Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Phân tích giá trị kinh tế và giá trị sinh học của hệ sinh thái rạn san hô Cù Lao Chàm tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.41 KB, 19 trang )

Đề tài: Phân tích giá trị kinh tế và giá trị sinh học của hệ sinh thái rạn san hô Cù
Lao Chàm tỉnh Quảng Nam
THÀNH VIÊN NHÓM 6
1. Huỳnh Thị Đoàn Trúc Mai (B1207374)
2. Lê Phạm Minh Tâm (B1307406)
3. Phạm Quốc Thịnh (B1207414)
4. Phạm Lý Thảo Nguyên (B1207387)
5. Võ Thành Đô (B1207349)
6. Nguyễn Thị Mỹ Duyên (B1309255)
A. GIỚI THIỆU
Trong các hệ sinh thái biển, hệ sinh thái rạn san hô vai trò đặc biệt đối với sự tham gia
hình thành và bảo vệ vùng bờ ven biển nhiều vùng đảo của nhiều quốc gia. Hệ sinh thái
rạn san hô còn bảo tồn đất đai, sự tồn tại của con người và đặc biệt là giữ gìn sự đa dạng
sinh học (BDN). Rạn san hô hay ám tiêu san hô là cấu trúc aragonite (CaCO
3
) được tạo
bởi các cơ thể sống (Bách Khoa toàn thư mở Wikipedia). San hô là một loài động vật,
không phải là một khoáng chất. Các vành đai san hô phải mất khoảng 18.000 năm đến
20.000 năm để hình thành. Các rạn san hô thường sinh trưởng ở các vùng biển nhiệt đới
nông mà trong nước có ít hoặc không có dinh dưỡng. Việt Nam là quốc gia có số loài san
hô vào loại đa dạng nhất thế giới (Thăng Long, 2012).
Theo kết quả sơ bộ đợt khảo sát do nhóm Công tác Tiểu ban San hô của dự án Quỹ môi
trường toàn cầu (GEF) tiến hành thì Việt Nam có khoảng 1222km
2
diện tích rạn san hô,
được phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam. Miền Trung và miền Nam có diện tích lớn nhất và
đa dạng sinh học cao. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có số loài san hô vào loại đa
dạng nhất thế giới. Điển hình, có tới 90% các loài san hô cứng của vùng Ấn Độ - Thái
Bình Dương và là khu vực có nhiều loài san hô mềm thuộc giống Alcyonaria nhất trong
vùng Tây Ấn Độ - Thái Bình Dương (Thăng Long, 2012).
Đặc biệt hệ sinh thái rạn san hô tại Cù Lao Chàm có hơn 311ha rạn san hô, với khoảng


300 loài; 50ha thảm cỏ biển với 5 loài đặc trưng; 76 loài rong biển; hơn 270 loài cá; 97
loài thân mềm; 11 loài động vật da gai Khu rừng đặc dụng Cù Lao Chàm có 499 loài
thuộc 352 chi, 115 họ của 5/6 ngành thực vật bậc cao Sự đa dạng của hệ sinh thái ở Cù
lao Chàm thuộc loại bậc nhất Việt Nam.
1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Mục tiêu chung: Phân tích giá trị kinh tế và giá trị sinh học của hệ sinh thái rạn san hô
Cù Lao Chàm, tỉnh Quảng Nam nhằm gìn giữ, bảo tồn sự đa dạng của hệ sinh thái rạn san
hô ở Cù Lao Chàm.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Giới thiệu một cách khái quát, sơ lược những kiến thức cơ bản về san hô ở Cù
Lao Chàm.
+ Nêu ra được thực trạng những rạn san hô ở Cù Lao Chàm hiện nay.
+ Phân tích giá trị kinh tế của hệ sinh thái rạn san hô.
+ Phân tích giá trị sinh học của hệ sinh thái rạn san hô.
+ Đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý nhằm phát huy các giá trị ưu thế để tạo hiệu
quả kinh tế cao, kết hợp hài hòa giữa khai thác - bảo vệ tài nguyên phục vụ phát triển bền
vững các hệ sinh thái.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
1. Hệ sinh thái rạn san hô là gì? Tại Cù Lao Chàm hệ sinh thái rạn san hô hiện nay đang
bị tổn hại như thế nào?
2. Phân tích giá trị sinh học của hệ sinh thái rạn san hô là gì? Ta sẽ phân tích được những
giá trị sinh học gì của hệ sinh thái rạn san hô ở cù lao Chàm?
3. Phân tích giá trị kinh tế của hệ sinh thái rạn san hô là như thế nào? Việc phân tích giá
trị kinh tế hệ sinh thái rạn san hô ở Cù Lao Chàm sẽ đem đến những lợi ích gì? Khai thác
được thêm những gì và cần phải bảo vệ như thế nào?
4. Cần làm gì để phục hồi, gìn giữ sự tồn tại của hệ sinh thái quý giá này? Sử dụng biện
pháp gì để bảo vệ sự phát triển bền vững trong khi chúng ta vẫn có thể tiếp tục khai thác
các giá trị của hệ sinh thái?
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu thứ cấp được thu thập từ sách, tạp chí
chuyên ngành, các nghiên cứu khoa học và các phương tiện truyền thông khác
- Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu được thu thập trên cơ sở chọn lọc, tổng hợp
kết hợp phương pháp so sánh tương đối, tuyệt đối và đưa ra nhận xét, đánh giá.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2
- Không gian nghiên cứu: đề tài được thực hiện ở Cù Lao Chàm thuộc xã đảo Tân Hiệp,
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
- Thời gian nghiên cứu:
+ Thời gian thực hiện đề tài: từ tháng 8/2014 đến tháng 9/2014
+ Số liệu thứ cấp: số liệu sự thay đổi số lượng cũng như những giá trị kinh tế, sinh
học của hệ sinh thái rạn san hô trong những năm gần đây.
+ Nội dung nghiên cứu: giá trị kinh tế, giá trị sinh học của hệ sinh thái rạn san hô ở
Cù Lao Chàm.
DANH SÁCH HÌNH
Hình 1. Cấu tạo một polyp (a); Công cụ bắt mồi của san hô (b)………………………….3
Hình 2. Các polyp và tảo (zooxanthollae) gắn trên nhánh xương san hô…………………4
Hình 3. Độ phủ san hô toàn vùng Cù Lao Chàm năm 2012………………………………7
Hình 4. Phân tích Độ phủ san hô toàn vùng Cù Lao Chàm năm 2012……………………7
Hình 5. Thực trạng các loại cá sinh sống ở rạn san hô Cù Lao Chàm…………………….8
Hình 6. Mật độ tổng cá rạn trong toàn bộ điểm khảo sát………………………………….9
Hình 7. Lượng khách đến Cù Lao Chàm……………………………………………… 16
B. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ HỆ SINH THÁI RẠN SAN HÔ
1. Thành phần chính của HST rạn san hô
1.1 Cấu
trúc của hệ sinh thái rạn san hô
San hô là sinh vật tương đối đơn giản, tồn tại ở các vùng biển nông

