến nhan sắc thành món hàng tủi nhục , biến kẻ tán tận lương tâm thành kẻ mãn
nguyện tự đắc. Thế lực đồng tiền với thế lực lưu manh, thế lực quan laiï đã hùa vào nhau tàn phá

gia đình Kiều, tàn phá cuộc đời Kiều.
-Nguyễn Du còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước thực trạng con người bò hạthấp, bò chà
đạp. Nhà thơ như hóa thân vào nhân vật để noiù lên nỗi đau đớn, tủi hổ của Thúy Kiều.
Đề: Nhận xét nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua hai đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” và
“Mã Giám Sinh mua Kiều” (Trích truyện Kiều)
Gợi ý bài làm
I- Giới thiệu truyện Kiều ,nêu nét đặc sắc nghệ thuật tả người (Truyện Kiều là kiệt tác của Nguyễn
Du , khơng những có giá trị về nội dung ,Truyện Kiều còn là kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học
dân tộc trên các phương diện ngơn ngữ, thể loại. Đặc biệt là nghệ thuật tả người , nhất là miêu tả và
khắc họa tính cách, tâm lý nhân vật. ¸nêu tên hai đoạn trích theo đề bài (qua hai đoạn trích “Chị em
Thúy Kiều” và Mã Giám Sinh mua Kiều” ta cũng cảm nhận được tài năng tả người cua Nguyễn Du)
II-
a/ Nhân vật trong truyện Kiều được chia làm hai tuyến : -Chính diện ( Thúy Kiều , Thúy Vân , Kim
Trọng, Từ Hải )- phản diện (Mã Giám Sinh, Tú bà, Hoạn Thư, Sơ Khanh )
b/ Cách miêu tả đối với nhân vật chính diện ( Trong đoạn “Chị em Thúy Kiều” ):
+Cách giới thiệu của tác giả đầy trân trọng và ưu ái. Khi giới thiệu chị em Thúy Kiều:
Đầu lòng hai ả Tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
+Khi miêu tả nhân vật chính diện thường là những con người lý tưởng , nên tác giả dùng bút pháp
ước lệ , tượng trưng:Nghóa là sử dụng những qui ước trong biểu hiện nghệ thuật như
dùng hình tượng thiên nhiên đẹp: trăng , hoa , ngọc, tuyết,….để nói về vẻ đẹp con
người. Để gợi lên vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng của người thiếu nữ :
Mai cốt cách , tuyết tinh thần
Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của Thúy Vân được so sánh với hình tượng thiên
nhiên, với những thứ cao đẹp trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc:
Vân xem trang trọng khác vời
Khn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng những hình tượng ước lệ:

Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm , liễu hờn kém xanh
Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sống động
vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt,…Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân
sơn” – nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi mày thanh tú trên giương mặt trẻ trung.
Cái tài của Nguyễn Du là tuy sử dụng bút pháp ước lệ nhưng chân dung hai chò
em Thúy Vân, Thúy Kiều hiện lên thật sinh động, đa dạng , “mỗi người một vẻ
mười phân vẹn mười”.
Khi miêu tả chân dung nhân vật là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ
đẹp của Thúy Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh, “mây thua”, “tuyết
nhường” nên nàng sẽ có cuộc đời bình lặng, suôn sẻ . Còn vẻ đẹp của Thúy Kiều
làm cho tạo hóa phải ghen ghét, các vẻ đẹp khác phải đố kò – “hoa ghen”, “liễu
hờn” – nên số phận nang phải éo le đau khổ.
-Sự tinh tế của tác giả là khi miêu tả nhân vật Thúy Kiều, tác giả miêu tả
chân dung Thúy Vân trước để làm nền nổi bật lên chân dung Thúy Kiều. Có thể coi
đây là thủ pháp nghệ thuậtï đòn bẩy. Nguyễn Du chỉ dành bốn câu để gợi tả Vân,
trong khi đó dành tới mười hai câu thơ để cực tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp của Vân
chủ yếu là ngoại hình, còn vẻ đẹp của Kiều là nhan sắc , tài năng , tâm hồn.
Thúy Vân, Thúy Kiều là những nhân vật chính diện nên khi miêu tả tác giả
chủ yếu tác giả dùng bút pháp ước lệ. Vì vẻ đẹp của hai chò em Kiều là vẻ đẹp lí
tưởng nên Nguyễn Du đã dùng những khuôn mẫu, ước lệ để diễn tả vẻ đẹp vượt ra
ngoài, vượt lên trên khuôn mẫu của tuyệt sắc giai nhân.
-“Chò em Thuý Kiều” là đoạn thơ miêu tả nhân vật vô cùng đặc sắc trong thơ
trung đại, một trong những nét đặc sắc ấy là việc sử dụng từ ngữ:
+Cách sử dụng ngôn ngữ để miêu tả hai nhân vật có điểm khác. Với Thuý
Vân thì dùng “thua”, “nhường”:
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Còn Thuý Kiều thì dùng “ghen”, “hờn”:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
*Vẻ đẹp của Vân là vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu, một vẻ đẹp mà thiên nhiên

