Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Luận văn thặc sĩ: Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.25 KB, 122 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
lê thị hiền
ngôn ngữ thơ tình
ngôn ngữ thơ tình


nguyễn bính
nguyễn bính
Luận văn thạc sĩ ngữ văn
Vinh - 2008
2
Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
lê thị hiền
ngôn ngữ thơ tình
ngôn ngữ thơ tình


nguyễn bính
nguyễn bính
Chuyên ngành: lý luận ngôn ngữ
M số: 60.22.01ã
Luận văn thạc sĩ ngữ văn
Ngời hớng dẫn khoa học:
TS. Trần Văn Minh
Vinh - 2008
4
Mục lục
Trang
Mở đầu..................................................................................................1


1. Lý do chọn đề tài..................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề......................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................6
4. Phơng pháp nghiên cứu........................................................................7
5. Cái mới của đề tài.................................................................................7
6. Cấu trúc của luận văn...........................................................................7
Chơng 1. Một số giới thuyết liên quan đến đề tài................................8
1.1. Thơ và ngôn ngữ thơ.........................................................................8
1.1.1. Sự khác biệt giữa thơ và văn xuôi........................................8
1.1.2. Đặc trng của ngôn ngữ thơ................................................10
1.1.3. Các lớp từ giàu màu sắc biểu cảm trong thi ca Việt Nam.12
1.1.4. Các biện pháp tu từ thờng dùng trong thơ ca.....................14
1.2. Nguyễn Bính - cuộc đời về thơ ca...................................................20
1.2.1. Cuộc đời và tác phẩm........................................................20
1.2.2. Thơ tình trong thơ Nguyễn Bính........................................21
Chơng 2. Cấu trúc và âm điệu thơ tình Nguyễn Bính......................26
2.1. Các thể thơ tiêu biểu trong thơ tình Nguyễn Bính..........................26
2.1.1. Kết quả thống kê phân loại về thể thơ...............................26
2.1.2. Tổ chức của bài thơ tình Nguyễn Bính..............................47
2.1.3. Khổ thơ trong thơ tình Nguyễn Bính.................................49
2.2. Âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính..............................................53
2.2.1. Vần điệu trong thơ tình Nguyễn Bính...............................56
2.2.2. Nhịp điệu trong thơ tình Nguyễn Bính..............................58
2.2.3. Thanh điệu trong thơ tình Nguyễn Bính............................60
* TiÓu kÕt ch¬ng 2..................................................................................61
6
Chơng 3. Ngữ nghĩa của ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính...............62
3.1. Từ ngữ giàu giá trị biểu cảm trong thơ tình Nguyễn Bính..............62
3.1.1. Từ láy âm trong thơ tình Nguyễn Bính..............................62
3.1.2. Từ tình thái trong thơ tình Nguyễn Bính...........................64

3.1.3. Từ địa phơng trong thơ tình Nguyễn Bính.........................69
3.1.4. Từ khẩu ngữ trong thơ tình Nguyễn Bính..........................71
3.2. Từ ngữ biểu thị tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính.....................72
3.2.1. Động từ biểu thị tình yêu...................................................73
3.2.2. Danh từ biẻu thị tình yêu...................................................90
3.2.3. Cụm từ biểu thị tình yêu trong thơ tình Nguyễn Bính.......92
3.3. Các biện pháp tu từ thờng dùng trong thơ tình Nguyễn Bính.........98
3.3.1. Biện pháp ẩn dụ.................................................................98
3.3.2. Biện pháp so sánh............................................................100
3.3.3. Biện pháp đối...................................................................105
3.3.4. Biện pháp điệp.................................................................107
* Tiểu kết chơng 3................................................................................109
Kết luận..........................................................................................110
Tài liệu tham khảo...................................................................112
Lời mở đầ u
Đề tài đợc thực hiện đúng thời gian quy định, chúng tôi nhận đợc sự hớng
dẫn thờng xuyên và nhiệt tình của TS. Trần Văn Minh, nhận đợc sự chỉ bảo tận
tình, quý báu của các thầy cô giáo tổ Lý luận Ngôn ngữ Trờng Đại học Vinh.
Qua đây, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới thầy
TS. Trần Văn Minh, các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ đã giúp đỡ chúng tôi
hoàn thành luận văn này.
Với thời gian và khả năng có hạn, những gì làm đợc ở đề tài này chỉ là b-
ớc đầu, chúng tôi chân thành mong nhận đợc sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô và
các bạn để có thể bổ sung cho đề tài đợc hoàn chỉnh hơn.