sâu.

Chúng là những cá thể hình trụ rất nhỏ (gọi là polyp) có hàng xúc tu ở trên đầu
để
bắt mồi trong môi trường nước và được xếp vào lớp san hô (Anthozoa). Một số lớn
san hô phát triển
dạng
tập đoàn và hình thành bộ xương
chung.

3
(a) (b)
Hình 1. Cấu tạo một polyp (a); Công cụ bắt mồi của san hô (b)
San hô có ba nhóm chính là san hô cứng, san hô mềm và san hô sừng.
- San hô cứng có
bộ
xương bằng đá vôi và thường tăng trưởng rất chậm, có loại
chỉ vào khoảng 1cm/năm. Nghĩa là một khối san hô với đường kính khoảng 1m có thể
đã trải qua cuộc đời
hàng
thế kỷ. Khi san hô chết, bộ xương có màu trắng. San hô cứng
được xem là thành phần
chính
cấu tạo nên rạn san hô. Chúng chỉ phân bố hạn chế ở
những vùng biển nông, ấm áp và
cấu
trúc đá vôi do chúng liên kết lại tạo thành rạn san
hô. Nhưng chúng rất mảnh mai và

thể bị tàn phá do gió bão và neo
tàu.
- San hô sừng có thành phần đá vôi bao bọc lõi là vật liệu sừng hoặc đá vôi.

Tập đoàn
san hô
sừng có dạng như những chiếc quạt hoặc cành cây mềm mại. Khi
san hô sừng chết còn lại
bộ
xương màu đỏ, đen hoặc trắng. Loại san hô này sinh
trưởng rất
chậm.
- San hô mềm tiêu giảm bộ xương bên trong và chỉ còn lại các trâm xương đá
vôi nhỏ. Một
số
rất mềm dẻo đến mức đu đưa theo dòng nước. Sẽ không còn gì để
lại sau khi san hô
mềm
chết
đi.
Hình 2. Các polyp và tảo (zooxanthollae) gắn trên nhánh xương san

1.2 Hình thái rạn san

Ở những nơi mà rạn tồn tại, kiểu phát triển của rạn tùy thuộc vào địa hình (độ
sâu,
hình
dạng) của nền đáy, lịch sử phát triển địa chất của vùng và các nhân tố môi
trường, đặt biệt

nhiệt độ và mức độ chịu đựng sóng gió. Sự phát triển lên phía trên
4
của cấu trúc rạn có thể cho phép san hô tiếp tục
tăng

trưởng lên vùng cạn hơn. Qua
nhiều quá trình biến động của địa chất biển, đã hình thành
các
kiểu rạn hô khác
nhau:
- Rạn riềm (fringing reef): rất phổ biến xung quanh các đảo nhiệt đới và đôi khi
dọc theo
bờ
đất liền. Đây là kiểu cấu trúc được coi là đơn giản nhất với sự phát triển
đi lên của nền đá
vôi
từ sườn dốc thoải ven biển, ven đảo. Do tồn tại ở gần bờ, bị ảnh
hưởng bởi sự đục nước,
nên
chúng hiếm khi vươn đến độ sâu
lớn.
- Rạn dạng nền (platform reef) là một cấu trúc đơn giản đặc trưng bởi sự cách biệt
với
đường
bờ và có thể thay đổi lớn về hình dạng. Kích thước của chúng có thể rất lớn,
đến 20km
2

chiều
ngang. Lịch sử địa chất của chúng cũng rất khác nhau với nguồn gốc
hình thành khá đa
dạng.
- Rạn chắn (barrier reef): được phát triển trên gờ của thềm lục địa. Rạn chắn là
cấu trúc
rạn