(mây,tuyết) cũng phải chòu thua, nhường! Nhưng chỉ đến mức ấy thôi, nghóa là ở
trong vòng trời đất , vẫn trong qui luật tự nhiên. Vẻ đẹp của Vân tạo sự hoà hợp,
êm đềm với xung quanh . Vẻ đẹp này báo hiệu tính cách ,số phận cuộc đời sau này
của Thuý Vân là một cuộc đời êm ả, bình lặng.
*Vẻ đẹp của Thuý Kiều là vẻ đẹp sắc sảo mặn mà, khác nhiều với vẻ đẹp trang
trọng hiền hoà của Vân. Một vể đẹp đến độ “hoa ghen”, “liễu hờn”. Điều đó chứng
tỏ nhan sắc Thuý Kiều đã vượt ra ngoài khuôn khổ, ngoài tưởng tượng ,ngoài qui
luật tự nhiên. Thiên nhiên ,tạo hoá có sự ganh ghét , đố kò , báo hiệu một sự trả
thù sau này của trời đất (thiên nhiên) đối với số phậncủa Kiều .Hai từ ghen hờn đã
báo trước cuộc đời Kiều chắc sẽ trải qua nhiều tai ương , bất hạnh.
Trong miêu tả, Nguyễn Du đã dự cảm về thân phận mỗi người trong tương
lai : Thuý Vân thì êm đềm phẳng lặêng, còn tương lai Thuý Kiều đầy sóng gió bất
trắc.
Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt đẹp trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Kiều
bằng những vần thơ lục bát đẹp nhất. Ơng đã dành cho nhân vật bao tình cảm u mến, trân trọng
sâu sắc. Sự kết hợp tài tình bút pháp ước lệ tượng trưng, sử dụng các biện pháp tu từ, nhất là ẩn dụ ,
so sánh, một ngơn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình tượng và gợi cảm để vẽ nên bức chân dung mỹ
nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học cổ nước nhà. Thúy Kiều hiện lên với bao phẩm chất
tốt đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc.
c/ Đối với nhân vật phản diện :
+ Cách giới thiệu đầy khinh ghét :
Hỏi tên rằng:”Mã Giám Sinh”
Hỏi q rằng :”Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Nhà thơ cũng đã rất nhanh ghi lại cách nói năng cộc lốc của Mã ( cũng có thể
là của mụ mối).Câu trả lời nhát gừng, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi chỉ
có thể là lời của kẻ vô học hoặc hợm của , cậy tiền, của kẻ sợ nói nhiều lộ cái bòp
bợm giả dối.
Với cách giới thiệu lai lòch , tông tích cũng như qua việc miêu tả ngoại hình ,
cử chỉ , ngôn ngữ của Mã Giám Sinh, nhà thơ đã lột trần bộ mặt hợm hónh, khoe
của, bất lòch sự của một tên “buôn người” bòp bợm ,gian ngoa.