Vinh, tháng 12 năm 2008
Tác giả
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi tiếng những thập niên
30 - 60 của thế kỷ trớc trong văn học hiện đại Việt Nam. Ông có một phong
cách thơ đợc nhiều thế hệ đơng thời mến mộ, đặc biệt có nhiều bài tuy sáng tác
trong phong trào Thơ Mới nhng đậm chất trữ tình dân gian cả về nội dung lẫn
hình thức thể hiện. Di sản thơ Nguyễn Bính nói chung, thơ tình Nguyễn Bính
nói riêng đã đợc nhiều ngời quan tâm nghiên cứu về mặt nội dung và nghệ
thuật. Tuy vậy, cho đến nay phơng diện ngôn ngữ trong thơ tình của ông vẫn
cha nhận đợc sự quan tâm thích đáng. Ngôn ngữ có vai trò là phơng tiện thứ
nhất của văn học, nên chắc chắn việc khảo sát kỹ lỡng hệ thống ngôn ngữ
trong thơ tình Nguyễn Bính sẽ góp phần xác định những điểm độc đáo, đặc sắc
về hình thức biểu hiện, nhất là về cấu trúc, âm điệu, các lớp từ giàu giá trị biểu
nghĩa và các biện pháp tu từ nổi bật. Đề tài luận văn Ngôn ngữ thơ tình
Nguyễn Bính chúng tôi đi theo hớng tiếp cận thơ Nguyễn Bính dựa trên quan
hệ hữu cơ giữa nội dung và hình thức cũng nh quan hệ giữa cá tính của nhà thơ
và thi phẩm của ông. Mặt khác, kết quả khảo sát Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn
Bính có thể góp phần lý giải tại sao mảng thơ này lại có sức cuốn hút nhiều thế
hệ ngời Việt đến vậy.
1.2. Là một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ Mới (1932 - 1945)
nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung, nên khá nhiều bài thơ của
Nguyễn Bính đợc đa vào giảng dạy ở trờng phổ thông. Trong chơng trình đào tạo
cử nhân Ngữ văn ở các trờng đại học và cao đẳng, Nguyễn Bính luôn có vị trí một
tác giả lớn. Tuy vậy, phơng diện ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính nói chung, ngôn ngữ
trong những bài thơ của Nguyễn Bính đợc giảng dạy ở nhà trờng nói riêng cha đợc
đề cập, phân tích. Đề tài luận văn Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính chúng tôi lựa
chọn và thực hiện với mong muốn tiếp cận mảng thơ tình của Nguyễn Bính từ góc
độ ngôn ngữ, qua đó góp phần nhỏ vào việc dạy học tác giả và tác phẩm
Nguyễn Bính trong nhà trờng hiện nay.
9
2. Lịch sử vấn đề
Trong nhiều thập kỷ qua, thơ Nguyễn Bính đã trở thành đối tợng thu hút sự

quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình yêu thích thơ ông và đã có nhiều
công trình nghiên cứu lớn nhỏ viết về cuộc đời và tác phẩm Nguyễn Bính với
quy mô và hớng tiếp cận, nghiên cứu khác nhau.
Trớc cách mạng tháng tám thẩm định hay nhất, gợi đúng cái Chân quê
của hồn thơ Nguyễn Bính phải kể đến bài giới thiệu về Nguyễn Bính của Hoài
Thanh trong Thi nhân Việt Nam Hoài Thanh là ngời đầu tiên nhận ra vẻ đẹp
kín đáo đậm đà của hồn thơ Nguyễn Bính đồng thời đã cắt nghĩa về sự quan tâm
cha thích đáng của giới nghiên cứu đối với thơ ông Cái đẹp kín đáo của những
vần thơ Nguyễn Bính tuy cảm đợc một số đông công chúng mộc mạc khó lọt
vào con mắt của các nhà thông thái thời nay. Tình cờ đọc thơ Nguyễn Bính họ
sẽ bảo Thơ nh thế này có gì?. Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà ngời ta
không thể hiểu bằng một lý trí, một điều đáng quý vô ngần hồn xa đất nớc
Nguyễn Bính đã đánh thức ngời nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng chúng ta [30;
334].
Cùng thời với Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn Việt
Nam hiện đại cũng chỉ ra thứ tình quê xác thực đợc toát lên từ những câu thơ
mang dáng vẻ thực thà, hai lần hai là bốn của Nguyễn Bính [27; 701], Vũ
Ngọc Phan đã đánh giá cao thơ Nguyễn Bính, đặc biệt là mảng thơ viết về làng
quê.
Hai nhà nghiên cứu đã có cái nhìn tinh tế, nhạy cảm trong việc nhận diện
một hồn thơ độc đáo, một lối đi riêng của Nguyễn Bính. Những ý kiến trên có ý
nghĩa định hớng, tin cậy cho công việc nghiên cứu thơ của Nguyễn Bính sau
này.
Trong kháng chiến chống Pháp, những vần thơ xa của ông vẫn đợc trân
trọng. Năm 1951, nhà xuất bản Hơng Sơn cho tái bản liên tiếp hai tập thơ Hơng
cố nhân và Mây tần. Trong thời gian này do hoàn cảnh chiến tranh nên việc
nghiên cứu thơ Nguyễn Bính có nhiều hạn chế.
10
ở miền Nam, việc nghiên cứu thơ Nguyễn Bính đợc chú ý hơn. Thơ
Nguyễn Bính đợc tái bản trong giáo trình của Đại học Văn khoa Sài Gòn, đợc

