Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thực trạng và giải pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.26 KB, 78 trang )


1
LỜI MỞ ĐẦU

Khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam trong đó phần lớn bao gồm các
doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng được coi là đóng vai trò quan trọng đối với
việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà Việt Nam đã đạt được trong thập
niên vừa qua. Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần
khẳng định tầm quan trọng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực kinh
tế tư nhân trong các chiến lược phát triển của mình, đặc biệt là về phương diện
tạo công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo. Trong những năm vừa qua đã có
một loạt những cải cách mang lại những kết quả đáng khích lệ như Luật Doanh
nghiệp (năm 2000) và Nghị định Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (năm
2001), tạo một môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
khu vực tư nhân.
Mặc dù môi trường hoạt động đã dần được cải thiện, các doanh nghiệp
nhỏ và vừa trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong
quá trình tăng trưởng. Các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được hưởng một sân
chơi bình đẳng với các doanh nghiệp nhà nước. Những hạn chế về khả năng tiếp
cận nguồn vốn tín dụng và công nghệ hiện đại vẫn là những rào cản làm chậm
lại tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới
thành lập đồng thời cũng thiếu công cụ quản lý hiện đại, khả năng tiếp cận thông
tin và các mối liên hệ với các thị trường xuất khẩu.
Có thể nói Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 và Luật
khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) mới có hiệu lực từ năm 1999 đã có
những đóng góp đáng kể cho việc thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, giải
phóng sức sản xuất, khơi dậy nhiều tiềm năng, phát triển hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Số lượng các doanh nghiệp mới thành lập trong cả nước tăng lên
nhanh chóng, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế này đang giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế như
tạo thêm việc làm, thu hút vốn vào sản xuất, kinh doanh, tăng thêm thu nhập và



2
đa dạng hóa thu nhập dân cư, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, làm cho nền
kinh tế năng động và hiệu quả hơn, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn khiêm tốn, chưa
tương xứng với tiềm năng và yêu cầu. Có tình trạng đó là do những tồn tại như
môi trường đầu tư chưa thông thoáng, thủ tục còn nhiều phiền hà, mức độ hỗ trợ
và ưu đãi đầu tư chưa thật hấp dẫn.
Vì vậy, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở
nước ta trong thời gian tới, em chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng và giải
pháp cho việc đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay”. Đề tài gồm có các phần sau:
- Mục lục
- Lời mở đầu
- Phần 1: Lý luận chung
- Phần 2: Thực trạng đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Phần 3: Phương hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong
thời gian tới
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo









3

PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG

I. Đầu tư và đầu tư phát triển
1. Khái niệm

Xuất phát từ phạm vi tác dụng của các kết quả hoạt động đầu tư, chúng ta
có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Theo nghĩa rộng, đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại
để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất
định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Như vậy, mục đích của việc đầu tư là thu được cái gì đó lớn hơn những gì
mà mình đã bỏ ra. Do vậy, nền kinh tế không xem những hoạt động như gửi tiền
tiết kiệm là hoạt động đầu tư vì nó không làm tăng của cải cho nền kinh tế mặc
dù người gửi vẫn có khoản thu lớn hơn so với số tiền gửi. Từ đó, người ta biết
đến một định nghĩa hẹp hơn về dầu tư hay chính là định nghĩa về đầu tư phát
triển.
Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu
trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng và đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thương xuyên gắn liền với sự hoạt động của
các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo
tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của các
thành viên trong xã hội.
Trước đây, theo quan niệm truyền thống, vốn đầu tư phát triển chỉ là
những chi phí bằng tiền dùng cho việc xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại và
khôi phục tài sản cố định trong nền kinh tế. Như vây, về thực chất, vốn đầu tư
phát triển chỉ gồm những chi phí trực tiếp làm tăng tài sản cố định. Theo khái

4

niệm đầu tư phát triển vừa nêu ở trên, vốn đầu tư phát triển dược quan niệm là
những chi phí bỏ ra găn liền với việc làm tăng thêm tài sản cho toàn xã hội.
Nghĩa là, vốn đầu tư phát triển ngoài vai trò làm tăng tài sản cố định còn làm
tăng tài sản lưu động, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân
cư, mặt bằng dân trí, bảo vệ môii trường sinh thái,... Nói cách khác, vốn đầu tư
phát triển có thể chia thành các nội dung cơ bản sau: vốn đầu tư xây dựng cơ
bản và sửa chữa lớn tài sản cố định; vốn lưu động bổ sung; vốn đầu tư phát triển
khác. Trong đó, vốn đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Hoạt động đầu tư diễn ra một cách sôi nổi và thường xuyên từ những hoạt
động lớn đến những hoạt động trưởng chừng như bình thường: Nhà nước đầu tư
xây dựng cầu đường, một gia đình cho con đi học, một doanh nghiệp mua thêm
máy móc để sản xuất thêm sản phẩm...
Trong phạm vi nghiên cứu còn hạn hẹp, đề tài xin đi sâu vào phân tích
hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp nhỏ và vừa - một lực lượng đông đảo có
những đóng góp lớn vào công cuộc đầu tư phát triển của nền kinh tế.