nổi lên từ biển sâu và nằm xa bờ. Một số vốn nguyên thủy là dạng riềm
nhưng do vùng bờ
bị
chìm xuống hay bị ngập nước khi biển dâng
lên.
- Rạn san hô vòng (atoll) là những vùng rạn rộng lớn nằm ở vùng biển sâu. Mỗi
đảo
san
hô vòng là tập hợp của các đảo nổi và bãi ngầm bao bọc một lagoon rộng lớn
với đường
kính
có thể lên đến 50km. Kiểu rạn này chỉ có ở vùng biển sâu nằm ở ngoài
thềm lục
địa.
1.3 Môi trường tự
nhiên
1.31 Ánh
sáng
Tất cả san hô tạo rạn đòi hỏi đủ ánh sáng cho quang hợp của tảo cộng sinh
trong nội bào
của
chúng. Theo độ sâu, ánh sáng thay đổi rất nhanh cả về cường độ và
cả về thành phần.
Giới
hạn này kiểm soát độ sâu mà san hô sinh trưởng. Các loài
khác nhau có sức chịu đựng
khác
nhau đối với mức độ chiếu sáng cực đại và cực
tiểu. Đó là nguyên nhân chính
của

sự khác nhau về cấu trúc quần xã
rạn.
1.3.2 Trầm
tích
Nhiều kiểu trầm tích khác nhau bao phủ trên và xung quanh rạn bao gồm vụn
san hô thô,
các
loại cát và cả bùn mịn. Kiểu trầm tích trên rạn ở một số nơi nào đó
phụ thuộc vào dòng
chảy,
sóng và cả nguồn gốc trầm tích. Ở gần bờ trầm tích chủ
yếu được cung cấp từ đất liền
qua vận
chuyển của sông. Những trầm tích như thế có
thành phần hữu cơ cao, dễ bị khuấy
động
bởi sóng và có thể giữ lại lơ lửng trong
nước một thời gian dài, làm đục nước và hạn chế
độ
xuyên sáng. Sự sa lắng của
5
chúng có thể giết chết các sinh vật như san hô, hoặc làm
nghẹt các
polyp không đủ
khả năng đẩy chúng
ra.
1.3.3 Độ
muối
Ít khi độ muối nước biển trở nên quá cao để ảnh hưởng đến quần xã san hô. Độ
muối thấp


ảnh hưởng quan trọng và thông thường hơn đối với phân bố rạn và phân
vùng san hô.
Rạn
không thể phát triển ở những vùng mà nước sông tràn ngập, đó là
nhân tố chính kiểm soát
san
hô dọc bờ. Ảnh hưởng chính của độ muối lên phân bố vùng
san hô là do nước mưa. San

nói chung có khả năng chịu đựng độ muối thấp trong
một giai đoạn ngắn, nhưng khi mưa
rất
to cùng với triều thấp rạn có thể bị hại, thậm chí
bị phá hủy hoàn
toàn.
1.3.4 Biên độ
triều
Mức chênh triều khác nhau giữa các rạn ở các vùng khác nhau. Sự khác nhau đó
ảnh
hưởng
đáng kể đến sự phân vùng của quần xã san hô. Triều càng cao, ảnh hưởng
của sự ngập
triều
và khả năng vận chuyển chất dinh dưỡng tương ứng cũng như ảnh
hưởng đến sự bày
khô
càng
lớn.
2. Vai trò, chức năng, giá trị của hệ sinh thái rạn san hô

Các rạn san hô đa dạng đã tham gia hình thành và bảo vệ hàng ngàn hòn đảo.
Chúng có tầm quan trọng đặc biệt ở những đảo lớn nhỏ và vùng biển trong việc bảo tồn
đất đai và sự tồn tại của con người (Kenchitngon & Hudson, 1988).
2.1 Đối với tự nhiên
Rạn san hô đươc coi là hệ sinh thái đa dạng nhất, nhiều loài đặc trưng đại diện
cho hầu hết các nhóm động vật biển. Các hang hốc là nơi trú ẩn cho các động vật không
xương sống, đặc biệt là cá con; với những loài sò, trai, hải quỳ, tảo thì rạn san hô là nơi ở
bắt buộc. Nhiều loài khác coi rạn san hô là nơi ở cấp thiết trong giai đoạn bị đe dọa của
chu trình sống, nơi kiếm thức ăn, bãi ương con và trú ẩn, điển hình là loài rùa biển, một
thành phần quan trọng của quần xã san hô. Rùa Xanh đẻ và ấp trứng trên bãi ương con
trên cạn. Đồi mồi ăn ngủ trên cạn, đẻ trứng trên các bãi cát san hô hoặc các đảo có rạn
riềm.
Tính đa dạng của các loài trong san hô cao đến mức nhiều loài vẫn chưa được mô
tả. Vì vậy rạn được coi là “kho dự trữ” gien, nắm giữ nhiều dấu vết, bằng chứng để có thể
hiểu được các quần thể động, thực vật phát triển như thế nào và có chức năng ra sao.
6
Rạn san hô hạn chế quá trình xâm thực bờ đảo do ăn mòn hóa học, do sóng, dòng
triều tạo thành các ngấn biển ăn sâu vào bờ đảo cho tới khi đủ sâu gây sạt lở nghiêm
trọng. Hàng năm rạn san hô cung cấp hàng triệu tấn cacbon cho các vùng nước lân cận,
phục vụ cho quá trình sống của các sinh vật biển.
2.2 Đối với con người và địa phương
Rạn san hô được coi là một trong những hệ sinh thái có năng suất cao nhất trên
thế giới, khoảng 0,1% diện tích Trái đất. Nghề cá có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với
rạn san hô chiếm khoảng 10% sản lượng nghề cá thế giới. Sức sản xuất cao như thế nhờ
tín hiệu quả của chu trình chuyển hóa vật chất mà các loại tảo có khả năng cố định Nitơ
đóng vai trò quyết định.
Những loài cá phân bố rộng, nhưng trong một khoảng thời gian chúng đến các rạn
san hô để kiếm ăn hay sinh sản. Cá, rùa, tôm hùm, bạch tuộc, trai ốc và rong được con
người khai thác làm thưc phẩm, đặc biệt là các loài cá di cư như cá thu, cá ngừ…. Các
loài cá trải qua cả cuộc đời trong rạn: cá mú, cá hồng,… có thể đánh bắt quanh năm

