Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta trong iai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.44 KB, 22 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mục lục
Tran
a. Lời Nói đầu
2
b. nội dung
I. Sơ lợc về phép biện chứng và nội dung quan điểm toàn diện
4
1. Sơ lợc về phép biện chứng 4
2. Nội dung quan điểm toàn diện 5
II. Vận dụng quan điểm toàn diện vào việc phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta trong giai đoạn hiện
nay
1. Quan điểm chung
2. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay
2.1. Tính tất yếu khách quan của việc tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần ở nớc ta
2.2. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế
2.2.1. Thành phần kinh tế Nhà nớc
2.2.2. Thành phần kinh tế tập thể
2.2.3. Thành phần kinh tế t bản Nhà nớc
2.2.4. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ
2.2.5. Thành phần kinh tế t bản t nhân
2.2.6. Thành phần kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài 16
2.3. Mối quan hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở
nớc ta
17
2.4. Những thành quả đạt đợc, những mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
18
2.4.1. Những thành quả đạt đợc 18


2.4.2. Những mặt còn hạn chế 19
III. Giải pháp khăc phục khó khăn và phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa
20
C. kết luận
22
Danh mục tài liệu tham khảo 23
a. Lời nói đầu
Nguyễn Thành Lớp NH- TC 12C 1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trớc khi thực hiện đờng lối đổi mới, do chủ quan, duy ý chí, và hạn chế
về nhận thức ta chủ trơng thu hẹp kinh tế hàng hoá và sử dụng kinh tế hiện vật
là chủ yếu. Nền kinh tế đợc điều tiết bởi kế hoạch hoá tập trung, pháp lệnh của
Nhà nớc; quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị hạn chế, thu hẹp hoặc nếu có tồn tại cũng
chỉ là hình thức; các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá không có đủ điều
kiện để hoạt động và bị biến dạng; lu thông hàng hoá và thị trờng cũng bị hạn
chế và thu hẹp; nền kinh tế bị khép kín ở từng địa phơng và không có quan hệ
với bên ngoài. Hậu quả là nền kinh tế bị kìm hãm và ngày càng tụt hậu, khủng
hoảng kéo dài, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đứng trớc bối cảnh
đó, yêu cầu đổi mới đất nớc mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, đặt ra ngày càng
bức thiết.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần VI năm 1986, trên cơ sở quan điểm toàn
diện và quan điểm lịch sử cụ thể, Đảng ta đã đề ra chiến lợc đổi mới đất nớc,
trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm mà trớc mắt là thực hiện bớc quá độ để
chuyển sang kinh tế hàng hoá. Tới Đại hội Đảng toàn quốc lần VII năm 1991,
trên cơ sở đánh giá thực trạng đất nớc những năm đầu đổi mới, Đảng ta đã đi tới
quyết định: kiên quyết xoá bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, từng bớc hình thành và phát triển kinh tế thị tròng theo định hớng xã hội

chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nớc.
Thực hiện đờng lối đổi mới trong gần hai mơi năm qua đã từng bớc đa n-
ớc ta ra khỏi khủng hoảng, bắt đầu có tích luỹ nội bộ, kinh tế tăng trởng nhanh,
quốc phòng - an ninh đợc giữ vững, đời sống nhân dân không ngừng đợc nâng
cao, thế và lực của nớc ta ngày càng đợc củng cố trên trờng quốc tế. Những
thành tựu đáng khích lệ đó chứng tỏ đờng lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nớc là
hoàn toàn đúng đắn.
Mặc dù vậy, sức cạnh tranh của ta nhìn chung còn yếu, nền kinh tế còn
tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định; các yếu tố cần thiết để phát triển nền
Nguyễn Thành Lớp NH- TC 12C 2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kinh tế thị trờng còn thiếu và yếu; các biện pháp quản lý vĩ mô cha đồng bộ và
nhiều khi chồng chéo, kém hiệu quả.... Do đó việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn
thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nớc ta phát triển theo cơ chế
thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa là rất cần thiết. Chính vì vậy tôi đã quyết
định chọn đề tài: "Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta trong giai
đoạn hiện nay" để nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng nhất tới Tiến sỹ Lê Ngọc Thông vì
những sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của tiến sỹ trong quá trình hoàn thành bài
viết. Tôi cũng xin đợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với những bạn cùng lớp và
những cán bộ Trung tâm thông tin th viện - Trờng Đại học Kinh tế quốc dân vì
những góp ý và sự giúp đỡ của họ.
Mặc dù đã rất cố gắng song do trình độ có hạn nên chắc hẳn trong bài
viết này còn nhiều điều thiếu sót. Rất mong sự góp ý, chỉ bảo thêm của những
ai quan tâm đến vấn đề này để tôi có thể tiếp tục hoàn thiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn.
Nguyễn Thành Lớp NH- TC 12C 3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
b. nội dung