2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư

Hoạt động đầu tư phát triển là một hoạt động mang tính quyết định đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, mỗi quốc gia cũng như
toàn thế giới. Sở dĩ như vậy là do đầu tư phát triển có những đặc điểm riêng có
khác biệt với những loại hình đầu tư khác.

Thứ nhất, hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một lượng vốn rất lớn, lại
nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Điều này cũng đồng nghĩa
với việc đã đem vốn đầu tư vào dự án này thì không thể sử dụng vốn đó cho một
dự án khác. Đặc điểm này của hoạt động đầu tư buộc các nhà đầu tư phải suy
nghĩ, cân nhắc rất kỹ trước khi lựa chon dự án và đưa ra quyết định đầu tư.



5
Thứ hai, thời gian tiến hành hoạt động đầu tư và kết quả của hoạt động
đầu tư phát huy tác dụng lâu dài. Để có được một tài sản cố định có thể phát huy
tác dụng một cách độc lập trong nền kinh tế thì cần một khoảng thời gian rất dài.
Ví dụ: để xây dựng một nhà máy sản xuất mới, chủ đầu tư phải trải qua nhiều
giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư với rất nhiều công việc.
Nhưng bù vào đó, nhà máy lại có thể hoạt động trong một thời gian dài đủ cho
nhà đầu tư thu hồi lại những chi phí đã bỏ ra, đồng thời có được một khoản lợi
nhuận hợp lý. Thêm vào đó là những thành quả của hoạt động đầu tư phát triển
có giá trị sử dụng lâu dài, thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc
nổi tiếng thế giới như Kim Tự Tháp ở Ai Cập, nhà thờ La Mã ở Rome, vạn lý
trường thành ở Trung Quốc... Điều này nói lên giá trị to lớn của các thành quả
đầu tư phát triển.

Do hoạt động đầu tư phát triển cần lượng vốn lớn và tồn tại lâu dài nên nó
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Có những yếu tố đã được nhận dạng, tính toán
từ trước, nhưng cũng có những yếu tố bất định xảy ra bất ngờ, không thể lường
trước được. Những yếu tố này tác động đến hoạt động đầu tư theo hai chiều
hướng: tích cực và tiêu cực. Thông thường những tác động tích cực thì ít mà tác
động tiêu cực thì nhiều, gây ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc đầu tư. Từ
việc thời gian để tiến hành hoạt động đầu tư đến thời gian vận hành kết quả đầu
tư để thu hồi đủ vốn kéo dài làm cho công cuộc đầu tư chịu ảnh hưởng rất nhiều
của yếu tố tự nhiên, chính trị, xã hội, kinh tế... Hoạt động đầu tư còn chịu tác
động mạnh mẽ của yếu tố địa hình nơi công cuộc đầu tư được tiến hành bởi một
đặc điểm riêng có của hoạt động đầu tư là kết quả vận hành ngay tại nơi sản
xuất, xây dựng.
Với những đặc điểm nêu trên, hoạt động đầu tư yêu cầu chủ đầu tư cũng
như toàn bộ nền kinh tế phải quan tâm đến rất nhiều vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội, tự nhiên... để hoạt động đầu tư có thể diễn ra đúng như kế hoạch và mang
lại kết quả như mong muốn.


6
3. Vai trò của đầu tư
Như trên đã phân tích, đầu tư là hoạt động hy sinh nguồn lực ở hiện tại để
có thể thu lại những kết quả cao hơn trong tương lai. Thực tế thế giới và tình
hình Việt Nam từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung đến nền kinh tế thị trường đã
chứng minh nếu không có đầu tư phát triển thì không có sự tăng trưởng và phát
triển, nền kinh tế sẽ lâm vào thoái trào và đình trệ, đời sống người dân sẽ ngày
càng nghèo khó... Trong thời đại hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi
đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế và là chìa khóa của
sự tăng trưởng, hội nhập vào nền kinh tế chung của khu vực cũng như toàn thế
giới. Đầu tư phát triển có những vai trò vô cùng quan trọng đối với toàn bộ nền
kinh tế nói chung cũng như mỗi doanh nghiệp nói riêng.

3.1. Đầu tư tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế

Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của nền
kinh tế. Đầu tư là một yếu tố quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu
của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường
chiếm khoảng 24~28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới.
Đầu tư tác động đến tổng cầu trong ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi,
đầu tư tăng lên làm cho tổng cầu tăng lên, kéo theo sản lượng cân bằng tăng lên
và giá cả của hàng hóa cũng tăng lên. Ngược lại với tổng cầu, đầu tư tác động
đến tổng cung trong dài hạn. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các
năng lực mới được sử dụng thì tổng cung tăng lên, kéo theo sản lượng tăng lên
và giá cả hàng hóa giảm. Theo tác động dây chuyền, giá cả giảm lại khuyến
khích tiêu dùng và kích thích đầu tư sản xuất hơn nữa. Cứ như vậy, đầu tư phát
triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích lũy, phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.