+ Dùng bút pháp tả thực :
Khi miêu tả Mã giám Sinh tác giả dùng các từ : nhẵn nhụi, bảnh bao ,xơn xao, cò kè
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi , áo quần bảnh bao
Hắn đã ngoài bốn mươi tuổi tuổi đứng đắn , tuổi làm cha , làm ông mà đi hỏi vợ là
hơi lạ ( nhưng ở đây là vợ bé, vợ lẽ -thiếp hay nàng hầu). Cái điều khiến ta nghi
ngờ chính là cái “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” của hắn. Có cái gì đó làm
dáng, làm đỏm quá đáng , kệch cỡm, khoe khoang lộ liễu không hợp với lứa tuổi
.Ngoài ra, “mày râu nhẵn nhụi”, phải chăng Nguyễn Du muốn nói hắn là đàn ông
mà không râu là kẻ “vô nghì” ( kẻ bất nhân , bất nghóa :đàn ông không râu vô
nghì). Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn , phẳng lì. o quần “bảnh
bao” là áo quần trưng diện cũng thiếu tự nhiên Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ bên
ngoài của nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích
ấy càng sâu cay hơn khi một người “trạc ngoại tứ tuần” lại tỉa tót công phu, lại tô
vẽ cho mình ra dáng trẻ.
-Nguyễn Du đã rất nhanh tay ghi lại cái hành động:
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
“Ghế trên” là ghế ở vò trí quan trọng, dành cho bậc cao niên , bậc huynh trưởng ,
bậc đáng kính .Thế mà, Mã vừa vào nhà đả nhảy “tót” lên ngồi , hắn đã quên rằng
mình là kẻ đi hỏi vợ, bản chất con buôn của hắn đã bộc lộ, hắn cho rằng mình là
kẻ bề trên , kẻ có tiền , muốn làm gì chẳng đươc. “Tót” là hành động rất nhanh
nhẹn .Khác với “tót vời” là tuyệt vời. Ngồi tót là một hành động hết sức bất nhã
của Mã Giám Sinh. Mã vô tình hay cố ý? Đó là bản chất thói quen hay do sơ suất?
Theo dõi Mã từ đầu, biết nguồn gốc của Mã, chúng ta dễ đoán rằng đây là hành
động theo thói quen của y, thói quen của kẻ hạ lưu, vô học, cậy mình có tiền chẳng
coi ai ra gì. Hành động “ngồi tót” là quá bất ngờ, quá nhanh, khơng tinh làm sao ghi
lại được cái cảnh , hành động ấy của tên họ Mã.
Trong cảnh mua bán :
Về bản chất , Mã Giám Sinh là điển hình của bản chất con buôn lưu manh với đặc
tính giả dối, bất nhân và vì tiền Bản chất bất nhân , vì tiền của Mã Giám Sinh

bộc lộ qua cảnh mua bán Thúy Kiều.
+Mã bất nhân trong tâm lí lạnh lùng vô cảm, xem Kiều như đồ vật hắn “đắn đo” ,
“cân” ,”thử’, “ép” đủ điều.Bản chất vì tiền của tên họ Mã thẻ hiện trong hành động
mặc cả keo kiệt, đê tiện:
Cò kè bớt một thêm hai
Nếu trước đó, khi giành “ghế trên”, Mã vộ vàng “ngồi tót” thì lúc mua Kiều,
hắn lại hết sức chậm rãi, tính toán chi li, hết “đắn đo”, hết “thử tài” lại “cò kè”,
“thêm”,”bớt”. Từ láy “cò kè” đã lột tả chân dung và bản chất con buôn keo kiệt, dìm
giá, đầy mánh lới của Mã. Y mặc cả mãi , lâu lắm mới ngã giá chỉ còn non một nửa
theo giá phát ban đầu của mụ mối. Mã xứng là tay mua hàng sành sỏi. Cuối cùng,
Mã nói vài câu hẹn ước các nghi lễ tiếp theo: nạp thái, vu qui… nhưng thực chất là
đònh ngày đưa người đi (lấy hàng)
Với bút pháp kết hợp giữa kể và tả, bằng một số nét phác họa về mối quan
hệ mờ ám, vẻ ngoài chải chuốt, nói năng vô lễ, cử chỉ vô học,hành động vô lương,
Nguyễn Du đã khắc họa sắc nét hình tượng Mã Giám Sinh, kẻ buôn ngươiø từ ngoại
hình, đến tính cách, Mã giám Sinh đã trở thành một điển hình bất hủ cho sự đê
tiện, tàn ác.
Qua nhân vật Mã Giám Sinh ,ta càng thấy rõ bút pháp tả thực trong nghệ thuật tả người của
Nguyễn Du. Nét nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách xấu xa, đồi bại của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi
tiết nghệ thuật nào cũng sống , đằng sau nét vẽ là thái độ khinh bi của nhà thơ đối với con người bạc
ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án
bọn bn thịt bán người vơ nhân đạo, đạo dức giả trong xã hội phong kiến suy tàn.
d/ Nhận xét chung:
- Khi miêu tả ngoại hình nhân vật : Nguyễn Du đã tạo nên những diện mạo đặc sắc. Đạt được kết
quả ấy là do Nguyễn Du miêu tả từ cách phục sức, hình dung diện mạo, thái độ cử chi, đặc biệt
là lời ăn tiếng nói riêng biệt của từng nhân vật , từng loại người. Khi miêu tả những nhân vật
chính diện, Nguyễn Du có sử dụng thi liệu, ngơn ngữ cơng thức , ước lệ có sẵn nhưng đối với
những nhân vật phản diện, Nguyễn Du đã lấy chất liệu sinh động từ hiện thực cuộc sống.
Miêu tả nội tâm: Nguyễn Du lấy bản chất nhân vật làm yếu tố trung tâm khi xây dựng nhân vật.
Ngoại hình của nhân vật bao giờ cũng dựa trên bản chất con người. Nàng Kiều xinh đẹp, dun