I. Sơ l ợc về phép biện chứng và nội dung quan điểm toàn diện
1. Sơ l ợc về phép biện chứng:
Phép biện chứng là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong
nhiều triết học khác nhau của lịch sử triết học. Nó đợc xác định với hai t cách là
t cách lý luận biện chứng và t cách phơng pháp biện chứng.
Với t cách lý luận biện chứng, phép biện chứng đợc xác định là một hệ
thống các quan điểm biện chứng, khái quát tính biện chứng của thế giới thành
một hệ thống các nguyên lý, các quy luật biện chứng. Ph. Ănghen đã định nghĩa
phép biện chứng một cách khái quát: "Phép biện chứng... là môn khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và
t duy" (C. Mác và Ănghen toàn tập, Tập 20, tr. 201, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội - 1994).
Với t cách là phơng pháp biện chứng, phép biện chứng đợc xác định là
phơng pháp luận triết học xem xét, phân tích các sự vật, hiện tợng của thế giới
trong trạng thái của mối liên hệ phổ biến trong sự vận động và phát triển không
ngừng của tự nhiên, xã hội và t duy. Với t cách đó, phơng pháp biện chứng là hệ
quả tất yếu và thống nhất với lý luận biện chứng, cũng tức là sự thống nhất giữa
mặt thế giới quan và phơng pháp luận triết học của phép biện chứng trong triết
học.
Phép biện chứng có thể đợc xác lập trên lập trờng chủ nghĩa duy vật hoặc
trên lập trờng chủ nghĩa duy tâm, từ đó tạo ra phép biện chứng duy vật hoặc
phép biện chứng duy tâm.
Phép biện chứng đã có lịch sử phát triển hơn 2000 năm, với ba hình thức
lịch sử: phép biện chứng cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép
biện chứng duy vật khoa học. Phép biện chứng duy vật khoa học là hình thái
Nguyễn Thành Lớp NH- TC 12C 4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phát triển cao nhất của lịch sử phép biện chứng. C. Mác và Ph. Ănghen là những
ngời đã giữ vai trò lịch sử sáng tạo ra phép biện chứng duy vật khoa học.
Phép biện chứng duy vật khoa học bao quát một lĩnh vực tri thức hết sức

rộng lớn, nó vừa có t cách lý luận triết học bao quát vừa đóng vai trò phơng
pháp luận triết học cơ bản, xuyên suốt mọi quá trình thực tiễn cách mạng sáng
tạo, khoa học phát minh và ứng dụng triển khai khoa học công nghệ trong thời
đại ngày nay. Xét theo nội dung cấu trúc cơ bản, phép biện chứng duy vật khoa
học bao gồm hai nguyên lý cơ bản: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển; ba quy luật cơ bản: quy luật thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập, quy luật những thay đổi về lợng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngợc lại, quy luật phủ định của phủ định; sáu cặp phạm trù cơ bản với t
cách là sáu quy luật không cơ bản của phép biện chứng: cặp phạm trù cái chung
và cái riêng, tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tợng, nội dung và hình
thức, nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực. Trong đó, nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến đóng vai trò là nguyên lý xuất phát và nền tảng.
2. Nội dung Quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện là hệ quả tất yếu của sự vận dụng Nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến trong hoạt động thực tế nhằm nhận thức và cải tạo hiện thực.
Mối liên hệ là sự tác động qua lại, ảnh hởng lẫn nhau, tạo điều kiện, tiền
đề cho nhau rồi giả định và chế ớc lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tợng; trong đó
có những mối liên hệ bao trùm ở cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và t duy; có
những mối liên hệ chỉ có trong một lĩnh vực thậm chí chỉ tồn tại trong một sự
vật, hiện tợng. Mối liên hệ mang tính khách quan, phổ biến; nó quy định sự tồn
tại, vận động của sự vật, hiện tợng.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khẳng định: mọi sự vật, hiện tợng đều
tồn tại trong mối liên hệ phổ biến; và mối liên hệ phổ biến mang tính đa dạng,
phức tạp về tính chất, sự thể hiện, vai trò và tác dụng của nó.
Nguyễn Thành Lớp NH- TC 12C 5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vì bất cứ sự vật, hiện tợng nào trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ
với các sự vật, hiện tợng khác và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, do đó khi
nhận thức về sự vật, hiện tợng chúng ta phải có quan điểm toàn diện, tránh quan
điểm phiến diện chỉ xét sự vật, hiện tợng ở một mối liên hệ đã vội vàng kết luận