7
3.2. Đầu tư tác động đến sự ổn định về kinh tế

Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không
đồng thời của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung làm cho sự tăng giảm của
hoạt động đầu tư cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn
định của nền kinh tế. Cụ thể, nếu đầu tư tăng lên, như phân tích ở trên làm cho
giá cả tăng lên gây ra tình trạng lạm phát. Lạm phát lại làm chõ đình trệ, đời
sống của người lao động gặp nhiều khó khăn, thâm hụt ngân sách, kinh tế châm
phát triển. Mặt khác, đầu tư tăng lên làm cho sản xuất phát triển, thu hút thêm
nhiều lao động, tăng thu nhập cho dân cư, giảm tệ nạn xã hội... Đây là yếu tố cơ
bản tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Nói như thế không có nghĩa là chúng
ta không nên tăng đầu tư phát triển vì nếu giảm đầu tư sẽ đưa đến nhiều hậu quả
to lớn hơn nữa. Vì vậy, trong hoạt động kinh tế vĩ mô, các nhà hoạch định chính
sách cần nhận thức đúng đắn về sự tác động hai mặt này để đưa ra những chính
sách hợp lý có thể phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực, duy trì
được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.

3.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế

Chúng ta sẽ xem xét sự tác động qua lại giữa vốn đầu tư và thu nhập của
nền kinh tế thông qua hai lý thuyết: lý thuyết của Keynes về đầu tư và lý thuyết
gia tốc đầu tư.
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng về vốn đầu tư dều kéo theo sự gia tăng nhu
cầu bổ sung về nhân công và nhu cầu về tư liệu sản xuất. Do đó làm tăng việc
làm và nhu cầu về tư liệu sản xuất sẽ làm tăng thu nhập của nền kinh tế và đến
lượt nó làm tăng đầu tư mới. Quá trình này thể hiện thông qua số nhân đầu tư -
đại lượng thể hiện mối quan hệ tác động dây chuyền: tăng đầu tư làm tăng thu
nhập, tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới.

Số nhân đầu tư được xác định:

8

dY
m =
dI

dY: Mức gia tăng thu nhập
dI: Mức gia tăng đầu tư
m: Số nhân đầu tư

Vì I = S nên

dY dY 1 1
m = = = =
dI dY – dC 1

dC/dY 1

MPC

Bên cạnh đó, lý thuyết gia tốc nói về nguyên nhân quyết định đầu tư. Theo
thuyết này, ngoài các yếu tố thông thường như lãi suất, thuế...; việc tăng vốn,
tăng đầu tư còn xảy ra khi sản lượng tăng. Hơn nữa, sản lượng phải tăng liên tục
cùng nhịp độ mới đảm bảo cho vốn đầu tư không đổi. Khi sản lượng ngừng
tăng, đầu tư ròng bằng 0 nhưng tổng đầu tư vẫn lớn hơn 0 nhằm duy trì năng lực
sản xuất hiện có. Điều này được chứng minh ở công thức:

K

t
x =
Y
t

x: Đại lượng thể hiện mối quan hệ giữa đầu tư và sản lượng đầu ra
K
t
: Vốn đầu tư trong thời gian t
Y
t
: Sản lượng đầu ra trong thời gian t

9

Từ công thức trên, ta có: K
t
= x.Y
t
; K
t+1
= x.Y
t+1

 NI = K
t+1
– K
t
= x.(Y
t+1

– Y
t
) = x.Y

Sự phối hợp nhân tố gia tốc và mô hình số nhân có thể được thể hiện ở
mô hình sau:

Sản lượng tăng ở tương lai

Đầu tư tăng (theo nhân tố gia tốc)


Sản lượng tăng (mô hình số nhân)

Đầu tư tăng... và ngược lại

Sự tác động của đầu tư lên tăng trưởng và phát triển kinh tế còn thể hiện ở
hệ số ICOR.

Vốn đầu tư
ICOR =
Mức tăng GDP

Từ đó suy ra:

Vốn đầu tư
Mức tăng GDP =
ICOR

Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP phụ thuộc hoàn toàn vào vốn đầu

tư. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc nhiều vào cơ
cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, vùng lãnh thổ cũng như hiệu quả
của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp
hơn trong công nghiệp. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất
được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng

10
thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một
“cú hích ban đầu” để thoát ra khỏi “cái vòng luẩn quẩn” tạo đà cho sự cất cánh.

3.4. Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Sự tác động này được thể hiện rõ ở chính sách đầu tư ở mỗi quốc gia, mỗi
địa phương. Đối với cơ cấu ngành, thông thường đầu tư cho ngành công nghiệp,
dịch vụ thường chiếm tỷ trọng cao nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở những khu
vực này. Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân
đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát
khỏi thình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên,
địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn tạo
thành lực kéo và bàn đạp để thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.