dáng cũng là nàng Kiều thơng minh, trong trắng giàu tình cảm. Mã Giám Sinh một tên bn người
bịp bợm, tàn nhẫn thì lời lẽ cộc lốc , dối trá, cử chỉ thơ lỗ ỷ mình có tiền, trả giá thì “cò kè” Khác
với một số truyện Nơm khác (như Lục Vân Tiên ) thường thiên về miêu tả hành động và sự việc,
Nguyễn Du rất quan tâm đến việc tả tình khi xây dựng nhân vật. Với cái nhìn sắc sảo và ngòi bút
tài tình, Nguyễn Du đã khắc họa được những nét tâm lý, những tính cách rất chân thực và sinh
động.
III- Kết hợp đúng mức những yếu tố nghệ thuật cổ truyền và tài năng sáng tạo của một nghệ sĩ thiên
tài khi miêu tả nhân vật, Nguyễn Du đã tạo ra những nhân vật sống , đã trở thành những điển hình
bất hủ của cuộc sống xã hội Việt Nam.
Đoạn trích: KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH (Tryện Kiều – Nguyễn Du)
Đặc điểm nghệ thuật: +Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại.
+Tả cảnh ngụ tình.
*Ngôn ngữ nhân vật: có hai hình thức tồn tại
-ngôn ngữ độc thoại :thường là lời nói thầm bên trong,
nhân vật tự nói với chính mình.
-ngôn ngữ đối thoại là lời nhân vật được bộc lộ ra bên
ngoài, đối thoại với nhân vật khác.
*Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: là mượn cảnh vật để gửi gắm(ngụ) tâm trạng. Cảnh ở đây
không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh ở đây là
phương tiện miêu tả còn tâm trạng là mục đích miêu tả.
(so sánh với đoạn “Cảnh ngày xuân” – đơn thuần tả cảnh; còn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” –tả
cảnh ngụ tình).
Câu hỏi:
2- Nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình giống và khác nhau như thế nào?
3- Phân tích những điểm thành công trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du ở
đoạn trích “Cảnh ngày xuân” và tả cảnh ngụ tình trong tám câu cuối đoạn “Kiều ở lầu
Ngưng Bích”?
Trả lời:
1- Nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:
+Giống nhau: ở tả cảnh

