Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tóm tắt luận án: Tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.63 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sự phân hoá theo lãnh thổ về tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội là một tất yếu
khách quan. Tổ chức lãnh thổ (TCLT) là một trong những biểu hiện gắn kết các
hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho việc khai thác các tiềm năng và lợi thế ngày
càng tốt hơn, góp phần đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế của địa phương. Đồng
thời tạo nên mối liên kết giữa các khu vực hành chính, tự nhiên khác nhau trong
cùng một địa phương cũng như giữa các địa phương với nhau. Trong thời gian qua,
mỗi địa phương ở các vùng, miền khác nhau của nước ta, việc phát triển các hình
thức tổ chức lãnh thổ kinh tế (TCLTKT) hết sức đa dạng.
Tỉnh Bình Định nằm trong vùng kinh tế Duyên hải Nam Trung Bộ và thuộc
địa bàn kinh tế trọng điểm (KTTĐ) miền Trung. Việc nghiên cứu về TCLTKT tỉnh
Bình Định sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc sắp xếp, bố trí các hoạt động kinh tế
dựa trên cơ sở sử dụng có hiệu quả nhất sự phân bố khác nhau theo lãnh thổ các
điều kiện tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội ở địa phương. Đồng thời, thấy được mối
liên hệ mật thiết của các hình thức TCLTKT đảm bảo cho việc khai thác lãnh thổ
ngày càng bền vững; sớm đưa Bình Định trở thành một trong những cực kinh tế
phát triển mạnh trong khu vực miền Trung và Tây Nguyên theo Nghị quyết mà
Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII đề ra.
Từ những lí do trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Tổ chức lãnh thổ kinh
tế tỉnh Bình Định” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu
Vận dụng và làm sáng tỏ cơ sở lí luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ kinh tế
để phân tích, đánh giá về thực trạng TCLTKT tỉnh Bình Định. Từ đó, đề xuất các giải
pháp về TCLTKT tỉnh Bình Định trong tương lai.
2.2 Nhiệm vụ
- Tổng quan có chọn lọc những vấn đề lí luận và thực tiễn cơ bản về
TCLTKT, từ đó vận dụng vào việc nghiên cứu TCLTKT trên địa bàn một địa
phương cụ thể ở nước ta.
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn của các nhân tố ảnh hưởng đến


TCLTKT của tỉnh Bình Định và thực trạng phát triển kinh tế tỉnh Bình Định.
- Phân tích thực trạng TCLT theo ngành kinh tế và theo không gian ở tỉnh
Bình Định.
- Xác định cơ sở và định hướng TCLTKT tỉnh Bình Định đến năm 2015,
tầm nhìn đến năm 2020 và dề xuất các giải pháp TCLTKT tỉnh Bình Định có
hiệu quả và bền vững.
3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1. Nội dung: Tập trung phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến TCLTKT
tỉnh Bình Định. Đồng thời, vận dụng các lí thuyết TCLTKT nhằm bước đầu phát
hiện một số hình thức TCLTKT tỉnh Bình Định theo ngành và theo không gian.
1
- TCLT theo ngành kinh tế: TCLTNN: trang trại, vùng chuyên canh (lúa,
mía, mì, dừa và thủy sản); TCLTCN: điểm công nghiệp, khu công nghiệp, cụm
công nghiệp, trung tâm công nghiệp; TCLTDL: điểm du lịch, khu du lịch, trung
tâm du lịch.
- TCLTKT theo không gian: đô thị, KKT Nhơn Hội, HLKT quốc lộ 19 và
tiểu vùng kinh tế.
3.2. Lãnh thổ: Nghiên cứu toàn bộ phạm vi lãnh thổ tỉnh Bình Định, lấy ranh giới
cấp huyện để phân tích một số hình thức có ý nghĩa quan trọng đối với TCLTKT
tỉnh Bình Định và đặt lãnh thổ nghiên cứu trong mối quan hệ với vùng kinh tế
trọng điểm miền Trung.
3.3. Thời gian: Luận án sử dụng nguồn số liệu giai đoạn 2000 - 2008 và tầm nhìn
đến năm 2020.
4. Lịch sử nghiên cứu
Luận án tiến hành tổng quan các nghiên cứu về TCLTKT trên thế giới và ở
Việt Nam, từ đó vận dụng các lí thuyết phát triển không gian vào việc phân tích
TCLTKT cấp tỉnh - tỉnh Bình Định.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu: bao gồm quan điểm hệ thống và lãnh thổ, quan
điểm tổng hợp, quan điểm phát triển bền vững và quan điểm lịch sử, viễn cảnh

5.2. Phương pháp nghiên cứu: bao gồm phương pháp thu thập nguồn tài liệu, số
liệu, phương pháp xử lí nguồn tài liệu kết hợp phân tích và đánh giá tổng hợp,
phương pháp bản đồ và sử dụng hệ thông tin Địa lí (GIS) và phương pháp khảo
sát, điều tra thực địa, thực tế kết hợp phương pháp chuyên gia.
6. Đóng góp mới của luận án
- Đúc kết và làm sáng tỏ thêm lí luận và thực tiễn về TCLTKT trong điều kiện
cụ thể của Việt Nam và để vận dụng vào việc nghiên cứu TCLTKT cho cấp tỉnh.
- Đánh giá được thế mạnh và hạn chế của các điều kiện tự nhiên, KT -XH
cho việc TCLTKT tỉnh Bình Định và thực trạng phát triển kinh tế tỉnh Bình Định.
- Phân tích thực trạng TCLTKT tỉnh Bình Định theo ngành và theo không
gian, làm rõ những mặt được và chưa được, làm căn cứ cho việc TCLTKT có hiệu
quả hơn.
- Đề xuất những định hướng chủ yếu đối với TCLTKT tỉnh Bình Định và
các nhóm giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện TCLTKT theo hướng bền vững.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, các bản
đồ, biểu đồ, bảng biểu, tranh ảnh minh hoạ, phần nội dung của luận án được
trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về TCLTKT.
Chương 2: Thực trạng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định.
Chương 3: Định hướng và giải pháp về TCLTKT tỉnh Bình Định đến năm 2015
và tầm nhìn đến năm 2020.
2
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ
1.1. Cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ, tổ chức lãnh thổ kinh tế
1.1.1. Khái niệm về tổ chức lãnh thổ
“Tổ chức lãnh thổ, về đại thể là sự kiến thiết lãnh thổ. Trong một lãnh thổ
có rất nhiều thành phần (bộ phận) về tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội Vấn đề
chính là ở chỗ phải tổ chức như thế nào để đạt được mục tiêu phát triển KT-XH.