3.5. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp

Đầu tư trong các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể hiểu đó là sự hy sinh
các nguồn lực ở hiện tại để duy trì và tăng cường, mở rộng năng lực sản xuất
kinh doanh hiện có của cơ sở. Như vậy đầu tư có vai trò rất quan trọng trong
doanh nghiệp. Nó quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp muốn thành lập trước hết phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật như nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua săm các máy móc thiết bị, thuê nhân
công... Sau đó để duy trì hoạt động bình thường của mình, các doanh nghiệp

phải định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hay thay mới các cơ sở vật chất đã hư hỏng,
hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và
nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Có như vậy, doanh nghiệp mới tồn tại và phát
triển được. Ngoài ra, đầu tư còn là cách thức cơ bản giúp doanh nghiệp thực
hiện được các mục tiêu của mình như tăng lợi nhuận, nâng cao vị thế, uy tín...

11
Đối với các doanh nghiệp vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho
bản thân mình) để tồn tại, duy trì sự hoạt động, ngoài việc tiến hành sửa chữa
lớn định kỳ các cơ sở vật chất – kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường
xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
Thực tế đã chỉ rõ, rất nhiều doanh nghiệp do không có phương án đầu tư
kinh doanh đúng đắn hoặc không có khả năng huy động vốn đầu tư đều thất bại
trong kinh doanh dẫn tới phá sản. Đó là quy luật không thể phủ nhận của nền
kinh tế thị trường.

3.6. Đầu tư tác động tới khoa học và công nghệ

Đầu tư tác giúp tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của mỗi
nước. Hiện nay, công nghệ đang là trung tâm của công nghiệp hóa. Đầu tư là
điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của
mỗi quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam. Như chúng
ta đã biết có hai con đường cơ bản để có công nghệ mới. Đó là: tự nghiên cứu
phát minh và nhập công nghệ của nước khác. Dù là tự nghiên cứu hay nhập công
nghệ đều cần phải có vốn đầu tư với khối lượng lớn. Tự nghiên cứu thì cần vốn
đầu tư cho việc lắp đặt phòng thí nghiệm, cho công tác nghiên cứu, thử
nghiệm... Còn đối với việc nhập công nghệ thì lại càng cần phải có vốn đầu tư.
Cần có vốn đầu tư lớn để mua thiết bị, chuyển giao công nghệ... nhất là trong
thời kỳ hiện nay, giá công nghệ cùng với giá chất xám ngày càng tăng cao. Mọi
phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những

phương án không khả thi.


12
II. Doanh nghiệp nhỏ và vừa

1. Khái niệm doanh nghiệp
Thực tế trên thế giới, các nước có quan niệm rất khác nhau về doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Nguyên nhân sự khác nhau này là do các nước dùng các tiêu
thức để phân loại quy mô doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên trong hàng loạt
các tiêu thức đó thì có 2 tiêu thức phân loại được sử dụng ở phần lớn các nước.
Đó là tiêu thức quy mô vốn và tiêu thức số lượng lao động.

Việc lượng hóa các tiêu thức để phân loại quy mô doanh nghiệp tùy thuộc
vào một số yếu tố như:

+ Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và những quy định cụ thể
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.

+ Trong ngành nghề khác nhau thì chỉ tiêu về độ lớn của các tiêu thức cũng khác
nhau.

Điều này ta có thể thấy rõ thông qua số liệu ở bảng 1.

13

Bng 1: Tiờu thc xỏc nh doanh nghip nh v va mt s nc v
vựng lónh th

Nước

Tiêu thức áp dụng
Số lao động Tổng vốn hoặc giá trị tài sản
Inđônêxia
Xingapo
Thái Lan
Hàn Quốc

Nhật Bản

EU
Mêhicô
Mỹ
<100
<100
<100
<300 trong CN, XD
<200 trong TM&DV
<100 trong bán buôn
<50 trong bán lẻ
<250
<250
<500
<0.6 tỷ Rupi
<499 triệu USD
<200 Bath
<0.6 triệu USD
<0,25 triệu USD
<10 triệu yên
<100 triệu yên
<27 triệu EURO

<7 triệu USD
<20 triệu USD
Ngun: Gii phỏp phỏt trin doanh nghip nh v va Vit Nam NXB CTQG

Ti Vit Nam tiờu chớ xỏc nh doanh nghip nh v va c th hin
trong ngh nh 90/2001/N ngy 23-11-2001 ca Chớnh Ph. Theo quy nh
ny doanh nghip nh v va c nh ngha nh sau: Doanh nghip nh v
va l c s sn xut, kinh doanh c lp, ó ng ký kinh doanh theo
phỏp lut hin hnh, cú vn ng ký khụng quỏ 10 t ng hoc s lao ng
trung bỡnh hng nm khụng qua 30 ngi.