+Khác nhau :ở ngụ tình
-Nghệ thuật tả cảnh đơn thuần thì đối tượng, mục đích miêu tả là thiên nhiên, tác giả tực
tiếp miêu tả cảnh vật.
-Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là mượn cảnh vật để gửi gắm (ngụ) tâm trạng. Cảnh khi ấy
không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Cảnh là phương
tiện miêu tả còn tâm trạng là mục đích miêu tả.
Đoạn “Cảnh ngày xuân” là tả cảnh còn đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là tả cảnh ngụ
tình.
2- Phân tích:
a/ Đoạn “ Cảnh ngày xuân”
-Giới thệu đoạn thơ: “Cảnh ngày xuân” là đoạn thơ trích trong phần đầu của “truyện Kiều” –
Nguyễn Du có những điểm thành công trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du
-Phân tích:
+Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian, rất phù hợp với cuộc du xuân của chò em Thúy
Kiều:
*Bốn câu đầu gợi tả khung cảnh ngày xuân.
*Tám câu tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.
*Sáu câu cuối là cảnh chò em Kiều du xuân trở về.
Kết cấu theo thời gian này cũng phù hợp với diễn biến tâm trạng con người trong cuộc du xuân.
+Tác giả sử dụng rất thành công bút pháp nghệ thuật kết hợp giữa tả và gợi:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Vừa miêu tả thời gian vừa gợi không gian mùa xuân.Ngày xuân thấm thoắt trôi mau, tiết trời đã
bước sang tháng ba. Trong tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh chim én vẫn rộn ràng
bay liệng giữa bầu trời trong sáng như thoi đưa.
+Để gợi không khí lễ hội thật rộn ràng , một loạt từ hai âm tiết(cả từ ghép và từ láy) là tính từ,
danh từ, động từ xuất hiện :gần xa, nô nức, yến anh, chò em,tài tử, giai nhân, sắm sửa, dập dìu,…
Cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” gợi lên hình ảnh những nam thanh nữ tú, những tài tử giai
nhân, từng đoàn người nhộn nhòp đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít .
+Chỉ bằng vài nét gợi tả mà khung cảnh chiều xuân hiện lên thật rõ nét :nắng nhạt, khe nước

nhỏ, một nhòp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng: mặt trời từ từ ngã bóng về
tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Tất cả đều nhạt dần, lặng dần. Những từ
láy:”tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm
trạng con người. Hai chữ “nao nao”(nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên
cảnh vật.
-Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du : kết hợp bút pháp tả và gợi, sử dụng từ ngữ
giàu chất gợi hình để miêu tả cảnh ngày xuân với những đặc điểm riêng. Tác giả miêu tả cảnh
mà nói lên được tâm trạng nhân vật.
b/ Tám câu cuối trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
-Cảnh trong truyện Kiều vừa là bức tranh thiên nhiên vừa là bức tranh tâm trạng.Đoạn:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
……………… tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Là một trong những đoạn thơ tiêu biểu nhất cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình , mêu tả kết hợp hài
hòa giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.
-Bao trùm tâm trạng kiều khi ở lâu Ngưng Bích là một nỗi buồn: buồn nhớ người yêu,
buồn nhớ cha mẹ và buồn cho chính mình. Để diễn tả một tâm trạng ôm trọn ba nỗi buồn với
những sắc thái không giống nhau, Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện “tình trong cảnh”.Mỗi
biểu hiện của cảnh vật là một tâm trạng buồn:
+Khi nhớ cha mẹ , quê hương và cũng thấm thía nỗi cô đơn trống vắng của mình,thì:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
+Khi nhớ người yêu, xót xa cho duyên phận thì:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
+Khi buồn cho cảnh ngộ của mình:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
+Lúc Kiều trong tâm trạng lo âu, dự cảm về tương lai hiểm nguy đón đợi phía trước thì
hiện ra cảnh tượng hãi hùng:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

m ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua con mắt và tâm trạng của Kiều: cảnh từ xa đến gần,màu
sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tónh đến động, nỗi buồn Kiều từ man mác, mông lung đến lo
âu, kinh sợ.
“Gió cuốn” , sóng “ầm ầm”kêu quanh ghế ngồi” là cảnh hãi hùng nhất, báo hiệu số
phận của Kiều sau đó:mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào đời “thanh lâu”.
-Điệp ngữ “buồn trông” mở đầu câu thơ sáu chữ,tạo âm hưởng trầm buồn. Là điệp khúc
của cái nhìn với cảnh, cũng là điệp khúc của tâm trạng, một tâm trạng nặng nề và kéo dài.
Có thể nói dưới ngọn bút của Nguyễn Du, hình tượng thiên nhiên cùng một lúc đảm
nhận hai chức năng: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm cảnh. Ở chức năng thứ hai, hình tượng
thiên nhiên là phương tiện nghệ thuật đặc sắc để Nguyễn Du miêu tả nội tâm và khắc họa tính
cách nhân vật.
3- Câu hỏi tích hợp: Phân biệt nghóa các từ: man mác, tan tác và giải thích cụm từ “hoa
trôi man mác” là trôi thế nào? Tại sao nói từ man mác là từ tả tâm trạng Kiều chứ không phải
là hình dáng hoa?
(man mác:(cảnh vật, màu sắc )chiếm cả một khoảng không bao la, như trải ra trong không gian
vắng lặng, gợi tâm trạng cô đơn – có tâm trạng lâng lâng, đượm buồn – tan tác : rời rã , tả tơi
mỗi nơi một mảnh – hoa trôi man mác : trôi trong một không gian rộng vắng lặng – man mác từ
tả tâm trạng buồn , cô đơn chứ không phải tả hình dáng hoa).
Đề tổng hợp: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong sách giáo khoa NV9, tập một,em
hãy phân tích nhân vật Thúy Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của truyện Kiều.
Gợi ý làm bài
Gợi ý:
*Phải xác định giá trị nhân đạo của Truyện Kiều là gì?
+ Tiếng nói thương cảm sâu sắc trước số phận bi kịch
+Là tiếng nói khẳng định , ca ngợi con người
+Đề cao những khát vọng chân chính của con người.
*Những nội dung trên toát từ hình tượng Thúy Kiều như thế nào?
+ (Thương cảm)Số phận bi kịch của Thúy Kiều : 2 bi kịch lớn - Mối tình lý tương nhưng tan
vỡ - Kiều có ý thức về nhân phẩm nhưng bị chà đạp về nhân phẩm.

+Kiều là hiện thân vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa , tâm hồn (tiếng nói khẳng định , ca ngợi con
người)
+Kiều là hiện thân cua khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc và khát vọng về
quyền sống.
Dàn ý Nội dung cụ thể
I-MB:
-Giới thiệu truyện Kiều
-Nêu giá trị nội dung nhân đạo
thể hiện qua nhân vật Thúy
Kiều
II- TB:
(Lần lược phân tích các nội
dung:)
1-Truyện Kiều là tiếng nói
cảm thương sâu sắc trước số
phận bi kịch:
Nhân vật Thúy Kiều là hiện
thân những bi kịch của người
phụ nữ trong xã hội phong
kiến:
+Có mối tình lý tưởng nhưng
bị tan vỡ.
+Kiều có ý thức về nhân phẩm
(nàng luôn tìm cách vươn lên
và thoát ra khỏi chốn bùn nhơ)
nhưng bị chà đạp về nhân
phẩm (nang bị dìm xuống sâu
hơn)
I-
(Phần mở bài viết thành một đoạn văn có 2 ý):

-Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc. Truyện Kiều của ông
là kiệt tác của nền thơ ca cổ, sáng ngời tinh thần nhân đạo.
-Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều thể hiện ở tiếng nói cảm thương
sâu sắc trước số phận bi kịch, tiếng nói khẳng định, ngợi ca con
người và những khát vọng chân chính của con người. Tiếng nói
nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng Thúy Kiều.
II-
1- Trước hết,Truyện Kiều là tiếng nói cảm thương sâu sắc trước
số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nhân
vật Thúy Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ. Đời
Kiều là “tấm gương oan khổ”, chịu đủ những bi kịch. Tuy nhiên,
hai bi kịch lớn nhất của Kiều là bi kịch tình yêu bị tan vỡ và bi
kịch bị chà đạp về nhân phẩm.
+ Mối tình Kim - Kiều là một mối tình của tình yêu lý
tưởng. Đó là mối tình giữa “Người quốc sắc kẻ thiên tài”, nhưng
cuối cùng “Giữa đường đứt gánh tương tư”, “ nước chảy hoa
trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ không bao giờ hàn gắn được,
“màn đoàn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm
mưa sầu”.
+Kiều đau đớn cùng cực vì thình yêu tan vỡ và nhất là giá
trị , phẩm chất trong sạch của nàng bị xúc phạm. Khi mối tình
đầu đẹp đẽ vừa chớm nở thì cũng chính ngay sau đó Kiều phải trao
duyên lại cho em , đành từ bỏ Kim Trọng để bán mình chuộc cha
cứu gia đình (bị vu oan giá họa để làm tiền của bọn quan lại). Nàng
trở thành món hàng để kẻ buôn người họ Mã “Cò kè bớt một thêm
hai”, thất thân với tên buôn người bịp bợm , tàn ác này, để rồi
phải :
Thanh lâu hai lược, thanh y hai lần.
Và Kiều đã tìm mọi cách để thoát khỏi cuộc sống nhục nhã đau
đớn ấy. Khi biết bị lừa vào lầu xanh ,nàng tự vận nhưng không