Trên cơ sở đó, tổ chức lãnh thổ được hiểu là sự sắp xếp các thành phần (đã,
đang hoặc dự kiến sẽ có) trong mối liên hệ đa ngành, đa lãnh thổ ở một vùng
nhằm sử dụng hợp lí các nguồn lực để đạt hiệu quả cao nhất về các mặt kinh tế,
xã hội, môi trường và phát triển bền vững” [42, tr.188].
Các nhà khoa học thuộc Liên Xô cũ trước đây, người ta đã sử dụng khái
niệm phân bố lực lượng sản xuất [66]. Về bản chất, khái niệm đó gần giống với
khái niệm tổ chức không gian kinh tế của các nước phương Tây. Họ coi TCLT
là sự sắp xếp, bố trí (phân bố) và phối hợp các đối tượng có mối liên hệ qua lại
giữa các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên và hệ thống dân cư nhằm sử dụng
một cách hợp lý các tiềm năng tự nhiên, cơ sở vật chất kĩ thuật của lãnh thổ để
đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, môi trường và nâng cao mức sống dân cư
của lãnh thổ đó.
Các nhà khoa học của các quốc gia phát triển ở phương Tây theo hướng
kinh tế thị trường lại sử dụng phổ biến thuật ngữ “tổ chức không gian”. Họ cho
rằng: tổ chức không gian ra đời từ cuối thế kỷ XIX và đã trở thành một khoa
học kinh tế lãnh thổ. Tổ chức không gian được xem như là lựa chọn nghệ thuật
sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả (Jean Pean Paul De
Gaudemar.1992) [66].
Ở góc độ Địa lý học, TCLT được xem như là một hành động có chủ ý
hướng tới sự công bằng về mặt không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các
cực và các không gian ảnh hưởng, nhằm giải quyết ổn định công ăn việc làm, cân
đối giữa quần cư nông thôn và quần cư thành thị, bảo vệ môi trường sống [68].
Như vậy, TCLT là tổ chức các hoạt động kinh tế, xã hội và cả môi trường trên
bề mặt lãnh thổ một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học và mang lại hiệu quả cao.
1.1.2. Khái niệm, bản chất của tổ chức lãnh thổ kinh tế
1.1.2.1. Khái niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế
"Tổ chức lãnh thổ kinh tế là sự "sắp xếp" và " phối hợp" các đối tượng
trong mối liên hệ đa ngành và đa lãnh thổ trong một vùng cụ thể, nhằm sử dụng
một cách hợp lý các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lý kinh tế - chính trị
và cơ sở vật chất kỹ thuật đã và sẽ được tạo dựng, để đem lại hiệu quả kinh tế -

xã hội cao và nâng cao mức sống dân cư, đảm bảo sự phát triển bền vững của
một lãnh thổ" [66, tr.366].
Như vậy, TCLTKT là việc tổ chức các hoạt động kinh tế một cách có căn
cứ khoa học. Nó bao gồm TCLT các ngành kinh tế, dựa trên cơ sở đó là điều
kiện hình thành các hình thức TCLT nông nghiệp, TCLT công nghiệp và TCLT
3
dịch vụ. TCLTKT theo không gian dựa trên cơ sở đó là điều kiện hình thành
các khu vực đăc biệt (vùng KTTĐ, HLKT, KKT, đô thị ).
1.1.2.2. Bản chất của tổ chức lãnh thổ kinh tế
Bản chất của TCLTKT là tìm ra phương án hợp lí nhất về kiến thiết lãnh
thổ làm sao cho trong quá trình phát triển của các ngành, lĩnh vực theo cùng
hướng và liên hệ mật thiết với nhau tạo ra tính nhất quán cần thiết nhằm đạt
được hiệu quả KT - XH cao, có được sự phát triển bền vững cho lãnh thổ và
cho cả hệ thống lớn hơn.
1.1.3. Đối tượng của tổ chức lãnh thổ kinh tế
Lãnh thổ với tư cách là đối tượng của TCLTKT. Nó có ranh giới xác định.
Ranh giới đó có thể có ý nghĩa pháp lý và cũng có thể chỉ có ý nghĩa ước lệ. Lãnh
thổ [68] - một vùng hữu hạn về phạm vi, ở đó có các yếu tố tự nhiên, nơi sinh sống
của một cộng đồng dân cư và có những hành vi tác động vào tự nhiên, trực tiếp
hoạt động kinh tế, xã hội theo đường lối, chủ trương phát triển KT - XH của đất
nước và tất cả các đối tượng đó có liên hệ mật thiết với hệ thống lãnh thổ khác.
1.1.4. Các nguyên tắc tổ chức lãnh thổ kinh tế
Tổ chức lãnh thổ kinh tế cần đảm bảo 4 nguyên tắc [68]:
- Phải thoả mãn yêu cầu về khả năng tài nguyên và nhu cầu thị trường, đảm
bảo lợi ích của cộng đồng và đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao.
- Hài hoà, tương tác, hỗ trợ cùng phát triển đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã
hội cho tổng thể.
- Phải kiến thiết cho được những khu nhân (những trung tâm đô thị, thành
phố, khu vực ngoại vi) để tạo nền văn minh ở trình độ cao hơn trong TCLTKT.
- Phải phù hợp với trình độ nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ.

Nó được xem như là sự kế thừa thành tựu của nhân loại để hướng tới hiện đại.
1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ kinh tế
1.1.6.1. Nhóm các nhân tố bên trong
Nhóm các nhân tố này bao gồm toàn bộ các nhân tố tự nhiên, KT - XH có
bên trong phạm vi lãnh thổ. Đây là các nhân tố có ảnh hưởng lớn đến TCLTKT.
Bởi vì, sự phát triển kinh tế trên một không gian, đòi hỏi phải có mối quan hệ
chặt chẽ giữa sản xuất và điều kiện sản xuất. Những yếu tố trên đây được coi
như “đầu vào” hình thành TCLTKT. Bao gồm: vị trí địa lý, các điều kiện tự
nhiên và TNTN, các điều kiện kinh tế - xã hội.
1.1.6.2. Nhóm các nhân tố bên ngoài
Đây là nhóm các nhân tố tác động mạnh đến TCLTKT trong cơ chế kinh
tế thị trường. Quan trọng nhất và có tác động mạnh nhất phải kể đến: thị trường
và các mối liên hệ kinh tế liên vùng, nguồn đầu tư từ bên ngoài, tác động của
các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực và quốc tế cũng có những
ảnh hưởng đến TCLTKT.
1.1.7. Một số hình thức cơ bản của tổ chức lãnh thổ kinh tế
1.1.7.1. Một số hình thức TCLT các ngành kinh tế
4
i) Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp: bao gồm các hình thức: hộ gia đình, trang trại,
hợp tác xã nông nghiệp, vùng chuyên môn hoá nông, lâm, ngư nghiệp và vùng
nông nghiệp.
ii) Tổ chức lãnh thổ công nghiệp: bao gồm các hình thức: điểm công nghiệp,
KCN, CCN, trung tâm công nghiệp và vùng công nghiệp.
iii) Tổ chức lãnh thổ dịch vụ: dịch vụ là một lĩnh vực kinh tế rất đa dạng, bao
gồm các ngành: giao thông vận vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, tài chính,
ngân hàng, du lịch…Trong nội dung của luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu về TCLTDL. TCLTDL có các hình thức chủ yếu: điểm du lịch, khu du lịch,
trung tâm du lịch và vùng du lịch.
1.1.7.2. Một số hình thức TCLTKT theo không gian
i) Vùng kinh tế