nhưng sản lượng không lớn. Tôm hùm là mang lại giá trị kinh tế cao cho ngư dân.
Các loại rong biển, có giá trị dinh dưỡng cao do chứa nhiều vitamin và muối
khoáng, được khai thác nhiều ở rạn san hô. Một số sinh vật như trai, ốc được khai thác
làm đồ lưu niệm, trang sức.
Các rạn san hô được coi là kho dược liệu dưới đáy biển do có nhiều sinh vật có
hoạt tính sinh học hoặc độc tố có giá trị dược liệu như: san hô sừng, san hô mềm,…
Hệ sinh thái rạn san hô là nguồn lợi to lớn phục vụ cho giải trí và du lịch. Bơi và
lặn là những hoạt động góp phần phát triển kinh tế du lịch ở nhiều vùng đảo nhỏ. Trước
đây, câu và săn cá ở rạn là môn thể thao chính, giờ đây xem và chụp ảnh sinh vật rạn trở
nên hấp dẫn hơn. Trong vài thập niên gần đây do nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí tăng cao, rạn
trở thành nguồn thu lớn cho du lịch sinh thái.
II. HIỆN TRẠNG HỆ SINH THÁI RẠN SAN HÔ CÙ LAO CHÀM
1. Độ phủ san hô ở Cù Lao Chàm
\
7
1.
2.
3.
4.
5.
6.
Hình 3. Độ phủ san hô toàn vùng Cù Lao Chàm năm 2012
Hình 4.
Phân tích
Độ phủ san
hô toàn vùng
Cù Lao
Chàm năm 2012
Nhìn chung độ phủ san hô trong toàn Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm năm 2012
(26,4%) giảm so với năm 2011 (30%) nhưng không ở mức sai khác đáng kể và vẫn đang

có sức khỏe khá.
Độ phủ san hô tại Cù Lao Chàm, theo Chou et al (1996), năm 2012 ở mức khá,
(hơn 25%) và có khả năng phát triển thêm nếu được bảo vệ tốt. Tại Hòn Lá, độ phủ san
hô ở mức tốt (50%), tại 02 đới cạn và sâu cũng ghi nhận sự xuất hiện của san hô chết vỡ
vụn (RB). Riêng tại khu vực Bãi Bắc, Bãi Bìm, Bãi Hương, Hòn Tai ở mức yếu và giảm
so với năm 2011.
Độ phủ san hô cứng và mềm ở tại Cù Lao Chàm theo số liệu khảo sát có sự khác
biệt. San hô mềm có xu hướng tăng nhẹ (3%) và ngược lại san hô cứng giảm nhiều
(7,5%) so với năm 2011. Một số điểm khảo sát có độ phủ san hô cứng sống cao như Đâu
Tai, Hòn Khô đa số những điểm này thuộc vùng bảo vệ nghiêm ngặt được quản lý tốt bởi
lực lượng tuần tra và cộng đồng. Tại Hòn Tai tỷ lệ san hô sống cứng giảm mạnh (gần
20%).
8
2. Đa dạng loài sinh vật
Hình 5. Thực trạng các loại cá sinh sống ở rạn san hô Cù Lao Chàm
Hình 6. Mật độ tổng cá rạn trong toàn bộ điểm khảo sát
9
Một số nhóm cá chỉ thị có giá trị kinh tế cao khác như cá kẽm, cá hồng, cá chình,
bàng chài gù, cá mú gù, đều bắt gặp với mật độ rất thấp (trung bình < 2 cá thể/100m
2
),
riêng cá mó có mật độ cao hơn khoảng 3 cá thể/100m
2
, đặc biệt cá mú gù không bắt gặp
tại thời điểm khảo sát. Các loài cá mú nhóm kích thước lớn hơn 30cm tăng nhẹ.
Hải sâm là một trong những động vật da gai tiêu biểu nhất trong rạn san hô, đặc
biệt trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến nay, khi nói đến hải sâm của Việt Nam thì
không thể không nhắc đến Cù Lao Chàm. Qua số liệu khảo sát năm 2011 và năm 2012 thì
mật độ hải sâm tương đối cao (năm 2012 trung bình 4 - 6 cá thể/100m
2