2- Nội dung thứ hai: Khẳng
định ca ngợi những vẻ đẹp của
con người:
+Tài sắc của Thúy Kiều
+Tâm hồn :trong trắng ,thủy
chung (mối tình Kim-Kiều),
giàu lòng vị tha, nhân hậu
(Đ/v cha mẹ, với người yêu,
với những người mình mang
thành, theo Sở Khanh để thoát khỏi chốn thanh lâu, lại bị đánh đập
hành hạ và phải vào lầu xanh lần thứ nhất. Biểu hiện nỗi đau xót
của Kiều là:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Có nỗi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân phẩm, luôn ý
thức về nhân phẩm mà cuối cùng tuyên bố từ bỏ nhân phẩm, “xin
chừa”?
Lấy Thúc Sinh ,chấp nhận làm vợ lẻ để khỏi phải làm gái lầu xanh
thì rơi vào tay mẹ con Hoạn Thư. Nàng bị đánh đập , hành hạ và
trở thành Hoa nô,làm kẻ ở , người hầu.Chế độ đa thê, sản phẩm
của giai cấp phong kiến, tất nhiên cũng không thể bảo vệ hạnh
phúc cho những kẻ “sắn bìm chút phận con con” như nàng . Trốn
khỏi nhà Hoạn Thư , thì lại bị bán vào lầu xanh lần hai, lấy Từ Hải
thì bị Hồ Tôn Hiến lừa và trở thành kẻ giết chồng, Mỗi lần tìm
cách vươn lên để thoát ra thì nàng bị dìm xuống sâu hơn.
Thân thế trầm luân của Kiều là kết quả tất yếu của một xã hội do
thế lực hắc ám thống trị. Cuộc đời người con gái có nhan sắc
“nghiêng nước ,nghiêng thành”, có tài hoa “pha nghề thi họa đủ
mùi ca ngâm”, có tâm hồn tình cảm trong trắng nồng nàn ấy rút
cục cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa sầu”. Kiều đã trải qua

hầu hết những kiếp đời đau khổ , tủi nhục của người phụ nữ dưới
chế độ phong kiến: tình duyên tan vỡ, làm gái lầu xanh, làm nô tì,
làm vợ lẻ, đi tu, bị làm nhục khi chồng (Từ Hải) vừa chết Nhà
thơ vĩ đại giàu lòng nhân đạo đã tổng kết cuộc đời ấy bằng những
lời thơ đau xót:
Thương thay cũng một kiếp người
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân
2- Thúy Kiều không chỉ xuất hiện với tư cách là một nạn nhân đau
khổ mà còn là hiện thân của vẻ đẹp, nhan sắc, tài hoa, tâm hồn.
+ Sắc và tài của Kiều đạt tới mức lý tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài
năng của Kiều , Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ của văn
học cổ có phần lý tưởng hóa để trân trọng một vẻ đẹp “Hoa ghen
thua thắm, liễu hờn kém xanh” . Đẹp đến độ “nghiêng nước
nghiêng thành” . Và tài “Sắc đành đòi một tài đành họa hai” .
Kiều thông minh , đa tài - cầm, kỳ, thi, họa.
+Cái thông minh tài hoa của Kiều cũng chính là sự biểu hiện
phong phú của một trái tim nồng nàn yêu đương, sôi nổi, một
tấm lòng giàu vị tha. Nàng dám yêu thương sôi nổi của một cô gái
sống cách đây mấy trăm năm, khi quan hệ chân chính giữa nam nữ
thanh niên còn bị ngăn cấm bỡi muôn vàn luật lệ khắt khe của chế
độ phong kiến . Chỉ mới gặp gỡ, nàng đã để trái tim rung động
trước hình ảnh một chàng trai xa lạ, với những ước mơ thầm kín
nhưng vô cùng tha thiết:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không!
Mối tình vượt lễ giáo phong kiến cũng là một mối tình rất trong
sạch, thủy chung. Kiều chính là người phụ nữ ngay thẳng trong
sạch. Yêu đương sôi nổi nhưng nàng cũng biết giữ những bước đi