Nh vy, tt c cỏc doanh nghip thuc mi thnh phn kinh t ó ng ký kinh
doanh v tho món mt trong hai iu kin trờn u c coi l doanh nghip
nh v va. Theo cỏch phõn loi ny Vit Nam cú khong 93% trong tng s
doanh nghip hin cú l doanh nghip nh v va, c th l 80% cỏc doanh
nghip nh nc thuc nhúm doanh nghip nh v va, trong khu vc kinh t t

14
nhân doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng 97% xét về vốn và 99% xét về lao
động so với tổng số doanh nghiệp của cả nước.

2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa

Khi nói tới doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung, chúng ta đều nghĩ đến
đặc điểm chung nhất đó là: số lượng lao động ít, trình độ không cao, nhu cầu về
vốn đầu tư nhỏ nhưng tỷ suất vốn cao và thời gian hoàn vốn nhanh, chi phí sản
xuất cao do đó giá thành đơn vị sản phẩm cao hơn so với sản phẩm của các
doanh nghiệp lớn nên vị thế của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thị trường ít
được chú ý. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu
rộng nhưng lại có ưu thế trong việc đáp ứng nhu cầu đặc thù. Các doanh nghiệp

này dễ phân tán và ít gây tác động mạnh tới nền kinh tế - xã hội.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay ngoài những đặc điểm
trên còn có những đặc điểm cơ bản sau:

+ Sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trải qua nhiền biến
động thăng trầm đặc biệt là sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế thị trường.

+ Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển nên sản xuất nhỏ là phổ biến nên
các doanh nghiệp có quy mô nhỏ có diện rộng phổ biến.

+ Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực ngoài quốc doanh mới
thành lập, thiếu kiến thức kinh doanh, chưa quen với thị trường. Các doanh
nghiệp nhà nước quy mô nhỏ và vừa còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế
cũ, máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu, bế tắc về thị trường tiêu thụ.


15
+ Sở hữu nhà nước có trên 4000 doanh nghiệp nhỏ và vừa và sở hữu tư nhân có
trên 17000 doanh nghiệp và công ty tư nhân, trên 1,8 triệu hộ kinh tế cá thể
hoạt động theo Nghị định 66/HĐBT.

+ Về hình thức tổ chức gồm các loại hình: Doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hộ kinh tế cá
thể.

+ Trình độ quản lý trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất hạn chế, thiếu
kiến thức về quản trị kinh doanh và luật pháp, thiếu kinh nghiệm. Trình độ
văn hóa kinh doanh còn thấp, tồn tại nhiều tiêu cực.


+ Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta phân bố không đồng đều, tập trung
chủ yếu ở các thành phố lớn. Xu hướng tập trung vào các ngành cần đầu tư ít
vốn, thời gian thu hồi vốn nhanh, lãi suất cao như thương nghiệp, du lịch, dịch
vụ.

+ Nhà nước chỉ mới có các định hướng lớn khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và
vừa, cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, nguồn lực tài chính còn hạn chế.

3. Các tiêu chí phân loại doanh nghiệp áp dụng ở Việt Nam

Việc đưa ra các tiêu chí chuẩn xác để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức quản lý, nghiên cứu và thực hiện
các chính sách hỗ trợ. Chính vì vậy, hầu hết các nước đều rất chú trọng nghiên
cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, trên thế giới tiêu
chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa có một số nét chung nhưng cũng có
nhiều chỗ còn chưa thống nhất vì điều kiện kinh tế - xã hội mỗi nước khác nhau.

16
Thậm chí trong cùng một nước, sự phân loại cũng khác nhau tùy theo thời kỳ,
từng ngành nghề và từng vùng lãnh thổ.
Có hai tiêu chí phổ biến dùng để phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa: tiêu
chí định tính và tiêu chí định lượng.

Nhóm tiêu chí định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh
nghiệp nhỏ và vừa như trình độ chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít,
mức độ phức tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng
bản chất của vấn đề nhưng khó xác định trên thực tế. Do đó, nó thường chỉ làm
cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế.

Nhóm tiêu chí định lượng: Có thế sử dụng các tiêu chí như số lao động,

giá trị tài sản vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:

- Số lao động có thể lao động trung bình trong danh sách, lao động thường
xuyên hoặc lao động thực tế hiện có.

- Tài sản hoặc vốn có thể sử dụng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản cố định
(hay vốn cố định), giá trị tài sản còn lại.

- Doanh thu có thể là tổng doanh thu hàng năm, tổng giá trị gia tăng hàng năm.

Ở nhiều nước trên thế giới, tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh
nghiệp rất đa dạng. Các nước APEC thường sử dụng tiêu chí số lao động (11/12
nước sử dụng). Một số tiêu chí khác thì tùy thuộc vào điều kiện của từng nước:
vốn đầu tư (3 nước), tổng giá trị tài sản (4 nước), doanh thu (4 nước) và tỷ lệ
vốn góp (1 nước). Số lượng tiêu chí dùng để phân loại ở mỗi nước cũng chỉ từ
một đến hai và cao nhất là ba tiêu chí nêu trên để phân loại.