). Mật độ hải sâm
cao nhất tại Hòn Khô, Hòn Lá những nơi được bảo vệ tốt và sinh cảnh phù hợp với vòng
đời sinh trưởng của nó.
10
Các loài giáp xác đặc trưng trong rạn như: tôm bác sỹ, tôm hùm tại thời điểm
khảo sát đều ghi nhận sự có mặt, tuy nhiên mật độ ở mức thấp và giảm so với năm 2011
khoảng 0,6%. Các loài ốc đụn (ốc nón) và trai tai tượng có mật độ thấp nhưng vẫn giữ
nguyên mức như năm 2011 (trung bình 2 cá thể/100m
2
).
Tóm lại, hiện trạng chung độ phủ san hô sống (gồm cả san hô cứng và san hô
mềm) ở khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm, ở mức khá hoặc tốt (>26%). Điểm Hòn Lá, Hòn
Khô, Đâu Tai có độ phủ san hô sống cao nhất (35 - 60%), kế tiếp là Hòn Mồ, Hòn Dài.
Đặc biệt tại Hòn Lá và vùng Đâu Tai có độ phủ san hô cứng tạo rạn cao hơn nhiều so với
các điểm còn lại khoảng 25% ở cùng thời điểm khảo sát. Hiện trạng hợp phần đáy là đá
rất cao ở cả 10 điểm khảo sát cả đới cạn và đới sâu, khoảng trên 45%, (trong đó chủ yếu
san hô chết từ lâu) điều này cho thấy nếu quản lý tốt thì tiềm năng phục hồi rạn san hô
trong tương lai là rất lớn vì đây là giá thể quan trọng cho bào tử non của san hô bám vào.
So với kết quả khảo sát năm 2010, 2011 và các kết quả trước không có sự dao động lớn
về độ phủ san hô, cá rạn, động vật thân mềm cỡ lớn…
III. GIÁ TRỊ SINH HỌC VÀ GIÁ TRỊ KINH TÊ CỦA HỆ SINH THÁI
RẠN SAN HÔ CÙ LAO CHÀM
1. Giá trị sinh học
Các rạn san hô được coi là một trong những hệ sinh thái có năng suất cao nhất
trên thế giới. Rạn san hô thường gắn bó chặt chẽ với rừng ngập mặn, thảm cỏ biển nên
chúng tạo cho thủy vực năng suất cao. Sức sản xuất của rạn san hô cao là nhờ tính hiệu
quả của chu trình chuyển hóa vật chất. Trong đó tảo cộng sinh Zooxanthellea, tảo có khả
năng cố định đạm (Nitơ) và vi khuẩn sống trong trầm tích đóng vai trò quyết định. Nhóm
san hô tạo rạn, do có tảo cộng sinh nội bào nên có khả năng tự dưỡng. Trong điều kiện
chiếu sáng thích hợp, quá trình tự dưỡng đã cung cấp hơn 50% dòng năng lượng cho hệ

sinh thái. Sức sản xuất sơ cấp của rạn san hô thường cao hơn vùng ngoài rạn đến hàng
trăm lần.
Hệ sinh thái san hô là cơ sở dinh dưỡng hữu cơ, nguồn cung cấp thức ăn cho
những sinh vật sống trong rạn mà còn cho cả vùng biển chung quanh. Ở tại các vùng
nước nhiệt đới ít dinh dưỡng, các rạn san hô hỗ trợ một hệ thống đa dạng sinh học đặc
biệt. Quá trình luân chuyển dinh dưỡng giữa san hô, tảo đơn bào và các sinh vật khác
11
sống trong rạn giải thích tại sao các rạn san hô sinh sôi nảy nở tại những vùng nước này;
sự tái sử dụng làm giảm tổng lượng dinh dưỡng cần cho cả cộng đồng.
Vi khuẩn lam cung cấp các muối nitrat hòa tan cho rạn san hô bằng quá trình cố
định nitơ. San hô hút các chất dinh dưỡng trực tiếp từ nước, trong đó có nitơ và phốtpho
vô cơ, và ăn các sinh vật phù du theo nước trôi ngang qua các polip. Do đó, hiệu suất sơ
cấp của một rạn san hô là rất cao, dẫn đến giá trị cao nhất trên mỗi mét vuông ở mức 5-
10gCm-2/ngày. Các "nhà sản xuất" trong các cộng đồng rạn san hô gồm có tảo đơn bào
cộng sinh, tảo san hô, và nhiều loại rong biển, cùng một số tảo loại nhỏ.
Có hơn 4.000 loài cá sống tại các rạn san hô. Các rạn san hô là nơi trú ngụ của
nhiều loài cá nhiệt đới hoặc cá chuyên sống trong rạn san hô, chẳng hạn như các loài cá
bướm, cá thia, cá bướm đuôi gai, cá mó nhiều màu sắc. Ngoài ra còn có các nhóm cá
khác như cá mú, cá hồng và cá bàng chài. Các rạn san hô còn là nhà của nhiều loại sinh
vật khác, trong đó có bọt biển, một số loài thích ti (san hô và sứa), giun, một số loài giáp
xác (tôm, tôm rồng, và cua), động vật thân mềm, động vật chân đầu, động vật da gai (sao
biển, nhím biển và hải quỳ), động vật có bao, rùa biển và rắn biển. San hô, tảo còn là thức
ăn của một số động vật có vú như cá heo, các loài thuộc bộ Cá voi.
Nhiều loài động vật không xương sống trú ngụ tại nền đá san hô, khoét vào trong
bề mặt đá vôi, hoặc sống trong các hốc và khe có sẵn. Các động vật khoét đá gồm bọt
biển, động vật thân mềm 2 mảnh vỏ và các loài thuộc nhóm sá sùng (Sipuncula). Còn có
nhiều loại giáp xác và giun nhiều tơ (Polychaeta) khác sống trên rạn san hô
2. Giá trị kinh tế
2.1 Nhóm giá trị sử dụng trực tiếp
2.1.1 Giá trị thủy hải sản, thực phẩm, dược phẩm được khai thác trên san hô