quá trớn có hại cho tình yêu.
ơn)
3-
+Khát vọng tình yêu tự
do,hạnh phúc (yêu Kim
Trọng)
+Khát vọng về quyền sống
(việc Kiều báo ân ,báo oán)
III-KL : Khẳng định lại giá trị
nhân đạo qua nhân vật Kiều
+Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương còn thể hiện ở
tấm lòng vị tha nhân hậu. Nàng hy sinh tình yêu để cứu gia đình,
cha mẹ. Khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích của mụ Tú Bà, nàng
như quên mình ,nghĩ về người khác. Kiều nhớ tới cha mẹ với
những tình cảm chân thực. Nàng tưởng bóng dáng tội nghiệp “tựa
cửa hôm mai” của người đã sinh dưỡng nàng. Kiều day dứt không
nguôi vì nỗi không chăm sóc được cha mẹ già : “Quạt nồng ấp
lạnh những ai đó giờ”.Thúy Kiều “tưởng” Kim Trọng “rày trông
mai chờ”, day dứt vì như mình đã phụ bạc người yêu “tấm son gọt
rửa bao giờ cho phai” . Kiều còn là người chí nghĩa chí tình “Ơn
ai một chút chẳng quên”. Khi có điều kiện, hậu tạ những người đã
cưu mang mình, nàng thấy những công ơn đó không gì có thể đền
đáp nổi:
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân.
3- Kiều còn là hiện thân của khát vọng tình yêu tự do, khát vọng
hạnh phúc và khát vọng về quyền sống.
+Khát vọng tình yêu tự do đầy màu sắc lãng mạn đựợc thể hiện
qua mối quan hệ Thúy Kiều-Kim Trọng. Nguyễn Du đã dành tất cả
tài năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm có một

không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Mối tình Kim-Kiều
vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do, chủ động của
hai người . Khác với nhiều phụ nữ xưa chịu sự sắp đặt của cha mẹ,
Kiều chủ động đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều
táo bạo, chủ động đồng thời cũng thủy chung như nhất trong tình
yêu.
+Khát vọng về quyền sống về hạnh phúc đã đưa Kiều trở thành
đại diện cho con người bị áp bức vùng lên làm chủ số phận của
mình trong tư thế chiến thắng, tư thế chính nghĩa.
Nàng rằng: lồng lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta
Ở đâyThúy Kiều đã gặp gỡ bao người phụ nữ bị áp bức khác cũng
vùng lên đòi quyền sống, đòi lẽ công bằng, trừng trị kẻ ác trong
Tấm Cám, trong Thạch Sanh và trong nhiều truyện Nôm khuyết
danh khác , về căn bản không có gì khác nhau, chỉ khác là một bên
còn mượn những yếu tố thần linh phù tợ, còn một bên đã vươn tới
tư tưởng tự con người quyết định theo công lý của mình.
III-
Với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du nhà nhân đạo chủ nghĩa rất
mực yêu thương, rất mực trân trọng , rất mực đề cao con người, đề
cao những khát vọng chân chính của con người
*Ý kiến về từ “vâng” trong câu thơ “Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm” :
-Xét về mặt logic : ở trên “ đáng giá nghìn vàng” ( vàng ở đây có thể hiểu theo nghĩa ẩn
dụ là rất quí) , nhưng ở đây mụ mối ra giá nên có thể hiểu một cách thô thiển là Thúy
Kiều được đưa ra giá mua bán cụ thể là “nghìn lạng vàng” ( vì ở trước Nguyễn Du cũng
đã nói đến số lượng này rồi (có ba trăm lạng việc này mới xong).
- Về mạch kể : nếu dùng “vâng” thì “ngoài bốn trăm” là lời của Mã Giám Sinh chứ
không phải là lời của tác giả kể lại sự việc.
Nên theo thiển ý của tôi nên dùng từ “vàng” như sách giáo khoa trước kia đã sử dụng là
hợp lý hơn là dùng từ “vâng” trong sách giáo khoa hiện nay.

×