Vùng kinh tế được xem như là một thực thể khách quan, sự tồn tại của nó
là do yêu cầu phát triển KT - XH của mỗi quốc gia quyết định. Nó được đặc
trưng bởi các điều kiện tự nhiên, kinh tế và chuyên môn hoá sản xuất trên cơ sở
phân công lao động địa lí cũng như bởi các mối liên hệ kinh tế nội vùng ổn định.
Vùng kinh tế còn là một khâu cơ bản trong việc TCLT nền sản xuất xã hội, là đối
tượng chủ yếu của chính sách vùng và kế hoạch hoá lãnh thổ ” [37, tr.9].
ii) Các khu vực (lãnh thổ) đặc biệt
- Vùng kinh tế trọng điểm [37] là vùng hội tụ đầy đủ nhất các điều kiện
phát triển và đóng vai trò quyết định đối với nền kinh tế cả nước. Vùng KTTĐ
là đối tượng trọng điểm về đầu tư nhằm tạo ra ‘‘cú hích’’cho toàn bộ nền kinh
tế đất nước ” [37, tr.21].
- Hành lang kinh tế [66] hình thành dựa trên một tuyến trục giao thông
huyết mạch với sự tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ dọc hai bên tuyến
trục đó. Do có sự phát triển tập trung các cơ sở kinh tế, lợi dụng triệt để để vận
chuyển thuận lợi nên các hoạt động kinh tế thường đem lại hiệu quả cao hơn.
Đây là hình thức TCLTKT có triển vọng và chỉ mang tính ước lệ.
- Khu kinh tế [7], [66] là một địa bàn lãnh thổ, được vận hành theo khung
khổ pháp lý riêng (thường là theo thông lệ quốc tế), chính quyền sở tại được phân
cấp nhiều quyền hạn hơn và trên đó được áp dụng những cơ chế, chính sách đặc
biệt thông thoáng hơn so với những khu vực khác của quốc gia, tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào đầu tư phát triển sản xuất -
kinh doanh - dịch vụ, khuyến khích xuất khẩu để tạo động lực mới cho nền kinh
tế.
- Đô thị [15], [42]: với vai trò là những hạt nhân tạo vùng, các đô thị liên
kết với nhau trong một không gian nhất định làm cho không gian đô thị trở
thành những lãnh thổ có kinh tế đô thị phát triển mang ý nghĩa to lớn.
1.2. Cơ sở thực tiễn về tổ chức lãnh thổ kinh tế
1.2.1. Khái quát về tổ chức lãnh thổ kinh tế ở Việt Nam
1.2.1.1. Vùng kinh tế
5

“Ở nước ta, vùng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhưng không
phải là bất biến. Nó có thể thay đổi, phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển
KT - XH ở từng giai đoạn nhất định của đất nước” [44, tr.3]. Hệ thống 6 vùng
kinh tế vẫn được sử dụng để xây dựng phương án phát triển và tổ chức KT -
XH của đất nước theo lãnh thổ từ năm 2004 đến nay.
1.2.1.2. Vùng kinh tế trọng điểm
Từ nhận thức về tầm quan trọng kết hợp với việc tìm hiểu những kinh
nghiệm thành công và thất bại về phát triển có trọng điểm của một số quốc gia
và vùng lãnh thổ, từ những năm 90, Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu và xây
dựng các vùng KTTĐ. Việc hình thành các vùng KTTĐ ở nước ta có ý nghĩa
rất quan trọng. Hiện nay, nước ta có 4 vùng KTTĐ.
1.2.1.3. Hành lang kinh tế
Trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới theo xu hướng toàn cầu hóa,
việc hình thành và phát triển các HLKT được xem như là một bộ phận cấu
thành trong chiến lược kinh tế đối ngoại của đất nước. Đồng thời, tăng cường
mối quan hệ giao lưu phát triển KT - XH và cải thiện đời sống dân cư của các
lãnh thổ dọc theo các hành lang. Từ việc nhận thức được ý nghĩa và tầm quan
trọng như vậy, trong thời gian gần đây nước ta đã hình thành một số HLKT
quan trọng trong nước và có sự liên kết, hợp tác với một số nước láng giềng.
1.2.1.4. Khu kinh tế
Ở Việt Nam loại hình KKT mới ra đời trong thời gian gần đây, có thể tập
hợp lại thành hai nhóm chính. Một là các khu kinh tế mang một chức năng
riêng biệt; Hai là các khu kinh tế mang chức năng tổng hợp, bao gồm: KKT ven
biển, KKT cửa khẩu, KKT quốc phòng.
1.2.1.5. Đô thị
Gần đây ở Việt Nam, đô thị đã được phát triển cả về số lượng, chất lượng
và phân bố tương đối rộng khắp trên phạm vi cả nước. Nhiều đô thị đã và đang
chuyển dần từ chức năng hành chính thuần tuý sang cả chức năng kinh tế, tuỳ
theo các cấp độ khác nhau mà đảm nhận các chức năng trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hoá