Các rạn san hô được coi là kho dược liệu dưới đáy biển do có nhiều loài sinh vật
có hoạt tính sinh học và độc tố đặc biệt có giá trị dược liệu. Các loài san hô sừng, san hô
mềm cho nhiều hoạt chất có giá trị dược liệu quý. Các loài sinh vật như hải miên, cầu gai,
hải sâm, và nhiều loại rong biển có hoạt tính sinh học cao và có thể sử dụng làm dược
phẩm, thực phẩm chức năng (H.L, 2014).
Nhiều loài san hô là nguồn dược liệu mới, để chữa những bệnh lý cột sống như tái
tạo bảng sống, tạo hình thân sống hoặc đĩa đệm. Dùng trong các ca mút bỏ mắt, cụ thể là
12
bi san hô được ghép vào hốc mắt. Theo tính toán ban đầu, một đơn vị san hô ghép chưa
tính thuế sản xuất ở trong nước có giá thành từ 200.000 đồng - 300.000 đồng, trong khi
nếu nhập từ nước ngoài là 150 USD, chất lượng quốc tế với giá thành rẻ. Một viên bi mắt
bằng san hô Việt Nam có giá từ 100.000 đồng - 200.000 đồng, so với sản phẩm cùng loại
của Mỹ và Pháp là 5 triệu đồng. Bột san hô sản xuất tại Việt Nam giá 50.000 đồng/500
mg nhưng nếu nhập từ nước ngoài phải tốn 30 USD (Nhất Phương, 2003)
2.1.2 Giá trị du lịch
Cù Lao Chàm là một địa danh du lịch nổi tiếng tại khu vực miền Trung. Cù Lao
Chàm có khí hậu quanh năm mát mẻ, hệ động thực vật phong phú, đặc biệt là nguồn hải
sản và nguồn tài nguyên yến sào. Các rạn san hô ở khu vực biển cù lao Chàm cũng được
các nhà khoa học đánh giá cao và đưa vào danh sách bảo vệ. Hệ thống san hô ở đây cũng
là nguồn cảm hứng thu hút nhiều khách du lịch về đây với các tour lặng biển ngắm san
hô.
Tháng 10/2003, Khu bảo tồn thiên nhiên Cù Lao Chàm được thành lập để giữ gìn
sinh vật hoang dã trên đảo, là 1 trong 15 Khu bảo tồn biển của Việt Nam vào 2007. Ngày
29/05/2009, với hệ động thực vật phong phú và những di tích lịch sử hàng trăm năm
trước, Cù Lao Chàm được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển thế giới trong
phiên họp thứ 21 của Ủy ban Điều phối quốc tế chương trình con người và sinh quyển
diễn ra tại đảo Jeju (Hàn Quốc). Từ những vẻ đẹp vốn có cộng với sự công nhận của
chính quyền địa phương và UNESCO, Cù Lao Chàm đã trở thành một trong các điểm du
lịch nổi tiếng của Việt Nam (Du lịch Cù Lao Chàm, 2013).
Năm 2009, lượng khách đến Cù Lao Chàm mỗi năm chỉ khoảng vài nghìn lượt

người nhưng đến năm 2013 đã tăng lên khoảng 176 nghìn lượt khách. Trong 4 tháng đầu
năm 2014, Cù Lao Chàm đã đón hơn 40 nghìn lượt khách. Đặc biệt, trong những ngày
cao điểm, Cù Lao Chàm đón khoảng 2 - 3 nghìn lượt khách/ngày (Lê Anh Tuấn, 2014).
Số lượng du khách đến thăm Khu Bảo tồn biển Cù Lao Chàm đạt đến điểm cao
nhất trong 10 năm qua, từ năm 2003 đến năm 2013. Du lịch phát triển đã và đang tạo cơ
hội cho người dân cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống. Thu nhập và chất
lượng cuộc sống được cải thiện là động lực cho người dân tham gia bảo vệ môi trường và
tài nguyên vùng (Chu Mạnh Trinh, 2014). Năm 2012 có khoảng 105.000 lượt khách đến
13
Cù Lao Chàm, tăng mạnh so với năm 2008. Dự đoán đến giai đoạn 2014 – 2015, lượng
khách du lịch đến Cù Lao Chàm là 150 - 200 nghìn lượt (Vĩnh Lộc, 2013).
2.2 Giá trị sử dụng gián tiếp
Giá trị sử dụng gián tiếp gồm giá trị đa dạng sinh học của hệ sinh thái rạn san hô.
Hệ sinh thái rạn san hô bao gồm nhiều loài sinh vật mang tính đa dạng và vô cùng phong
phú. Đây là nguồn cung cấp gen cho nghiên cứu và phát triển giống loài, bảo tồn các sinh
vật quý hiếm. Trong khi nhận thức của người dân còn chưa được nâng cao, thì cơ quan
nhà nước và các bên liên quan cần quản lý chặt chẽ để bảo vệ môi trường biển, các rạn
san hô và sinh vật sinh sống trong hệ sinh thái này. Nếu bảo vệ tốt nguồn cung cấp gen
này của hệ sinh thái rạn san hô Cù Lao Chàm thì nguồn lợi thủy sản sẽ sinh sôi và mang
lại giá trị vô cùng to lớn (Nguyễn Thị Minh Huyền và cộng sự, 2008).
Ngoài ra, bảo vệ sự tồn tại của san hô còn góp phần chống xói mòn đáy biển,
tránh sạc lở vùng đáy biển gần bờ Cù Lao Chàm. Mang giá trị phòng hộ, bảo vệ đường
bờ, … tạo nguồn thức ăn cho sinh vật biển, tăng sản lượng khai thác một cách tự nhiên,
từ đó góp phần phát triển kinh tế vùng biển.
2.3 Nhóm giá trị chưa sử dụng
Giá trị chưa sử dụng nói lên sự sẵn lòng chi trả của người dân Cù Lao Chàm trong
việc sẵn lòng chi trả cho việc bảo tồn hệ sinh thái rạn san hô Cù Lao Chàm. Để tính toán
cho giá trị này, cần thực hiện phương pháp phân phối ngẫu nhiên (Contingent Valuation
Method). Đây là phương pháp được sử dụng để đánh giá hàng hóa chất lượng môi trường
không dựa trên giá thị trường, đặc thù cho nhóm giá trị chưa sử dụng (Nguyễn Thị Minh