17
Ở Việt Nam, sử dụng hai tiêu chí là số vốn điều lệ và số lao động. Doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam là các cơ sở sản xuất kinh doanh có đăng ký,
không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn và lao động thỏa mãn với
quy định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ
phát triển của nền kinh tế.
Trước đây, do chưa có tiêu chí chung xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa,
nên một số cơ quan Nhà nước, một số tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
đã chủ động đưa ra những tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa phục vụ
cho công tác của mình. Cụ thể như sau:

- Ngân hàng công thương Việt Nam coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh
nghiệp có:


+ Lao động thường xuyên dưới 500 người;

+ Vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng;

+ Doanh thu hàng tháng dưới 29 tỷ đồng.

- Liên Bộ Lao động và Tài chính coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp
có:

+ Lao động thường xuyên dưới 100 người;

+ Doanh thu hàng năm dưới 10 tỷ đồng;

+ Vốn pháp định dưới 10 tỷ đồng.


18
- Dự án VIE/US/95/004 do UNIDO tài trợ về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
ở Việt Nam coi doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có:

+ Lao động dưới 30 người;

+ Vốn đăng ký dưới 100000 USD.

Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có:

+ Lao động từ 31~200 người;

+ Vốn đăng ký dưới 400000 USD.


- Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc chương trình Việt Nam
– EU quy định các doanh nghiệp nhỏ và vừa được hỗ trợ gồm các doanh
nghiệp có:

+ Số công nhân từ 10~500 người;

+ Vốn điều lệ từ 50000 đến 300000 USD.

- Quỹ phát triển nông thôn thuộc ngân hàng Nhà nước coi doanh nghiệp Nhà
nước nhỏ và vừa là các doanh nghiệp có:

+ Giá trị tài sản không quá 2000000 USD;

+ Lao động không quá 500 người.


19
- Trong các ngành sản xuất vật chất, các nhà nghiên cứu và hoạch định chính
sách đã thống nhất quan niệm về quy mô doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp
có vốn dưới 1 tỷ đồng và có dưới 100 lao động; doanh nghiệp vừa là doanh
nghiệp có vốn từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng và có từ 100~500 lao động.

Đến ngày 26/6/1998, Thủ tướng Chính phủ đã tạm thời thống nhất các
tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa được quy định tại công văn số
681/CP-KTN. Theo công văn này, doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh
nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động dưới 200 người.
Theo tiêu thức phân loại này, ở Việt Nam số doanh nghiệp nhỏ và vừa
chiếm khoảng 89% tổng số doanh nghiệp hiện có. Tuy nhiên, qua thực tiễn, có
thể thấy tiêu chí về doanh nghiệp nhỏ và vừa trên đây (theo công văn số 681) có

những vấn đề đáng suy nghĩ như sau:

- Có thể chỉ dùng một tiêu chí là lao động hoặc số vốn, bởi vì hai tiêu chí đó
không phải là luôn luôn tương thích với nhau, nhất là trong điều kiện hiện
nay, có những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, số vốn
hoặc doanh thu khá lớn nhưng lại có rất ít lao động, vì đó là những lao động
với chuyên môn kỹ thuật cao.

- Theo kinh nghiệm của nhiều nước, nên có tiêu chí riêng cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau như công nghiệp,
nông nghiệp, thương mại, dịch vụ... và cần có sự điều chỉnh qua từng thời
gian, tùy thuộc vào yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước, vì mục đích của
tiêu chí này là xác định đối tượng để thực hiện những chính sách của Nhà
nước trong từng thời gian, đối với từng ngành, nghề.

Do vậy, ngày 23/11/2001, chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định
90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo Nghị định

20
này, doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc
số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình
kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện
pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu
vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên.
Cũng theo định nghĩa này, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
bao gồm:

- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;


- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước;

- Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp Tác Xã;

- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày
3/2/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.

4. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa

4.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số các doanh
nghiệp

Trong các loại hình sản xuất kinh doanh ở nước ta hiện nay, doanh nghiệp
nhỏ và vừa có sức lan tỏa trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Theo
tiêu chí mới thì doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 93% tổng số các doanh nghiệp
thuộc các hình thức: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ
phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

21
Theo tiêu chí về vốn thì doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 99,6% tổng số
các doanh nghiệp tư nhân, chiếm 97,38% trong tổng số HTX, chiếm 94,72%
tổng số các công ty trách nhiệm hữu hạn, chiếm 42,37% tổng số các công ty cổ
phần và 65,88% trong tổng số các doanh nghiệp nhà nước (theo tiêu chí về vốn
của công văn 681/CP – KT ngày 20/6/1998). Điều này có thể thấy rõ trong bảng
2.