1.2.1.6 Trang trại
Ở Việt Nam, trang trại mới phát triển từ đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, song
đã tạo ra những biến chuyển mới trong nông nghiệp, nông thôn, tạo điều kiện để
nông nghiệp nước ta chuyển nhanh sang sản xuất hàng hoá. Hiện nay, kinh tế
trang trại đã phát triển mạnh ở hầu khắp các địa phương trong cả nước, hình
thành mô hình sản xuất mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta.
1.2.1.7. Khu công nghiệp
Ở nước ta, KCN được hình thành vào đầu thập niên 90 của thế kỉ XX.
KCN đã và đang được hình thành có tác động tích cực đến sự phát triển ngành
công nghiệp nói riêng và của các vùng kinh tế nói chung. Các KCN phân bố
không đồng đều theo lãnh thổ, tập trung nhất là ở Đông Nam Bộ.
1.2.1.8. Khu du lịch
6
Ngày nay, khu du lịch đang được các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương quan tâm phát triển, tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Thông
thường, các khu du lịch có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có diện tích cần thiết để
xây dựng các công trình, cơ sở dịch vụ, có kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ
thuật đồng bộ và có khả năng thu hút lượng khách du lịch đông đảo.
1.2.2. Khái quát về tổ chức lãnh thổ kinh tế vùng kinh tế Duyên hải Nam
Trung Bộ
Vùng kinh tế Duyên hải Nam Trung Bộ có địa bàn phân bố kéo dài từ Đà
Nẵng đến Bình Thuận. Các hình thức TCLTKT nổi bật ở vùng này, đó là: vùng
KTTĐ miền Trung, HLKT quốc lộ 19, KKT, đô thị, trang trại, KCN và khu du lịch.
1.2.2.1. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
Vùng KTTĐ này có những đặc điểm nổi bật, đó là: nằm ở vào trung độ
của đất nước, là một trong ba đầu mối giao thông quốc tế quan trọng nhất cả
nước. Có nguồn tài nguyên tương đối đa dạng, phong phú, có nhiều tiềm năng
nổi trội về đất, biển, rừng, khoáng sản, đặc biệt là tất cả các tỉnh, thành đều giáp
biển cho phép phát triển kinh tế biển tổng hợp. Trong vùng đã hình thành một
dải các đô thị ven biển phân bố đều trên lãnh thổ. Hệ thống đô thị cùng với các

KKT, khu du lịch - đó là những hạt nhân tạo vùng, có tác động lớn đến sự phát
triển KT - XH của vùng trong tương lai.
1.2.2.2. Hành lang kinh tế quốc lộ 19
Đây là HLKT Đông - Tây quan trọng gắn kết giữa Tây Nguyên và phần
lãnh thổ phía Nam của vùng KTTĐ miền Trung - là một trọng điểm đầu tư [1].
HLKT quốc lộ 19 còn là một trong các hành lang có vai trò quan trọng trong liên
kết thúc đẩy phát triển vùng biên giới ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia và
thực hiện chiến lược phát triển liên vùng trong Tiểu khu vực sông Mekong.
1.2.2.3. Khu kinh tế
Vùng kinh tế Duyên hải Nam Trung Bộ có nhiều KKT đã được hình
thành và đang đi vào hoạt động (xem bảng 1 phụ lục 2). Cùng với việc hình
thành KKT Chu Lai, KKT Dung Quất, KKT Nhơn Hội, KKT Nam Phú Yên,
KKT Vân Phong cũng đã được hình thành, đặc biệt KKT Dung Quất.
1.2.2.4. Đô thị
Hệ thống đô thị của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ được hình thành và
gắn liền với quá trình khai thác và phát triển KT - XH vùng, tạo thành một
không gian tuyến - điểm từ Bắc xuống Nam dọc theo đường bờ biển, theo quốc
lộ 1A và theo các lưu vực sông. Do đặc thù về hình dạng lãnh thổ kéo dài và
tương đối hẹp ngang, do đó chuỗi đô thị thuộc vùng này thường xuất hiện thành
dãi dọc ven biển và gắn liền với hệ thống cảng biển.
1.2.2.5 Trang trại
Khác với các vùng kinh tế có trang trại phát triển nổi bật ở nước ta, vùng
Duyên hải Nam Trung Bộ có một số đặc điểm liên quan với sự hình thành và
phát triển KTTT: đây là vùng “đất chật, người đông”, khả năng mở rộng diện
tích rất hạn chế trong khi áp lực về việc làm cho người dân luôn tăng cao; vẫn
7
còn tồn tại tính cộng đồng làng xã rất cao của nông thôn Việt Nam. Việc phát
triển KTTT nên đi theo trình tự từ đơn giản đến hiện đại, lấy việc phát triển
kinh tế hộ làm tiền đề để hình thành KTTT, tránh sử dụng các công cụ kích
thích kinh tế trực tiếp để tạo ra một hệ thống các trang trại phong trào, không có

tính ổn định và bền vững [72].
1.2.2.6. Khu công nghiệp
Cùng với xu thế phát triển chung của cả nước, các KCN ở vùng này cũng
đã được hình thành dựa vào điều kiện thuận lợi về vị trí, địa hình, địa chất, khả
năng cấp điện, nước, giao thông, nguồn lao động…Các KCN chủ yếu phân bố
dọc theo dải ven biển, dọc theo quốc lộ, gắn với cảng biển. Đây là điều kiện
thuận lợi cho việc thu hút đầu tư phát triển công nghiệp và hệ thống đô thị trong
tương lai.
1.2.2.7. Khu du lịch
Du lịch được xem như là ngành kinh tế mũi nhọn của vùng Duyên hải
Nam Trung Bộ, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển du lịch của cả
nước. Đáng chú ý nhất là các khu du lịch biển tổng hợp và khu du lịch chuyên
đề. Một số địa phương cho phép khách du lịch Caravan (khách du lịch đi bằng ô
tô) và bằng đường biển qua các cảng Đà Nẵng, Nha Trang và Quy Nhơn.
1.3. Hướng tiếp cận trong nghiên cứu các hình thức tổ chức lãnh thổ kinh
tế cấp tỉnh - tỉnh Bình Định
Dựa trên cơ sở nghiên cứu có chọn lọc những vấn đề lí luận và thực tiễn
cơ bản về TCLTKT, trong quá trình thực hiện việc nghiên cứu các hình thức tổ
chức lãnh thổ kinh tế cấp tỉnh - tỉnh Bình Định, bước đầu tác giả đã tập trung
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến TCLTKT của tỉnh. Sự phân hoá lãnh thổ
Bình Định được biểu hiện một cách khá rõ nét theo 2 bộ phận chính, đó là bộ
phận phía Đông và bộ phận phía Tây với những lợi thế nổi bật có ý nghĩa đối
với việc hình thành và phát triển các hình thức TCLTKT.
- Bộ phận Đồng bằng, ven biển phía Đông (huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù
Cát, An Nhơn, Tuy phước và thành phố Quy Nhơn)
Tiềm năng phát triển kinh tế nổi trội của bộ phận phía Đông là phát triển
sản xuất nông, ngư nghiệp, khai thác khoáng sản kết hợp với một số ngành
công nghiệp chế biến, phát triển du lịch biển - đảo, nghĩ dưỡng kết hợp du lịch
tham quan, tìm hiểu các di tích văn hoá, lịch sử và phát triển giao thông đường
biển.