đánh giá thẩm định trong một số chuyên luận về thơ tiền chiến. Đáng chú ý hơn
cả là Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thợng) - Sài Gòn (1968) của soạn
giả Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng. Đặc biệt trong tập san văn học số
60 có nhiều bài viết về Nguyễn Bính và thơ ông: Nguyễn Bính - thi sĩ suốt đời
mang bệnh tơng t (Vũ Bằng), Nguyễn Bính - nhà thơ kháng chiến tại miền nam
(Thái Bạch), Nguyễn Bính một ngôi sao sáng trên thi đàn dân tộc (Nguyễn
Phan). Tuy số lợng bài viết trong thời gian này khá nhiều song thành tựu cha
đáng kể.
Thơ Nguyễn Bính đợc nghiên cứu rầm rộ đặc biệt sau năm 1985, khi ngời
ta có cái nhìn thận trọng, đúng dắn và sáng suốt hơn với văn học quá khứ trong
đó có phong trào Thơ Mới. Cũng nh một số nhà Thơ Mới khác nh Xuân Diệu,
Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên hàng loạt tập thơ và tuyển chọn thơ Nguyễn Bính
đợc xuất bản: Thơ Nguyễn Bính (Nxb văn học, 1986), Tuyển tập Nguyễn
Bính (Nxb văn học, 1986), Thơ tình Nguyễn Bính (Nxb Đồng Nai, 1996),
Thơ Nguyễn Bính chọn lọc (Nxb văn học, 1992).
Thơ Nguyễn Bính cũng đợc nhắc đến nhiều trong các bài giới thiệu hoặc
trong các chuyên luận về văn chơng: Ngôn ngữ thơ (Nguyễn Phan Cảnh,
2001), Giáo trình văn học Việt Nam 1930 - 1945 (Phan Cự Đệ, Nguyễn
Hoành Khung, Hà Minh Đức), Thơ với lời bình (Vũ Quần Phơng, 1992),
Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca (Hà Minh Đức, 1993).
Năm 1992 nhà xuất bản hội nhà văn cho ra mắt Nguyễn Bính - thi sĩ của
thơng yêu do Hoài Việt su tầm và biên soạn. Năm 1996 nhà xuất bản văn học
ấn hành cuốn sách Nguyễn Bính - thi sĩ của đồng quê. Năm 1994 nhà xuất
bản văn học Hà Nội ra mắt bạn đọc cuốn Nguyễn Bính thơ và đời do Hoàng
Xuân su tầm và biên soạn. Gần đây nhất là cuốn Ba đỉnh cao Thơ Mới: Xuân
Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mạc Tử của tác giả Chu Văn Sơn, Nguyễn Bính
11
hành trình sáng tạo thi ca của Đoàn Đức Phơng (2006). Những công trình này
đã thu hút sự chú ý của nhiều ngời yêu thơ. Đó là cha kể hàng loạt bài viết của
các nhà văn hoặc nhà nghiên cứu phê bình khác nh Tô Hoài, Lại Nguyên Ân,

Đoàn Hơng, Đỗ Lai Thuý, Đức Phơng, Phơng Lan. Thơ Nguyễn Bính đã thở
thành đề tài quen thuộc của nhiều khoá luận, luận văn, luận án trong cả nớc.
Nhìn chung qua các thời kỳ khác nhau, thơ Nguyễn Bính có những thăng
trầm, nhng việc cảm thụ, đánh giá thơ Nguyễn Bính ít có những khác biệt hoặc
những mâu thuẫn gay gắt. Về căn bản, những nhận xét đánh giá của giới phê
bình về Nguyễn Bính khá thống nhất. Dù ở giai đoạn nào, Nguyễn Bính vẫn đợc
xem là nhà thơ của Chân quê, Hồn quê, Tình quê.
Trong thời gian dài, thơ Nguyễn Bính đã đợc nghiên cứu xem xét ở nhiều
góc độ từ nội dung đến nghệ thuật, từ t tởng đến phong cách, từ giọng điệu đến
kết cấu. Cha có một tác giả nào trực tiếp nghiên cứu ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính
một cách tập trung có hệ thống. Một số tác giả có đề cập đến đặc điểm ngôn
ngữ thơ Nguyễn Bính. Chẳng hạn các bài viết của Hà Minh Đức, Đoàn Hơng,
Phơng Lan, Hoài Việt Tóm lại ch a có một công trình nào đi sâu nghiên cứu
khía cạnh hình thức thơ tình Nguyễn Bính một cách đầy đủ cụ thể và có hệ
thống.
* Lịch sử nghiên cứu thơ tình Nguyễn Bính
Ngời đầu tiên đề cập đến thơ tình Nguyễn Bính đó là nhà phê bình Hoài
Thanh trong Thi nhân Việt Nam nhạy cảm, tinh tế Hoài Thanh đã phát hiện ra
vẻ đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính. Đó là chất Chân quê là hồn
xa đất nớc, một phẩm chất quý giá vô ngần mà chúng ta không hiểu đợc
bằng lý trí.
Trong lời giới thiệu tập Chân quê Mã Giang Lân cũng có băn khoăn
giữa tính chất Chân quê với Thơ Mới trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính:
Trong thơ Nguyễn Bính bên cạnh những câu thơ duyên dáng thuần thục nh ca
12
dao ta thấy xen vào những câu thơ quá mới nên thơ ông giống ca dao mà cũng
khác ca dao [21; 17].
Hoài Việt (trong Nguyễn Bính thi sĩ của thơng yêu) đã có nhận xét
công bằng hơn Có ngời trách anh từ khi đi tỉnh về thì để cho hơng đồng gió
nội bay đi ít nhiều chúng tôi không nghĩ thế có Đi tỉnh trong thơ anh mới có