Bảng 2: Vốn đầu tư của các loại hình doanh nghiệp

DN Sè DN
Vèn d­íi 1 tû Vèn tõ 1-5 tû Vèn < 5 tû Vèn >5 tû

D
D
N
N

% DN %
D
D
N
N


%




D
D
N
N

%
1. DN trong n­íc 23016 16547 71 4076 17,7 20623 89,6 2393 10,9
-DNNN 5873 1585 28 2284 38,9 3869 65,9 2004 34,1
- DNTN 10916 10383 95,1 485 4,4 10868 99,6 48 0,4
- HTX 1867 1634 87,5 184 9,9 1818 97,4 49 2,6
- CTCF 118 17 14,4 33 28 50 42,4 68 57,6
- CTTNHH 4242 2928 69 1090 25,7 4018 97,7 224 5,28
2. DN cã vèn §T

n­íc ngoµi
692 123 17,8 107 15,4 230 33,2 462 66,8
- 100% vèn n­íc
ngoµi
150 19 12.7 26 17.3 45 30 105 70
- LDTPKTNN 433 77 17,8 58 13,4 135 31,2 298 68,8
- LDTPKTTN 59 11 18,6 12 20,3 23 39 36 64
- LDTPKTTT 6 6 100 0 0 6 100 0 0
- LDTPKTHH 32 11 34,4 8 25 19 59,4 13 40,6
- Hîp ®ång hîp
t¸c KD
12 2 16,7 3 25 5 41,7 7 58,3
T
T
æ
æ
n
n
g
g


s
s
è
è

23708 16673 70,3 4183 17,6 20856 88 2852 12
Nguồn: Theo MPI – UNIDO



22
4.2. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi tạo ra việclàm chủ yếu ở Việt Nam

Đây là một thế mạnh rõ rệt của doanh nghiệp nhỏ và vừa và là nguyên
nhân chủ yếu khiến chúng ta phải chú trọng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
ở nước ta hiện nay. Theo số liệu thống kê của tổng cục Thống kê, số người
không có việc làm thường xuyên trong cả nước là khoảng 8,5 triệu người, trong
đó khu vực thành thị là 1,2 triệu người còn khu vực nông thôn là 7,3 triệu người;
84% số người không có việc làm ở độ tuổi từ 14~44 tuổi. Năm 2000, cả nước có
tới 1447000 người trong độ tuổi lao động không có việc làm, trong đó khu vưc
jthành thị có 692000 người, chiếm 48% và khu vực nông thôn có 755000 người,
chiếm 52%. Theo dự báo, từ nay đến năm 2010, mặc dù dân số có thể tăng chậm
lại nhưng nguồn lao động của nước ta vẫn tăng nhanh liên tục, đòi hỏi giải quyết
việc làm hết sức khẩn trương.
Số liệu điều tra lao động và việc làm (tháng 7/2000) cho thấy ở Việt Nam,
dân số trong độ tuổi lao động là 46,2 triệu người, chiếm 59% tổng dân số. Việt
Nam đang chuyển từ giai đoạn cấu trúc dân số trẻ sang “cơ cấu dân số vàng”,
nghĩa là tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở mức cao trong khi tỷ lệ dân số phụ
thuộc giảm. Dự báo trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 21, tỷ lệ dân số trong độ
tuổi lao động tiếp tục tăng và đạt đỉnh cao nhất là gần 70% vào năm 2009 (56
triệu người). Từ năm 1999-2009, mỗi năm sẽ có thêm 1,8 triệu người bước vào
tuổi lao động. Đây là mức tăng nguồn nhân lực cao nhất từ trước tới nay trong
lịch sử dân số Việt Nam, là tiềm năng, cơ hội lớn về nguồn nhân lực và cũng là
thách thức rất lớn về giải quyết việc làm.
Sức ép của dân số và lao động lên đất đai, việc làm ở nông thôn chính là
nguyên nhân của dòng di dân từ nông thôn ra thành phố, gây nhiều vấn đề xã hội
phức tạp. Vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn phải được giải quyết chủ yếu
bằng việc phát triển ngành, nghề sản xuất và dịch vụ, trước hết là các cơ sở sản
xuất tiểu thủ công nhỏ và vừa phân bố thật rộng rãi trong khắp các vùng nông

thôn, góp phần hình thành các đô thị nhỏ, xây dựng nông thôn mới.

23
Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế hiện thu
hút khoảng 25-26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng
triển vọng thu hút thêm lao động rất lớn vì suất đầu tư cho môic chỗ làm viêc jở
đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và
thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Theo tài liệu “Một số chỉ tiêu chủ
yếu về quy mô và hiệu quả của 1,9 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ
Việt Nam" của Tổng cục Thống kê xuất bản năm 1997, lượng vốn trung bình
cho một chỗ việc làm trong một doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và
trong công ty trách nhiệm hữu hạn là 45 triệu đồng, trong khi lượng vốn trung
bình cho một chỗ làm việc tại doanh nghiệp Nhà nước là 87,5 triệu đồng. Các
doanh nghiệp nhỏ và vừa đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhân số lao
động nhất là ở nông thôn tăng lên mỗi năm; đồng thời còn tiếp nhận số lao động
từ các doanh nghiệp Nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hóa, giao, bán, khoán,
cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai.
Tuy vậy, số lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa mới chỉ chiếm
12-15% lực lượng lao động, so với các nước trong khu vực chỉ tiêu này là 50-
60%. Như vậy, tỷ lệ thu hút lao động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta
còn quá thấp, tiềm năng của các doanh nghiệp này chưa được phát huy một cách
đầy đủ.