- Bộ phận Trung du, miền núi phía Tây (huyện Tây Sơn, Hoài Ân, An Lão, Vĩnh
Thạnh và Vân Canh)
Tiềm năng phát triển kinh tế nổi trội của bộ phận phía Tây chính là phát
triển thuỷ điện, phát triển mô hình sản xuất nông - lâm kết hợp và du lịch
sinh thái.
Ngoài ra, Bình Định còn có một lợi thế hết sức nổi bật đó là vị trí địa lí,
gắn cảng biển với HLKT quốc lộ 19, nằm ở cực Nam của vùng KTTĐ miền
Trung, dọc theo tuyến giao thông huyết mạch Bắc - Nam với các đầu mối giao
8
thông quan trọng như đường sắt, đường biển, đường bộ. Việc tiến hành xem xét
các công trình và phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, hệ thống
các công trình cấp điện, cấp thoát nước, các công trình công cộng…là hết sức
cần thiết đối với việc hình thành các hình thức TCLTKT.
Tác giả đồng tình với quan điểm của Viện Chiến lược phát triển về việc
vận dụng một số lí thuyết phát triển không gian trong nghiên cứu TCLTKT.
Trong số các lí thuyết phát triển không gian, có một số lí thuyết quan trọng hơn
cả và mang giá trị thực tiễn đối với Việt Nam nói chung và lãnh thổ cấp tỉnh nói
riêng [68]. Đó là:
- Lí thuyết trung tâm của W.Christaller: nhà khoa học người Mỹ này coi trọng
vai trò của các đô thị trung tâm đối với quá trình phát triển vùng. Ông cho rằng
chức năng cơ bản của các đô thị này là công nghiệp và dịch vụ vì thế chúng
được xem như là những trung tâm hạt nhân tạo vùng.
- Lí thuyết cực của Francoi Perroux: nhà khoa học người Pháp này coi các
trung tâm đô thị là những cực có tác động lôi kéo sự phát triển chung cho lãnh
thổ. Ông cho rằng trong các loại đô thị trung tâm luôn có 2 loại là cực tăng
trưởng và cực phát triển. Cực tăng trưởng là những trung tâm đô thị mới hình
thành và đang trong quá trình phát triển hoàn thiện. Cực phát triển là những
trung tâm đô thị đã hoàn thiện hoặc tương đối hoàn thiện về chức năng và sự
phát triển, nó có tác dụng cung cấp các dịch vụ cho khu vực xung quanh và thu
hút từ khu vực xung quanh những nhu cầu cần thiết cho bản thân đô thị.

- Lí thuyết vành đai nông nghiệp của Von Thunen: nhà khoa học người Đức này
đã đưa ra lí thuyết hình thành vành đai sản xuất nông nghiệp xung quanh mỗi
đô thị trung tâm. Lí thuyết này cho rằng xung quanh mỗi đô thị trung tâm có
một số vành đai sản xuất nông nghiệp.
- Lí thuyết phát triển phi cân đối: lí thuyết này do người Trung Quốc đề xướng,
chủ trương phát triển vùng ven biển để tạo động lực. Nền kinh tế của mỗi quốc
gia sẽ có những ngành, lĩnh vực có lợi thế để phát triển thành những ngành
mũi nhọn; có những lãnh thổ do có sự hội tụ về điều kiện thuận lợi, nếu tập
trung đầu tư sẽ trở thành lãnh thổ động lực làm đầu tàu lôi kéo sự phát triển
chung, tạo sự đột phá trên toàn lãnh thổ.
- Lí thuyết phát triển chuỗi hay chùm đô thị: tuỳ theo điều kiện cho phép có thể
hình thành nên chuỗi hoặc chùm đô thị. Sự kết nối các đô thị theo tuyến sẽ hình
thành nên chuỗi đô thị, trên cơ sở đó tạo ra các HLKT rất hữu ích. Chuỗi đô thị
thường hình thành ở những khu vực có hình dáng lãnh thổ hẹp ngang và kéo dài
(như dải miền Trung Việt Nam). Còn chùm đô thị thường được hình thành ở
những vùng đồng bằng châu thổ hoặc đồng bằng ven biển có diện tích tương
đối rộng. Trong mỗi chùm đô thị sẽ có một đô thị hạt nhân, gắn với nó là hàng
loạt các đô thị xung quanh làm vệ tinh.
- Lí thuyết phát triển tập trung vào những lãnh thổ cụ thể mang chức năng
chuyên môn hoá: lí thuyết này được ứng dụng khá phổ biến ở lãnh thổ có khả
năng hình thành các vùng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến, vùng nông
9
nghiệp công nghệ cao, các khu kinh tế tổng hợp hay chuyên ngành, các khu
công nghiệp hay khu du lịch. Lí thuyết này coi trọng cả điều kiện tự nhiên, kinh
tế, xã hội, đặc biệt coi trọng yếu tố thị trường.
Trên đây là những căn cứ quan trọng để xác định hai tiểu vùng kinh tế
(tiểu vùng phía Đông và tiểu vùng phía Tây) và các hình thức TCLTKT cấp
tỉnh - tỉnh Bình Định. Cụ thể, đó là: trang trại, vùng chuyên canh (lúa, mía, mì,
dừa và thủy sản); điểm công nghiệp, KCN, CCN, trung tâm công nghiệp; điểm
du lịch, khu du lịch, trung tâm du lịch; đô thị, KKT và HLKT.

Mặt khác, khi lựa chọn phương án TCLTKT cấp tỉnh - tỉnh Bình Định, tác
giả đã dựa vào một số căn cứ, đó là: kết quả đánh giá những mặt đã đạt được và
chưa đạt được về thực trạng TCLTKT tỉnh Bình Định; tính liên tục về mặt không
gian Địa lí theo các tiểu vùng; bối cảnh trong nước, khu vực và quy hoạch phát
triển KT - XH của tỉnh Bình Định đến năm 2020. Phương án TCLTKT tỉnh Bình
Định được thể hiện theo 3 tiểu vùng kinh tế: tiểu vùng phía Nam, tiểu vùng phía
Đông và tiểu vùng phía Tây. Đối với mỗi tiểu vùng, các hình thức TCLTKT, các
cực kinh tế và hướng ưu tiên phát triển sẽ được xác định một cách cụ thể .
Đồng thời, tác giả đã tiến hành biên tập, xây dựng hệ thống các bản đồ thành
phần: bản đồ hành chính, bản đồ nguồn lực tự nhiên, bản đồ nguồn lực KT - XH;
bản đồ TCLTNN, TCLTCN, TCLTDL; bản đồ thưc trạng TCLTKT, bản đồ định
hướng TCLTKT tỉnh Bình Định. Qua đó, thể hiện một cách trực quan các hình thức
TCLTKT cấp tỉnh - tỉnh Bình Định.
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định
i) Thuận lợi
- Bình Định là tỉnh nằm ở phía Nam của vùng kinh tế trọng điểm miền
Trung, có vị trí địa lý gắn với cảng biển và HLKT Đông - Tây, đó là: đầu mối
phía Đông HLKT đường 19, đầu mối giao thương về đường sắt, đường bộ,
đường biển, đường hàng không theo chiều Bắc - Nam và Đông - Tây, gắn kết
chặt chẽ kinh tế biển với sự phát triển của Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc
Campuchia và Thái Lan.
- Bình Định có một hệ thống cảnh quan biển - đảo, núi, đầm và hồ, cùng
với 150 điểm di tích, danh thắng và tiềm năng văn hóa phi vật thể nổi tiếng như
môn phái võ thuật Tây Sơn, nghệ thuật hát Tuồng và tuyến du lịch Phương Mai
- Núi Bà chạy dọc ven biển đã được Trung ương xác định là tuyến trọng điểm
quốc gia. Đó là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch, hòa nhập vào các
chương trình du lịch liên vùng như: “Con đường Di sản miền Trung” và “Con
đường Xanh Tây Nguyên”.