Huyền và cộng sự, 2008).
IV. TÀM QUAN TRỌNG CỦA HỆ SINH THÁI RẠN SAN HÔ CÙ LÀO
CHÀM
Sự cố tràn dầu năm 2007 gây tổn thương mạnh mẽ đến hệ sinh thái rạn san hô ở
Cù lao Chàm. Nồng độ dầu trong nước biển tăng, tác động nghiêm trọng đến số lượng
loài, cấu trúc và độ phủ của rạn.
14
Khi chưa có sự cố tràn dầu, hệ số ô nhiễm dầu một số khu vực ở Cù lao Chàm thấp, ổn
định và luôn duy trì ở mức nhỏ hơn 1.8. Nhưng từ năm 2008, hệ số này đã tăng vọt từ 1.2
– 19.0 ở mặt cắt III và từ 0.7 – 5.4 ở mặt cắt II, chứng tỏ vùng biển ở Cù lao Chàm bị ô
nhiễm nặng. Khảo sát được thực hiện tại Bãi Bắc và Bãi Hương, kết quả cho thấy sự thay
đổi lớn trong số lượng và thành phần các loài trong rạn san hô.
Tại Bãi Hương, nhìn chung không có thay đổi nhiều về cấu trúc và thành phần
loài. San hô mềm còn 20.6% và hầu như không có san hô cứng (0.6%). Tuy nhiên lượng
đá san hô, đá, cát và bùn vẫn chiếm tỉ lệ rất cao). Tại Bãi Bắc, thành phần loài bị biến đổi
nghiêm trọng. Độ phủ của san hô cứng và san hô mềm ở khu vực này chỉ còn 10% và
7.5%, thay vào đó là tỉ lệ đá san hô tăng đến 20%
15
Theo Nguyễn Đăng Ngải (2011), từ những năm 1994, 2005 và 2008, tại 2 khu
vực Bãi Bắc và Bãi Hương đã có sự thay đổi về độ phủ rạn san hô. Tỉ lệ san hô cứng ít đi,
trong khi san hô chết, bùn, cát lại tăng lên, chỉ có san hô mềm là ổn định. Tình hình suy
giảm san hô ở Cù lao Chàm đã lên mức đáng báo động (giảm khoàng 60 – 80%). Nguyên
nhân chính trong khoảng thời gian này là do dầu loang trong nước biển, tấp vào bờ vón
thành cục. Nồng độ dầu trong nước biển sau đó một năm vẫn còn cao hơn so với tiêu
chuẩn hàng chục lần. Do đó, dễ thấy ảnh hưởng của tràn dầu còn nghiêm trọng và cần
thời gian lâu dài mới có thể phục hồi hệ sinh thái rạn san hô lại như tình trạng ban đầu.
Người dân Cù Lao Chàm chủ yếu sống bằng nghề biển, khai thác yến sào và nghề
rừng Tuy nhiên, khi lượng khách du lịch đến đây tăng đột biến thì nhiều người vì lợi
nhuận mà “tiếp tay” cho du khách hủy hoại môi trường. Họ đã bắt và bán cua đá - một
loại động vật quý hiếm, hoặc khai thác san hô làm kỷ niệm, thậm chí một số người dân

còn liều lĩnh dẫn đường cho du khách đi săn.
16
Hình 7. Lượng khách đến Cù Lao Chàm
Việc đạt được danh hiệu Khu sinh quyển thế giới đã mở ra cơ hội lớn để phát
triển toàn diện kinh tế xã hội của xã đảo Tân Hiệp và thành phố Hội An. Lượng khách gia
tăng đột biến, kéo theo nhu cầu sử dụng tài nguyên, dịch vụ rất lớn. Tính trong năm 2013,
mỗi người dân Cù Lao Chàm đón tiếp đến 60 du khách gây tác động mạnh mẽ đến môi
trường, tài nguyên và công tác bảo tồn các giá trị của khu sinh quyển.
V. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
Nguồn lợi tài nguyên biển bị khai thác quá mức có thể phá vỡ cân bằng sinh thái
trong tương lai gần. Việc xây dựng Cù Lao Chàm thành một khu bảo tồn biển quan trọng
trong hệ thống 16 khu bảo tồn biển Việt Nam càng quan trọng và cấp thiết. Mục đích là
bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và sử dụng bền vững tài nguyên để phát
triển kinh tế - xã hội, ổn định thu nhập, cải thiện đời sống cho cộng đồng. Hơn nữa nhằm
cải thiện quản lý nghề cá, bảo vệ phục hồi hệ sinh thái, bảo tồn phát triển đa dạng sinh
học và nguồn lợi biển để khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên.
1. Quản lý dựa vào hệ sinh thái
Quản lý dựa vào hệ sinh thái là một cách quản lý tiếp cận tổng hợp. Bản chất của
phương pháp quản lý này là xem xét các mối liên hệ xuyên suốt trong toàn hệ thống sinh
thái, thông qua các tác động và ảnh hưởng tích tụ từ những hoạt động do con người tạo
ra. Trước nhu cầu quản lý, phát triển bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển,
quản lý dựa vào hệ sinh thái được xem là nguyên tắc cơ bản trong chính sách biển của
nhiều quốc gia biển như Úc, Mỹ, Canada…, đặc biệt là đã áp dụng thực tiễn thành công
17
tại Khu bảo tồn biển Great Barrier Reef Marine Park của Úc và vùng biển Bering của Mỹ
(Chu Mạnh Trinh và Hứa Chiến Thắng, 2012).
2. Phát triển sinh kế hải sản khô Cù lao Chàm
Sinh kế về sản xuất, kinh doanh mặt hàng hải sản khô Cù Lao Chàm là một trong
những hoạt động thay thế nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương đã được
khởi động từ tháng 8/2006, bằng một lớp đào tạo kỹ thuật một tháng, cho 22 chị em phụ