về bản chất hay về tính quy luật của chúng.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật, hiện tợng
trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của
chính sự vật, hiện tợng và trong sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tợng
khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới
có thể nhận thức đúng về sự vật, hiện tợng.
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên
hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... Chúng ta cũng cần chú ý tới sự chuyển hoá
lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện nhất định để hiểu rõ bản chất
của sự vật, hiện tợng và có phơng pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự
vật chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà
còn phải chú ý đến những mối liên hệ của sự vật ấy với những sự vật khác.
Đồng thời, chúng ta phải sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phơng tiện khác
nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Định hớng XHCN trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa phát triển lực lợng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới. Phải
khắc phục đợc nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và xây dựng thành công cơ sở
vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Vừa hình thành đợc cơ cấu đặc trng cho
xã hội mới. Quá trình chuyển hớng và đổi mới nền kinh tế theo định hớng
XHCN là một nguyên tắc, một vấn đề chiến lợc quan trọng nhất, cơ bản nhất
của t duy kinh tế mới của Đảng ta.
Nguyễn Thành Lớp NH- TC 12C 6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh", một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nớc; mặt khác, phải
biết tranh thủ thời cơ, vợt qua thử thách do xu hớng quốc tế hoá mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đa lại. Các phơng án áp dụng trong

đời sống thực tiễn kinh tế - xã hội không đợc dàn trải, chung chung, thiếu trọng
tâm, trọng điểm. Việc xác định các phơng án trọng tâm, trọng điểm trong công
tác thực tiễn quản lý kinh tế - xã hội bao giờ cũng xuất phát điểm trên cơ sở xác
định đợc các mối liên hệ bên trong, cơ bản và tất yếu.
II. Vận dụng Quan điểm toàn diện vào việc phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo định h ớng xã hội chủ
nghĩa ở n ớc ta trong giai đoạn hiện nay
1. Quan điểm chung:
Vận dụng quan điểm toàn diện (và quan điểm lịch sử cụ thể) của phép
biện chứng duy vật vào quá trình đổi mới ở nớc ta, Đảng ta đã xác định phơng
châm rất cơ bản là phải đổi mới một cách toàn diện tất cả các lĩnh vực nhng
trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế: "Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công
cuộc đổi mới từ đổi mới về t duy chính trị trong việc hoạch định đờng lối và
chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi
mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trớc hết vào việc thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục sự khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo
tiền đề cần thiết và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố
niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau của đời sống
xã hội" (Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1996, tr. 71).
Vấn đề trung tâm trong chiến lợc đổi mới kinh tế của nớc ta trong giai
đoạn vừa qua là việc thừa nhận đa hình thức sở hữu, trên cơ sở đó hình thành
nên các thành phần kinh tế khác nhau. Đồng thời, xoá bỏ cơ chế quản lý kế
Nguyễn Thành Lớp NH- TC 12C 7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoạch hoá tập trung, đặt các thành phần kinh tế hoạt động trong một cơ chế
mới: cơ chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
2. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở n ớc ta trong giai đoạn hiện
nay.
2.1. Tính tất yếu khách quan của việc tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng

hoá nhiều thành phần ở nớc ta.
Nền kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà sản phẩm sản
xuất ra để bán, trao đổi trên thị trờng. Trong kiểu tổ chức này ba vấn đề kinh tế
lớn: sản xuất cái gì? sản xuất nh thế nào? sản xuất cho ai; và toàn bộ quá trình
sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng đều thông qua mua bán trên thị trờng
và do thị trờng quyết định.
Về mặt lý luận, sau khi giai cấp vô sản giành đợc chính quyền, bắt tay
vào việc xây dựng xã hội mới, nền kinh tế mới. Nhà nớc XHCN đứng trớc một
nền kinh tế về cơ bản dựa trên chế độ t hữu. Thực tế có hai hình thức t hữu: t
hữu lớn bao gồm nhà máy, hầm mỏ, doanh nghiệp... của các chủ t bản trong và
ngoài nớc, đó là kinh tế t bản t nhân; t hữu nhỏ gồm những ngời nông dân cá
thể, những ngời buôn bán nhỏ, đó là kinh tế sản xuất nhỏ cá thể.
Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới Nhà nớc xây dựng và phát triển
các thành phần kinh tế mới. Nhà nớc có thái độ khác nhau đối với hai hình thức
t hữu trên: đối với t hữu nhỏ, Nhà nớc cải tạo dần bằng con đờng hợp tác theo
theo các nguyên tắc mà Lênin đã vạch ra là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi
đồng thời tuân theo các quy luật khách quan. Việc cải tạo sản xuất hàng hoá
nhỏ là một quá trình khó khăn, phức tạp, lâu dài. Do đó trong thời kỳ quá độ
còn tồn tại thành phần kinh tế cá thể, tiếu chủ. Đối với t hữu lớn, Nhà nớc tiến
hành quốc hữu hoá. Lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng
định không nên quốc hữu hoá ngay một lúc mà phải tiến hành từ từ theo từng
giai đoạn và bằng hình thức, phơng pháp nào là tuỳ điều kiện cụ thể. Mặt khác,
kinh tế t bản t nhân vẫn là hình thức kinh tế có tác dụng thúc đẩy sự phát triển
Nguyễn Thành Lớp NH- TC 12C 8

×