- Sự đa dạng về địa hình và đất đai cho phép hình thành trên địa bàn tỉnh Bình
Định nhiều vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau, các loại hình trang trại và có
khả năng sản xuất hàng hoá.
10
- Hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH đã bước đầu được đầu tư phát triển và
tăng cường năng lực hoạt động của hệ thống đường biển, đường bộ, đường sắt,
đường hàng không, đặc biệt là các đầu mối giao thông. Nhân tố này cộng với vị
trí địa lí đã hình thành nên một số địa bàn và tuyến - lực trọng điểm, đó là các
KCN, khu du lịch, KKT Nhơn Hội, các đô thị và HLKT. Từ đó, tạo điều kiện
thuận lợi trong việc TCLTKT ngày càng hợp lí hơn.
ii) Khó khăn
- Do nằm khá xa hai trung tâm kinh tế sôi động và phát triển mạnh là thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội nên Bình Định vẫn còn những hạn chế nhất định,
nhất là trong các lĩnh vực: thông tin kinh tế, thông tin thị trường và công nghệ
- Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong
cơ cấu lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân còn cao (trên 65%). Thiếu
lao động có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi.
- Nguồn lực đầu tư phát triển của địa phương còn hạn hẹp, đặc biệt còn
thiếu sức hấp dẫn đối với đầu tư bên ngoài.
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế tỉnh Bình Định
2.2.1. Khái quát chung nền kinh tế tỉnh Bình Định
Về quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế: Bình Định là địa phương có tốc
độ tăng trưởng kinh tế hàng năm thường cao hơn mức trung bình chung của cả
nước. Nhịp độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2000 - 2008 bình quân hàng năm là
9,8%, trong đó khu vực công nghiệp và xây dựng tăng bình quân cao nhất
16,1%, tiếp đến khu vực dịch vụ tăng bình quân 10,7%, còn lại khu vực nông,
lâm, thủy sản tăng bình quân thấp nhất 6,1%.
Về cơ cấu kinh tế: có sự chuyển dịch theo hướng khai thác lợi thế của
từng ngành, phù hợp với xu thế chung của cả nước. Khu vực I giảm từ 42,2%
(năm 2000) xuống còn 37% (năm 2008), khu vực II tăng từ 22,6 % (năm 2000)

lên 27,1% (năm 2008), khu vực III tăng từ 35,2% (năm 2000) lên 35,9% (năm
2008). Cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng
khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng phát triển.
Về cơ cấu vốn đầu tư cũng có những chuyển biến tích cực. Xét theo khu vực
kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư đối với khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng khá cao, từ 50 -
65% và đang có chiều hướng giảm. Trong khi đó, khu vực CN & XD chiếm từ 20
- 40%, có chiều hướng gia tăng. Còn khu vực nông, lâm, thuỷ sản chỉ chiếm
khoảng 10% cơ cấu vốn đầu tư của tỉnh. Xét theo cấu thành, cơ cấu vốn đầu tư
trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỉ trọng rất cao, từ 80 - 85%.
2.2.2. Các ngành kinh tế
2.2.2.1. Nông, lâm, thủy sản
Sản xuất nông, lâm, thủy sản phát triển tương đối toàn diện và có những
chuyển biến tích cực từ một nền nông nghiệp mang tính tự cấp, tự túc đã
chuyển mạnh sang nông nghiệp hàng hoá theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Trong giai đoạn 2000 - 2008, giá trị xản xuất của cả 3 ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp và thuỷ sản đang có chiều hướng gia tăng mạnh.
11
2.2.2.2. Công nghiệp
Ngành công nghiệp của tỉnh tuy còn nhiều khó khăn nhưng tiếp tục tăng
trưởng và phát triển khá. Năm 2008, giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh đạt
12807,3 tỷ đồng tăng gấp 1,9 lần năm 2005. Trong đó, giá trị sản xuất của nhóm
ngành công nghiệp chế biến thường chiếm tỉ trọng rất cao, gần 90%. Các ngành
công nghiệp chủ lực của địa phương đều thuộc nhóm ngành công nghiệp chế biến.
2.2.2.3. Dịch vụ
Các ngành dịch vụ, du lịch có những chuyển biến với nhiều loại hình hoạt
động và có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh,
năm 2008 gấp 2 lần năm 2005 và 4,2 lần năm 2000. Cơ sở hạ tầng du lịch được
nâng cấp, chất lượng dịch vụ du lịch được nâng lên khá rõ. Công tác quy hoạch,
đầu tư hạ tầng, quảng bá và xúc tiến du lịch được chú trọng.
2.3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định