đợc cách ngắt nhịp, đặt câu kể cả việc cấu tứ, lập ý góp cho thơ anh vừa dân tộc
vừa hiện đại, toàn bộ thơ anh hợp thành một tổ khúc đồng nội không lẫn với
ai, không lẫn vào đâu đợc [12; 258].
Có thể thấy, các nhận định đánh giá của các nhà nghiên cứu về ngôn ngữ
thơ tình Nguyễn Bính đều gặp nhau ở điểm: ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính vừa
truyền thống vừa hiện đại nhng nghiêng về truyền thống, gần gũi với ca dao hơn
là sự cách tân, đây cũng là chỗ đặc sắc hơn ngời của Nguyễn Bính.
Còn Phơng Lan và Vũ Quần Phơng đều khẳng định đóng góp riêng, đặc
sắc của thơ tình Nguyễn Bính trên thi đàn Thơ Mới Khi Xuân Diệu, Huy Cận,
Chế Lan Viên và phần lớn các nhà thơ đơng thời chịu ảnh hởng của phơng Tây
và chính điều đó mang lại cho phong trào Thơ Mới những đặc sắc thì Nguyễn
Bính mang đến cho phong trào Thơ Mới một phong cách mộc mạc, chân quê,
một lối ví von đậm đà màu sắc ca dao [12; 209].
Đỗ Đình Thọ trong Đôi lời cuốn sách đã cảm nhận đợc vẻ đẹp ngôn
ngữ thơ Nguyễn Bính Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn bính mộc mạc mà duyên
dáng, chân chất mà điêu luyện, đôi lúc xuất thần tạo nên một tứ lạ cuốn hút ng-
ời đọc đến bất ngờ [12; 301].
Mỗi tác giả đều có những tìm tòi phát hiện những cái riêng của ngôn ngữ
thơ tình Nguyễn Bính. Trong chuyên luận Nguyễn Bính thi sĩ của đồng quê
Hà Minh Đức cho rằng: Nguyễn Bính thích những ngôn ngữ nhiều màu sắc
trong thơ. Nếu Hàn Mặc tử nói nhiều đến hơng vị trong đời, trong thơ, thì
Nguyễn Bính lại chuộng màu sắc [12; 160].
13
Trong bài viết Thi pháp dân gian trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn
Quốc Tuý cho rằng: Ngôn ngữ Thơ Mới dân gian Nguyễn Bính trớc hết là
ngôn ngữ của ca dao của thơ ca dân gian nói chung và rộng hơn nữa là ngôn
ngữ trong đời sống hàng ngày của quảng đại quần chúng nhân dân đợc nhà
nghệ sĩ dân gian Nguyễn Bính chọn lọc mài giũa và tinh luyện [12; 352].
Nhìn chung những bài viết của những tác giả trên có những phát hiện,
nhận định, mới mẻ về các khía cạnh ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính. Tuy nhiên

các nhà nghiên cứu chỉ đề cập ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính nh là những dẫn
chứng để minh hoạ cho những phát hiện về những vấn đề lớn nh thế giới nghệ
thuật thơ, phong cách thơ, thể loại thơ, bản sắc thơ Nguyễn Bính. Cha có công
trình nào dành riêng nghiên cứu ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính một cách đầy
đủ mang tính hệ thống.
Trên cơ sở lựa chọn đề tài Ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính ngời viết sẽ
tập trung khảo sát, đi sâu tìm hiểu hình thức ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính
một cách có hệ thống để làm nổi bật những nét cơ bản của hình thức ngôn ngữ
thơ tình Nguyễn Bính.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của đề tài
Qua khảo sát bộ phận thơ tình Nguyễn Bính từ góc độ ngôn ngữ, đề tài có
mục đích góp phần nhỏ vào quá trình nghiên cứu thơ Nguyễn Bính, một phong
cách thơ có sự nối kết hiệu quả giữa truyền thống và cách tân trong nền thơ Việt
Nam giữa thế kỉ XX.
3.2. Nhiệm vụ và đối tợng nghiên cứu
a. Nhiệm vụ
Luận văn đi vào giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Khảo sát và miêu tả về cấu trúc và âm điệu trong thơ tình Nguyễn Bính.
14
- Khảo sát và miêu tả các lớp từ và các biện pháp tu từ nổi bật trong thơ
tình Nguyễn Bính.
b. Đối tợng nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát 106 bài thơ tình (đợc sáng tác trớc cách
mạng tháng tám năm 1945) có trong tập thơ: Thơ tình Nguyễn Bính (Nxb Đồng
Nai, 1996) và Tuyển tập Nguyễn Bính (Nxb văn học, Hà Nội 1986).
4. Phơng pháp nghiên cứu
Trong khi thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng các phơng pháp nghiên cứu
sau đây:
- Phơng pháp thống kê - phân loại: Đợc dùng khi khảo sát nguồn t liệu