nữ đại diện cho 22 hộ gia đình trong cộng đồng Cù Lao Chàm. Trong thời gian qua, kế từ
ngày được đào tạo, các hộ gia đình này đã thực thi nghề nghiệp của mình tại địa phương
và đã có nhiều kết quả đáng kể, góp phần tạo nên sự phong phú các mặt hàng truyền
thống, đậm đà hương vị biển đảo Cù Lao Chàm, giới thiệu đến khách tham quan du lịch.
(Chu Mạnh Trinh và Hứa Chiến Thắng, 2012).
3. Đồng quản lý bảo tồn biển ở Cù Lao Chàm
Cộng đồng cùng chia sẻ trách nhiệm và lợi ích trong việc quản lý, khai thác hợp
lý, bền vững nguồn lợi thủy sản và các giá trị của khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù lao
Chàm. Việc áp dụng mô hình đồng quản lý không chỉ nhằm từng bước khắc phục những
hạn chế từ mô hình quản lý hiện tại, mà còn đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của
cộng đồng ngư dân trong việc hướng đến quyền làm chủ và trách nhiệm đối với tài
nguyên, nguồn lợi hải sản của chính họ. Khi tham gia mô hình đồng quản lý, cộng đồng
địa phương sẽ cùng với các cơ quan hữu quan thảo luận việc lập kế hoạch phân vùng bảo
vệ hệ sinh thái, đa dạng sinh học. Việc áp dụng mô hình này nhằm vận động cộng đồng
cùng chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm quản lý tài nguyên, môi trường ở Cù Lao Chàm
dưới hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm, cùng hưởng lợi là một giải pháp bảo vệ
và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên biển đảo cần được nhân rộng.
4. Truyền thông nâng cao nhận thức.
Đây là nhóm giải pháp quan trọng và là nền tảng để cộng đồng và toàn xã hội hiểu
được bản chất, các giá trị và lợi ích của danh hiệu khu sinh quyển, từ đó cùng nhau bảo
vệ và phát huy những giá trị do khu sinh quyển mang lại.
5. Nghiên cứu khoa học và ứng dụng.
Đây là nhóm giải pháp xây dựng nền tảng, cơ sở khoa học và dữ liệu phục vụ cho
công tác quản lý và thực thi các nhóm giải pháp khác. Ngoài việc nghiên cứu, chia sẻ
18
thông tin, kinh nghiệm cho khu sinh quyển, lực lượng nghiên cứu sẽ giúp truyền thông,
quảng bá cho khu sinh quyển bằng các công trình nghiên cứu, các bài viết, tin tức….
6. Phát triển du lịch sinh thái gắn với cộng đồng.
Các khu sinh quyển chắc chắn sẽ là những điểm thu hút khách du lịch đến để trải
nghiệm những giá trị đặc trưng của khu sinh quyển mà các giá trị này phải gắn liền với

đời sống cồng đồng địa phương. Do vậy, cần có chiến lược huấn luyện cộng đồng để họ
đủ năng lực, kinh nghiệm và các điều kiện khác để có thể làm chủ được các dịch vụ, các
sản phẩm du lịch sinh thái cộng đồng trong khu sinh quyển.
7. Phát triển các lĩnh vực chuyên môn về bảo tồn và sinh quyển.
Mỗi khu sinh quyển đều có những giá trị nổi trội đặc trưng và để bảo tồn và phát
huy những giá trị này. Hoạt động chuyên môn có thể được thực hiện bởi các cơ quan
quản lý nhà nước với sự hợp tác với các đối tác trong và ngoài khu sinh quyển đồng thời
sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Trong tương lai, cần nghiên cứu đề xuất
đưa một số bộ môn liên quan đến công tác bảo tồn và phát triển khu sinh quyển vào giáo
dục để nâng cao nền tảng tri thưc địa phương.
8. Phát triển nguồn nhân lực và phối hợp đào tạo.
Bên cạnh nguồn nhân lực từ các bên liên quan tham gia với hình thức kiêm
nhiệm, khu sinh quyển cũng sẽ có chiến lược đào tạo, phát triển nguồn nhân lực kể cả
năng lực của cộng đồng để đảm nhận được nhiệm vụ phát triển của khu sinh quyển trong
tương lai. Việc đào tạo này có thể lồng ghép trong các chương trình hành động và sự hợp
tác với các trung tâm đào tạo trong nước và quốc tế.
19

×