2.3.1. Tổ chức lãnh thổ theo ngành kinh tế tỉnh Bình Định
2.3.1.1. Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
i) Trang trại
Nhìn chung, số lượng trang trại trên địa bàn tỉnh Bình Định có giảm
nhưng chất lượng của trang trại ngày càng được nâng cao trong giải quyết việc
làm, tăng giá trị sản lượng hàng hoá, tăng thu nhập cho hộ gia đình. Trang trại ở
Bình Định thường tập trung với số lượng khá nhiều (trên 100 trang trại) tại các
huyện đồng bằng và trung du có diện tích đất tự nhiên tương đối lớn, có khả năng
ứng dụng khoa học kĩ thuật như Quy Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát và Hoài Ân.
Năm 2008, diện tích đất đai trang trại chiếm 1,3% diện tích đất nông
nghiệp của tỉnh. Trong đó, bình quân diện tích đất đai trên một trang trại lớn
nhất thuộc về loại hình trang trại lâm nghiệp (8,6 ha/trang trại), nhỏ nhất là loại
hình trang trại chăn nuôi (1,5 ha/trang trại). Lao động trang trại chỉ chiếm
khoảng 0,7% lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm, thủy sản. Thu
nhập của trang trại khoảng 30,8 ti đồng.
Mặc dù, diện tích đất đai, lao động và thu nhập trang trại ở tỉnh Bình
Định chiếm tỉ trọng rất thấp so với các chỉ tiêu nông nghiệp toàn tỉnh, nhưng
các trang trại nơi đây mang ý nghĩa rất lớn cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Kinh tế trang trại đã góp phần hạn chế sự thoái hoá đất, phủ xanh đất trống, đồi trọc,
biến những vùng đất khô cằn thành những vùng đất có độ phì nhiêu ngày càng tăng,
sản xuất được nhiều loại nông sản hàng hoá, nhất là đối với các huyện Phù Mỹ, Phù
Cát, Hoài Ân và thành phố Quy Nhơn. Mặt khác, phần lớn các trang trại đều có ý
thức sử dụng lao động hợp lí, tận dụng tối đa lao động gia đình. Việc hình thành và
phân bổ các loại hình trang trại trên địa bàn tỉnh đã biết dựa vào lợi thế so sánh của
từng vùng và kinh nghiệm sản xuất truyền thống của hộ nông dân để hình thành loại
hình trang trại đạt hiệu quả, đặc biệt trang trại nuôi trồng thủy sản và trang trại
trồng cây lâu năm.
ii) Vùng chuyên canh cây trồng và thủy sản
12
Tác giả đã tập trung nghiên cứu một số vùng chuyên canh cây trồng và

thủy sản, đó là: lúa, mì, mía, dừa, NTTS và khai thác thủy sản. Đây là các loại
cây trồng và vật nuôi mang tính truyền thống, phù hợp với đều kiện sinh thái
của địa phương nên năng suất và sản lượng thường ổn định. Ngoài ra, sản phẩm
của nó còn đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng lương thực tại chỗ, một số tỉnh lân
cận thuộc vùng kinh tế Tây Nguyên, đảm bảo cung cấp nguồn nguyên liệu cho
ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu của địa phương.
- Vùng chuyên canh cây trồng
+ Cây lúa: lúa là cây trồng chính và có nhiều tiềm năng phát triển ở địa
bàn tỉnh Bình Định. Địa bàn phân bố tập trung ở các Tuy Phước, An Nhơn, Phù
Cát, Phù Mỹ, Hoài Nhơn, Tây Sơn và Hoài Ân.
+ Cây mì: địa bàn phân bố tập trung ở các huyện Vân Canh, Hoài Nhơn,
Tây Sơn, Phù Cát, Phù Mỹ.
+ Cây mía: địa bàn phân bố chủ yếu ở các huyện Tây Sơn, Vân Canh, Vĩnh
Thạnh, An Nhơn và Phù Mỹ.
+ Cây dừa: địa bàn phân bố tập trung ở các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ,
Hoài Ân, Phù Cát.
- Vùng nuôi trồng thủy sản
+ Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt: hoạt động NTTS ở Bình Định tập trung ở các
huyện Phù Mỹ, Phù Cát, Hoài Ân , đang được nuôi với 5 hình thức khác nhau.
+ Nuôi trồng thuỷ sản nước mặn: hoạt động NTTS nước mặn tập trung chủ
yếu ở Quy Nhơn, gồm các hình thức nuôi trai cấy ngọc, nuôi cá lồng trên biển
và ương tôm hùm giống.
+ Nuôi trồng thuỷ sản nước lợ: nuôi thuỷ sản nước lợ ở Bình Định tập trung ở
các huyện Tuy Phước, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát và thành phố Quy Nhơn.
- Vùng khai thác thủy sản
+ Khai thác hải sản: Bình Định là địa phương có đội tàu đánh cá khá lớn,
khoảng 9000 chiếc và tập trung ở các huyện có nghề cá phát triển như Hoài
Nhơn, Phù Mỹ, thành phố Quy Nhơn…
+ Khai thác nghề cá nội địa: khai thác thủy sản nước ngọt chủ yếu là ở
các ao, hồ, sông suối trên địa bàn tỉnh. Việc khai thác thủy sản nước ngọt tập

trung tại 3 đầm lớn là đầm Thị Nại, Đề Gi và Trà Ổ và các hồ thủy lợi ở Hoài
Ân, Tây Sơn.
2.3.1.2. Tổ chức lãnh thổ công nghiệp
Nhìn chung, hoạt động sản xuất công nghiệp của tỉnh chủ yếu tập trung ở
những nơi có điều kiện thuận lợi như ven quốc lộ, ven biển và gần nguồn
nguyên liệu. Các hình thức TCLTCN ở tỉnh Bình Định khá đa dạng, bao gồm các
điểm công nghiệp, KCN, CCN và trung tâm công nghiệp.
i) Điểm công nghiệp
Hệ thống các điểm công nghiệp được hình thành ngày càng nhiều và
phân bố trên hầu hết các huyện trong tỉnh, song tập trung nhiều ở Quy Nhơn,
An Nhơn, Hoài Nhơn, Tuy Phước và Tây Sơn, gắn với các ngành công
13
nghiệp: khai khoáng (đá granit, titan), chế biến (mì, dừa, hạt điều, lâm sản,
thủy sản), sản xuất vật liệu xây dựng và một số mặt hàng tiêu dùng khác.
Riêng huyện miền núi Vĩnh Thạnh có 2 nhà máy thủy điện là Vĩnh Sơn và
Định Bình. Ở Quy Nhơn có nhà máy nhiệt điện địa phương.
ii) Khu công nghiệp và cụm công nghiệp
Hiện nay, Bình Định có 2 KCN và 4 CCN đang hoạt động [56]. Đó là
KCN Phú Tài, Long Mỹ, CCN Quang Trung, Gò Đá Trắng, Hóc Bợm và Nhơn
Bình. Trong đó, hai KCN Phú Tài và Long Mỹ trong thời gian qua hoạt động có
hiệu quả, đóng góp khá lớn vào ngân sách của tỉnh, mở rộng quan hệ đối ngoại,
giải quyết được việc làm và tăng thu nhập cho người dân địa phương, đặc biệt đối
với các huyện như Tuy Phước, An Nhơn và thành phố Quy Nhơn.
Bình Định đang có 6 khu công nghiệp và nhiều cụm công nghiệp đang và
sẽ xây dựng, phân bố ở hầu hết các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh.
- Trung tâm công nghiệp
Mặc dù với quy mô nhỏ, Quy Nhơn vẫn là một trong những trung tâm công
nghiệp tiêu biểu của cả nước. Đây là nơi tập trung 2 KCN, 2/4 CCN đang hoạt động
của tỉnh, mật độ các điểm công nghiệp khá dày. Năm 2008, riêng thành phố Quy
Nhơn chiếm đến 72,3% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Năng suất lao động