theo từng vấn đề cụ thể.
- Phơng pháp phân tích - tổng hợp: Nhằm làm sáng tỏ từng luận điểm, từ
đó khái quát thành các luận điểm cơ bản.
- Phơng pháp so sánh - đối chiếu: Đợc dùng khi so sánh đối chiếu với nhà
thơ cùng thời về sử dụng ngôn ngữ để làm rõ những đặc điểm riêng về phong
cách ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính.
5. Cái mới của đề tài
Chúng tôi hy vọng đây là một trong những luận văn đầu tiên cố gắng đi
vào tìm hiểu ngôn ngữ thơ tình Nguyễn Bính một cách toàn diện về phơng tiện
nội dung và hình thức góp phần vào việc giảng dạy thơ Nguyễn Bính trong nhà
trờng một cách tốt hơn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của luận văn gồm ba
chơng:
Chơng 1: Một số giới thuyết liên quan đến đề tài.
Chơng 2: Cấu trúc và âm điệu thơ tình Nguyễn Bính.
15
Ch¬ng 3: Ng÷ nghÜa ng«n ng÷ th¬ t×nh NguyÔn BÝnh.
16
Chơng 1
Một số giới thUYếT liên quan đến đề tài
1.1. Thơ và ngôn ngữ thơ
1.1.1. Sự khác biệt giữa thơ và văn xuôi
Thơ và văn xuôi là hai kiểu tổ chức ngôn từ nghệ thuật mà sự khác nhau
thuần tuý bề ngoài trớc hết là ở cơ cấu nhịp điệu. Nhịp điệu ở thơ đợc tạo ra do
sự phân chia (theo những quy tắc mang tính số lợng) dòng ngôn từ tác phẩm
thành những ngữ đoạn vốn không trùng với sự phân chia dòng ngôn từ theo quy
tắc cú pháp.Dòng ngôn từ ở văn xuôi đợc phân chia thành những câu và đoạn
văn vốn có ở lời nói hàng ngày, nhng đã đợc tu chỉnh lại. Tuy nhiên nhịp điệu ở
văn xuôi là hiện tợng phức tạp khó thấy và cha đợc nghiên cứu kỹ.

Trong khi văn xuôi thẻ hiện t tởng, tình cảm của tác giả bằng con đờng
tái hiện một cách khách quan các hiện tợng đời sống thì thơ lại phản ánh đời
sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức của con ngời, nghĩa là con ngời tự cảm
thấy mình qua những ấn tợng, ý nghĩa cảm xúc chủ quan của mình đối với thế
giới và nhân sinh. Thơ cũng tái hiện đời sống trực tiếp, miêu tả thiên nhiên hoặc
thuật lại ít nhiều sự kiện tơng đối liên tục (nh: Ma - Nguyễn Bính, Mùa xuân
chín - Hàn Mạc Tử, Núi đôi - Vũ Cao), song sự tái hiện này không mang
mục đích tự thân mà tạo điều kiện để chủ thể bộc lộ cảm xúc, chiêm nghiệm,
suy tởng của mình.
Tác phẩm văn xuôi thờng có cốt truyện và hành động. Gắn liền với cốt
truyện là một hệ thống nhân vật đợc khắc hoạ đầy đủ. Thơ thờng không có cốt
truyện, mỗi bài thơ thể hiện một tâm trạng nên dung lợng của nó thờng ngắn (vì
một trạng thái tâm trạng không thể kéo dài).
Trong thơ, cái tôi trữ tình giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, thờng xuất
hiện dới dạng nhân vật trữ tình. Còn ở văn xuôi thì nguyên tắc phản ánh hiện
thực trong tính khách quan đã đặt trần thuật vào vị trí là nhân tố tổ chức ra thế
17
giới nghệ thuật của tác phẩm, nó đòi hỏi nhà văn phải sáng tạo ra hình tợng ng-
ời trần thuật.
Thơ là tiếng nói bộc bạch làm việc trên trục dọc (trục lựa chọn, thay thế,
tơng đồng, quy chiếu, trục của các ẩn dụ) còn văn xuôi là tiếng nói đối thoại
làm việc trên trục ngang (trục kết hợp, trục tuyến tính). Trong thơ trữ tình chỉ có
một kiểu lời nói duy nhất thống lĩnh toàn bộ thế giới nghệ thuật: kiểu lời độc
thoại trực tiếp của nhân vật trữ tình (hoá thân của chủ thể trong tác phẩm). ở đó
tính tơng đồng của các đơn vị ngôn ngữ đợc dùng để xây dựng các thông báo.
Thơ sử dụng nhiều hình ảnh, nhiều từ đồng nghĩa để diễn tả một tâm trạng,
một suy t.
Không gian trên trang giấy in thơ có nhiều khoảng trắng hơn trang in văn
xuôi. Đặc điểm này cho thấy, thơ nói ít mà chứa đựng nhiều nghĩa, thơ là văn
bản không liên tục, nó còn có nhiều khoảng lặng. Chính những khoảng trắng