4.3. Hình thành và phát triển đội ngũ các nhà kinh doanh năng động

Sự xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất
nhiều vào những nhà sáng lập ra chúng. Do đặc thù là số lượng doanh nghiệp
nhỏ và vừa và nhỏ rất lớn và thường xuyên phải thay đổi để thích nghi với môi
trường xung quanh, phản ứng với những tác động bất lợi do sự phát triển theo xu
hướng tích tụ và tập trung hóa sản xuất. Sự sáp nhập, giải thể và xuất hiện các

doanh nghiệp nhỏ và vừa thường xuyên diễn ra trong mọi giai đoạn. Đó là sức
ép lớn buộc những người quản lý và sáng lập ra chúng phải có tính linh hoạt cao

24
trong quản lý và điều hành, dám nghĩ dám làm và chấp nhận sự mạo hiểm. Sự có
mặt của đội ngũ những người quản lý này cùng với khả năng, trình độ, nhận
thức của họ về tình hình thị trường và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh sẽ
tác động lớn đến hoạt động của từng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Họ luôn là người
đi đầu trong đổi mới, tìm kiếm phương thức mới, đặt ra nhiệm vụ chuyển đổi
cho phù hợp với môi trường kinh doanh.
Đối với một quốc gia thì sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn
vào sự có mặt của đội ngũ này và chính đội ngũ này sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế
năng động, linh hoạt phù hợp với thị trường.

4.4. Khai thác và phát huy tốt các nguồn lực tại chỗ

Từ các đặc trưng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và
vừa đã tạo ra cho doanh nghiệp lợi thế về địa điểm hoạt động sản xuất kinh
doanh. Thực tế đã cho thấy doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có mặt ở hầu hết các
vùng, địa phương. Chính điều này đã giúp cho doanh nghiệp tận dụng và khai
thác tốt nguồn lực tại chỗ. Chúng ta có thể chứng minh thông qua nguồn lực lao
động. Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã sử dụng gần 1/2 lực lượng sản xuất lao động
phi nông nghiệp (49%) trong cả nước và tại một số vùng nó đã sử dụng tuyệt đại
đa số lực lượng sản xuất lao động phi nông nghiệp. Ngoài lao động ra doanh
nghiệp nhỏ và vừa còn sử dụng nguồn tài chính của dân cư trong vùng, nguồn
nguyên liệu trong vùng để hoạt động sản xuất kinh doanh.

4.5. Đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế

Mỗi năm, doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp khoảng 25-26% GDP của

cả nước. Năm 1995, doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo ra khoảng 31% giá trị tổng
sản lượng ngành công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng khối lượng vận

25
chuyển hàng hóa, 100% giá trị sản lượng hàng hóa của một số ngành, nghề như
chiếu cói, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ...
Xét về tương quan giữa giá trị tài sản cố định với doanh thu để xét về hiệu
quả sử dụng đồng vốn, có thể thấy hiệu quả sử dụng đồng vốn ở khu vực doanh
nghiệp nhỏ và vừa đang rất khả quan. Cụ thể như bảng sau:

Bảng 3: Chi phí đầu tư để tạo được 1 đồng doanh thu

Loại hình doanh nghiệp Chi phí đầu tư (đồng) %
DNNN 0,562 100
DNNN địa phương 0,22 39
Doanh nghiệp tập thể 0,298 53
Doanh nghiệp tư nhân 0,197 35
Công ty TNHH 0,188 33
Nguồn: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, 2001

Đối với các ngành, nghề, làng nghề truyền thống, hiện nay, cả nước có
khoảng 1400 làng nghề, trong đó 2/3 là làng nghề truyền thống, có từ hàng trăm
năm nay. Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc trưng của từng địa phương đã
nổi tiếng trong cả nước, một số đã được xuất khẩu và được nước ngoài đánh giá
rất cao. Nhiều ngành, nghề truyền thống đã được nối tiếp trong từng hộ gia đình,
từng dòng họ, hình thành tập trung trong các làng nghề, phát huy truyền thống,
đặc trưng của nông thôn ta. Việc giữ gìn và phát triển những sản phẩm độc đáo,
củng cố và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành, nghề truyền thống
là phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc trong tăng trưởng kinh tế, đồng thời là
một thế mạnh của chúng ta trong quá trình hội nhập với kinh tế của toàn khu

vực. Điều quan trọng là doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều thuận lợi trong việc
khai thác các tiềm năng rất phong phú trong dân, từ trí tuệ, tay nghề tinh xảo đến

×