ấy là nơi chất thơ lan toả, là nơi tràn đầy t duy, cảm xúc và hiển nhiên lợng
ngôn từ còn lại là tinh chất đã đợc gạn lựa, chắt lọc công phu.
Trong văn xuôi, ngôn từ mang tính miêu tả (tạo hình), nó ít tập trung vào
chính nó, trong khi đó thơ thì không thể tách rời ngôn từ. ở văn xuôi, ngôn từ
còn trở thành đối tợng miêu tả, nó nh là lời của kẻ khác không trùng với lời
của tác giả. Thơ mang tính độc thoại, trong khi đó văn xuôi thiên về tính đối
thoại, nó thu hút vào mình những giọng nói không trùng nhau. ở văn xuôi
nghệ thuật, sự tơng tác phức tạp giữa các giọng nói (của tác giả, của ngời kể
chuyện, của các nhân vật) nhiều khi khiến ngôn từ trở nên đa hớng, đa trị - tính
đa trị này khác về bản chất so với tính đa nghĩa của ngôn từ thơ ca.
Văn xuôi nghệ thuật và thơ đều cải biến các khách thể thực tại và xây
dựng thế giới nghệ thuật của mình, nhng văn xuôi thực hiện điều này trớc hết
bằng việc thiết định theo cách riêng các khách thể và hành động, hớng tới tính
cụ thể cá nhân của các hàm nghĩa biểu đạt.
18
Có những hình thức trung gian giữa thơ và văn xuôi: thơ văn xuôi, văn
xuôi nhịp điệu. Đôi khi thơ và văn xuôi xuyên thấm lẫn nhau (ví dụ văn xuôi trữ
tình) hoặc chứa đựng trong nhau những mảng văn bản dị loại (tác phẩm thơ
có những mảng văn xuôi hoặc tác phẩm văn xuôi có những đoạn thơ xen kẽ của
các nhân vật hoặc của tác giả).
1.1.2. Các đặc trng của ngôn ngữ thơ
Khi phân biệt thơ với các thể loại khác ngời ta thờng đi theo cách lỡng
phân, đối lập thơ và văn xuôi ở nhiều góc độ khác nhau. ở góc độ ngôn ngữ ta
có thể đối lập thơ với văn xuôi trên ba cấp độ: ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp để
thấy rõ đặc trng của ngôn ngữ thơ ca.
a. Về ngữ âm
Đặc điểm nổi bật về ngữ âm để phân biệt thơ với văn xuôi là đặc trng tính
nhạc. Thơ phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Thế giới nội
tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà còn bằng cả âm
thanh, nhịp điệu. Vì vậy mà nhiều ngời nhất trí xem tính nhạc là đặc thù cơ bản

của ngôn ngữ thơ ca. Đây là điều mà trong văn xuôi ít đợc nhắc đến. Đặc điểm về
tính nhạc có tính phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Tuy nhiên trong mỗi ngôn ngữ có
cách thể hiện riêng tuỳ theo cơ cấu cách cấu tạo và tổ chức khác nhau về ngữ âm.
Tiếng Việt giàu có về nguyên âm, phụ âm, thanh điệu là cơ sở cho ngôn ngữ thơ
ca Việt Nam có dáng vẻ độc đáo về tính nhạc. Khi khai thác về tính nhạc trong
thơ, chúng ta cần chú ý những đối lập sau.
- Sự đối lập trầm - bổng, khép - mở của các nguyên âm.
- Sự đối lập về vang - tắc giữa hai dãy phụ âm mũi và phụ âm tắc vô
thanh trong các phụ âm cuối.
- Sự đối lập cao - thấp, bằng - trắc của các thanh điệu.
Bên cạnh sự đối lập đó vần và nhịp cũng góp phần quan trọng trong việc
tạo tính nhạc cho ngôn ngữ thơ ca. Những yếu tố về ngữ âm này là cơ sở cũng là
19
chất liệu cho sự hoà âm của ngôn ngữ thơ ca, tạo nên những âm tởng trầm bổng
diệu kỳ.
Tính nhạc trong ngôn ngữ thơ ca đa thơ ca xích gần lại với âm nhạc làm
chỗ dựa cho các phơng pháp diễn đàn âm nhạc.
b. Về ngữ nghĩa
Ngữ nghĩa trong thơ ca không đồng nhất với ngữ nghĩa của ngôn ngữ
giao tiếp đời thờng, thậm chí khác cả ngữ nghĩa trong văn xuôi. Ngữ nghĩa
trong văn xuôi chủ yếu là nghĩa miêu tả, tờng thuật, kể chuyện. Còn nghĩa của
ngôn ngữ thơ ca phong phú hơn nhiều. Mỗi từ ngữ khi đợc đa vào thơ đều hoạt
động rất linh hoạt và đa dạng.
Văn xuôi không hạn chế về số lợng âm tiết, từ ngữ, câu chữ. Còn trong
thơ tuỳ theo thể loại mà có những cấu trúc nhất định. Khi đi vào thơ, do áp lực
của cấu trúc mà ngữ nghĩa của ngôn từ nhiều khi không dừng lại ở nghĩa đen,
nghĩa gốc, nghĩa ban đầu của nó mà còn có những ý nghĩa mới tinh tế hơn, đa
dạng hơn, mới lạ hơn nhiều. Đó là nghĩa bóng hay gọi là ý nghĩa biểu trng của
ngôn ngữ thơ ca. Đặc trng ngữ nghĩa này tạo cho ngôn ngữ thơ một sức cuốn
hút kỳ lạ đối với ngời đọc, ngời nghe. Bởi họ không chỉ tiếp nhận văn bản thơ

bằng mắt, bằng tai mà bằng cả tình cảm, trí tởng tợng, liên tởng. Điều đó làm
làm cho ngôn ngữ thơ không chỉ là phơng tiện giao tiếp mà còn đóng một vai
trò khác đó là phơng tiện thể hiện t tởng, tình cảm con ngời.
c. Về ngữ pháp
Nếu hiểu thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản bắt ngời
tiếp nhận phải nhớ, phải cảm xúc, phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức
ngôn ngữ này [28; 23]. Thì sự quái gở, kỳ lạ đó đợc thể hiện rất rõ ràng trong
bình diện ngữ pháp của ngôn ngữ thơ ca.
Trớc hết là sự phân chia dòng thơ, có ngời quan niệm mỗi dòng thơ tơng
ứng với một câu thơ. Tuy nhiên trong thực tế câu thơ không hoàn toàn đồng
nhất với khái niệm câu trong ngữ pháp. Vì vậy, trong thơ, câu và dòng thơ
20
không phải lúc nào cũng trùng nhau. Có những câu thơ bao gồm nhiều dòng mà
mỗi dòng thơ chỉ có một vế câu. Điều này thể hiện rõ trong thơ ca hiện đại qua
hiện tợng câu thơ vắt dòng. Có khi trên một dòng thơ lại chứa nhiều câu mà mỗi
câu có đầy đủ nòng cốt chủ - vị, cũng có câu là những câu đặc biệt.
Cấu trúc câu trong ngôn ngữ thơ thờng không tuân theo quy tắc bắt buộc
và chặt chẽ nh câu trong văn xuôi và trong ngữ pháp thông dụng. Nhà thơ có thể
sử dụng các kiểu câu khác nhau nh câu đảo ngữ, câu vắt dòng, câu trùng điệp
mà không làm ảnh hởng đến việc tiếp nhận văn bản của ngời đọc. Ngợc lại
những kết hợp tổ chức ngôn ngữ bất quy tắc lại mở ra những giá trị mới, ý
nghĩa mới cho ngôn ngữ thơ ca. Sự quái đản về cú pháp của ngôn ngữ thơ
giúp nhà thơ diễn đạt đợc những tầng lớp nghĩa phức tạp, tinh tế vô cùng của sự
vật trong sự hữu hạn của câu chữ, thể loại nhờ đó tạo nên phong cách riêng của
mỗi nhà thơ.
Tóm lại ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ có tính nghệ thuật. Nhờ có tính
nghệ thuật đó mà ngôn ngữ thơ có khả năng miêu tả những trạng thái tinh tế, bí
ẩn của thế giới tâm hòn con ngời.
1.1.3. Các lớp từ giàu mầu sắc biểu cảm trong thơ ca Việt Nam
1.1.3.1. Lớp từ láy

Từ láy là những từ đợc cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những
quy tắc nhất định, sao cho giá trị giữa các tiếng trong từ vừa điệp vừa đối hài
hoà với nhau về âm và về nghĩa có giá trị tơng đơng hoá [20; 33].
Các từ láy có thể phân thành từng kiểu khác nhau căn cứ vào cách hoà
phối ngữ âm và số lần tác động của phơng thức láy.
Căn cứ vào cách hoà phối ngữ âm có thể phân biệt hai kiểu từ láy:
Từ láy bộ phận chia làm hai loại:
Láy phụ âm đầu: Vu vơ, thấp thỏm, long lanh, nhí nhảnh
Láy phần vần: Cập rập, chon von, lòng thòng, lênh khênh
Từ láy hoàn toàn chia làm hai loại:
21
Từ láy toàn bộ âm tiết giữ nguyên: Xa xa, lo lo, chuồn chuồn, xanh
xanh
Căn cứ vào số lần tác động của phơng thức láy có thể phân biệt các kiểu
từ láy:
Từ láy đôi: Sạch sẽ, ngoằn ngèo, khúc khuỷu, chập chờn
Từ láy ba: Dửng dừng dng, cỏn còn con, sạch sành sanh
Từ láy t: Thập thà thập thò, gập gà gập gềnh, đủng đa đủng đỉnh
Từ láy có những đặc trng ngữ nghĩa riêng, đợc hình thành từ nghĩa của
hình vị gốc theo hớng mở rộng hoặc thu hẹp, tăng cờng hay giảm nhẹ, tổng hợp
hay chuyên biệt hoá.
Trong văn chơng Việt Nam đơng đại, các nhà thơ mới đã tài tình và khéo
léo sử dụng từ láy để làm nổi bật bức tranh thiên nhiên và tâm trạng con ngời.
Huy Cận đã dùng các từ: điệp điệp, song song, chót vót, mênh mông
để miêu tả chiều sâu và chiều rộng không chỉ của con sông dài Tràng Giang mà
còn của tâm trạng nhà thơ.
Nguyễn Khuyến rất tài khai thác khả năng diễn tả của từ láy: (thấp) le te
(đom đóm) lập loè, (bé) tẻo teo, (thằng bé) lom khom
Do khả năng biểu cảm của từ láy rất phong phú nên các nhà văn, nhà thơ
lớn đều tận dụng và khai thác tối đa tiềm năng to lớn của từ láy trong văn chơng

của mình để đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.3.2. Lớp từ tình thái
Tình thái là những từ biểu thị sắc thái tình cảm, cảm xúc của ngời nói
[22; 68].
Tình thái thờng đứng ở trong câu không phụ thuộc bất cứ thành phần
nào.
Tình thái đứng đầu câu để biểu thị gọi - đáp: ơi, hỡi, ạ, vâng, dạ
Ví dụ: - Nga ơi !
22
Tình thái từ đứng ở đầu câu để biểu thị sự ngạc nhiên, vui mừng, sợ hãi,
bực tức, tiếc thơng, xúc động.
Ví dụ: A ! Mẹ về.
Tình thái từ đứng ở cuối câu để thể hiện những sắc thái tình cảm nghi
vấn, cảm xúc ngạc nhiên.
Các tình thái từ: à, , nhỉ, nhé, hở, hả, dùng tạo câu nghi vấn.
Ví dụ: Anh cũng về ?
Các tình thái từ: nhé, nhá, ghen, dùng tạo câu cầu khiến một cách thân
mật.
Ví dụ: Anh Nam về nhé !
Nhờ lớp tình thái làm tăng giá trị biểu cảm trong câu. Tình thái từ biểu
thị những sắc thái tình cảm ở những góc độ khác nhau khi phát ngôn.
1.1.4. Các biện pháp tu từ thờng dùng trong thơ ca
1.1.4.1. ẩn dụ
ẩn dụ là phơng thức tu từ trên cơ sở đồng nhất hai hiện tợng tơng tự, thể
hiện cái này qua cái kia mà bản thân cái đợc nói tới thì giấu đi một cách kín
đáo [25; 11].
ẩn dụ không chỉ có giá trị hình tợng mà còn chứa đựng sức mạnh biểu
cảm. Nó giúp cho ngôn ngữ thoát khỏi sự tầm thờng, đem cái lạ vào ngôn ngữ,
tạo hình ảnh và đồng thời đem đến cho ngôn ngữ một chiều sâu.
Ai làm cho bớm lìa hoa

Cho chim xanh nỡ bay qua vờn hồng
(Ca dao)
Hoa và bớm, chim xanh và vờn hồng là những hình ảnh ẩn dụ
chỉ ngời con trai và ngời con gái, ngời đi - ngời chờ. bớm và chim xanh là
yếu tố vô định có thể bay đi nhiều nơi còn hoa và vờn hồng thì không xê
dịch.
23
Nàng rằng khoảng vắng đêm trờng
Vì hoa nên phải đánh đờng tìm hoa.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Từ hoa đợc dùng để ví ngời tình nhân hào hoa, phong nhã. Có khi từ
hoa lại đợc dùng để ví ngời có phẩm chất cao đẹp, đối lập với cỏ ví hạng
thấp hèn trong cuộc đời éo le đầy nghịch cảnh.
Phợng những tiếc cao diều bay liệng
Hoa thờng hay héo cỏ thờng tơi.
(Nguyễn Trãi)
ẩn dụ thực chất là so sánh ngầm, trong đó vế so sánh đợc giảm lợc, chỉ
còn lại vế đợc so sánh. Phép ẩn dụ là phơng thức chuyển nghĩa của một đối tợng
này thay cho một đối tợng khác khi hai đối tợng có một chút nghĩa tơng đồng
nào đó [19; 194].
Với chức năng làm mới, làm giàu, làm đẹp, làm biến chuyển ngôn ngữ
ẩn dụ là một trong những phơng thức tu từ xuất hiện nhiều nhất trong thơ đặc
biệt thơ trữ tình thực sự là vơng quốc của ẩn dụ.
ẩn dụ thể hiện phong cách sáng tạo của tác giả, phong cách thời đại,
phong cách dân tộc. Vì vậy nghiên cứu ẩn dụ của một tác giả có thể bao quát đ-
ợc thế giới thơ ca của tác giả đó.
1.1.4.2. So sánh (tỉ dụ)
So sánh là phơng thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình tợng dựa
trên cơ sở đối chiếu hai hiện tợng có dấu hiệu tơng đồng nhằm làm nổi bật đặc
điểm thuộc tính của hiện tợng này qua đặc điểm thuộc tính của hiện tợng kia

[25; 282].
So sánh thờng có hai vế, vế đầu là hiện tợng cần đợc biểu đạt một cách
hình tợng. Vế sau là hiện tợng đợc dùng để so sánh. Hai vế này thờng đợc nối
với nhau bởi từ nh hoặc bằng các từ so sánh khác bằng, hơn, kém.
Ví dụ: Thân em nh tấm lụa đào
24
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
(Ca dao)
Mô hình cấu tạo đầy đủ nhất của phép so sánh tu từ gồm bốn yếu tố:
Mô hình 1: Cấu trúc so sánh đầy đủ gồm 4 yếu tố sau.
1. Từ ngữ, hình
ảnh đợc so sánh
2. Tính chất cơ sở
so sánh
3. Từ so sánh
4. Hình ảnh so
sánh
Lời yêu mỏng mảnh nh màu khói
Vịnh xanh nh
buổi ban đầu
tình yêu
Kiểu cấu trúc so sánh trên giúp ngời đọc hiểu rõ hơn về tính chất, trạng
thái của hình ảnh đợc so sánh.
Mô hình 2: Cấu trúc so sánh vắng yếu tố thứ hai.
1. Từ ngữ, hình
ảnh đợc so sánh
2. Tính chất cơ sở
so sánh
3. Từ so sánh
4. Hình ảnh so

sánh
Tình ta x nh hàng cây
Sông x cũng nh Tình yêu
Mô hình 3: Cấu trúc so sánh vắng yếu tố thứ 2 và 3.
1. Từ ngữ, hình
ảnh đợc so sánh
2. Tính chất cơ sở
so sánh
3. Từ so sánh
4. Hình ảnh so
sánh
Anh x x
con đờng
xa ngái
Anh x x bức vẽ không màu
Mô hình so sánh 3 đợc cấu tạo bằng cách sử dụng chỗ ngắt giọng và tạo
ra hình ảnh so sánh theo cảm nhận của nhà thơ.
Tuỳ từng trờng hợp cụ thể có thể đảo trật tự so sánh hoặc vắng một số
yếu tố theo mô hình trên, vắng yếu tố thứ ba từ so sánh thêm bao nhiêu
bấy nhiêu dùng là, bằng - cũng bằng làm từ so sánh.
Trong văn chơng so sánh là phơng thức tạo hình gợi cảm, phơng thức
biểu đạt một cách hình tợng nội dung cảm xúc để thẩm mỹ hoá lời thơ.
25

×