công nghiệp đạt cao nhất tỉnh (xem bảng 8 phụ lục 2).
2.2.1.3. Tổ chức lãnh thổ du lịch
Bình Định là vùng đất có tài nguyên du lịch tương đối đa dạng và phong
phú, bao gồm cả núi, hồ, biển - đảo, các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội có
sức hấp dẫn. Các hình thức TCLTDL phát triển khá nổi bật, đó là: điểm du lịch,
khu du lịch và trung tâm du lịch.
i) Điểm du lịch
Xuất phát từ lịch sử hình thành của vùng đất này gắn liền với nền văn hóa
Chămpa, Bình Định là một trong những tỉnh, thành ở khu vực miền Trung có
khá nhiều làng nghề. Bình Định có các điểm du lịch làng nghề, một số điểm di
tích văn hóa Chăm, các chùa cổ khá nổi tiếng và một số điểm du lịch biển có
giá trị nghĩ dưỡng, đó là các bãi tắm, đầm.
ii) Khu du lịch:
Hệ thống các khu du lịch ở Bình Định thường phân bố ở những nơi có
điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, giao thông và các loại hình dịch vụ. Trên
địa bàn tỉnh Bình Định có một số khu du lịch đặc trưng với khả năng phát triển
mạnh, thu hút nhiều khách du lịch nhất, đó là: khu du lịch thắng cảnh Ghềnh
Ráng - Quy Hoà, khu du lịch thắng cảnh Hầm Hô, khu du lịch Bảo tàng Quang
Trung - Nguyễn Huệ, khu du lịch Thành Hoàng Đế (Thành Đồ Bàn), khu du
lịch suối khoáng Hội Vân và khu du lịch Núi Bà.
iii) Trung tâm du lịch:
Trung tâm du lịch lớn nhất của tỉnh là thành phố Quy Nhơn. Tài nguyên
du lịch của Bình Định tập trung chủ yếu ở khu vực thành phố Quy Nhơn và phụ
14
cận trong vòng bán kính khoảng 30 - 40km, thuận lợi trong quy hoạch đầu tư
phát triển du lịch.
Ngoài ra, Bình Định còn có tuyến du lịch nội tỉnh, đó là tuyến du lịch
Phương Mai Núi Bà. Tuyến du lịch này đã được công nhận là tuyến du lịch trọng
điểm quốc gia. Hai tuyến du lịch quốc gia chạy qua dịa bàn tỉnh, đó là tuyến du
lịch xuyên Việt dọc theo HLKT quốc lộ 1A và tuyến du lịch Đông - Tây dọc theo

HLKT quốc lộ 19.
2.3.2. Tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định theo không gian
2.3.2.1. Đô thị
Các đô thị hình thành và phát triển dọc theo hành lang quốc lộ 1A và
quốc lộ 19, hợp thành một cấu trúc không gian tuyến - điểm. Tính đến
nay, trên toàn tỉnh Bình Định có 15 đô thị. Thành phố Quy Nhơn là đô
thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Định. Các đô thị khác là đô thị loại V,
huyện lị hoặc trực thuộc huyện. Ngoại trừ thành phố Quy Nhơn, các đô
thị trong tỉnh có quy mô dân số thấp, tính chất các đô thị nhìn chung
không đa dạng, chủ yếu là đô thị huyện lị, chưa có sự xuất hiện của các đô
thị mang tính chất chuyên ngành. Tỉ lệ đô thị hoá cao nhất là thành phố
Quy Nhơn, đạt trên 90% và gấp 3,3 lần so với mức trung bình của toàn
tỉnh. Tiếp đến là các huyện miền núi, trung du như An Lão, Vân Canh,
Vĩnh Thạnh và Tây Sơn có tỉ lệ đô thị hoá khá cao từ 13 - 22%. Riêng các
huyện đồng bằng, ven biển tỉ lệ đô thị hoá thấp, chưa đầy 10%.
2.3.2.2. Khu kinh tế
KKT Nhơn Hội là một trong những hình thức TCLTKT theo không gian nổi
bật được hình thành và phát triển trên địa bàn tỉnh Bình Định. Hiện nay, KKT này
đang được đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng và thu hút đầu tư [62].
KKT Nhơn Hội nằm trên bán đảo Phương Mai, có mặt bằng thông thoáng,
diện tích khá lớn so với các KKT trong cả nước, đồng thời có vị trí khá thuận
lợi về giao lưu quốc tế, góp phần mở rộng thị trường với các vùng khác trong cả
nước cũng như trong khu vực. Với vị trí trung tâm trên các tuyến giao lưu quốc
tế và liên vùng, tuyến trục Bắc - Nam và Đông - Tây của miền Trung, trên hành
lang của tuyến đường hàng hải quốc tế, là cửa ngõ hướng biển của các nước
trong Tiểu khu vực Mekong mở rộng, đặc biệt là với các nước Lào, Campuchia
và Thái Lan. KKT này sẽ trở thành hạt nhân tăng trưởng, trung tâm đô thị -
công nghiệp - dịch vụ - du lịch của vùng KTTĐ miền Trung.
2.3.2.3. Hành lang kinh tế
HLKT cũng là một trong những hình thức TCLTKT theo không gian

tiêu biểu ở tỉnh Bình Định. HLKT quốc lộ 19 là một trong những trục Đông -
Tây, liên kết trực tiếp giữa Bình Định và các tỉnh Bắc Tây Nguyên. Trên địa
bàn tỉnh Bình Định, HLKT quốc lộ 19 chạy dọc sông Kôn, qua các huyện Tây
Sơn, An Nhơn, Tuy Phước và kết nối với Cảng Quy Nhơn. Đây là khu vực tập
trung dân cư đông đúc, trình độ dân trí cao gắn với văn hóa Tây Sơn và văn
hoá Chămpa tạo điều kiện ngành du lịch phát triển. Gần đó có thủy điện Vĩnh
15
Sơn, thuỷ điện Định Bình đã tạo cho ngành công nghiệp phát triển ở một mức
độ nhất định.
2.3.2.4. Tiểu vùng kinh tế
Dựa trên cơ sở sự phân hoá nguồn lực phát triển KT - XH và việc vận dụng
một số lí thuyết phát triển không gian trong nghiên cứu TCLTKT cấp tỉnh như đã
phân tích trong hướng tiếp cận các hình thức TCLTKT cấp tỉnh, tác giả nhận thấy
TCLTKT tỉnh Bình Định có thể được phân chia theo 2 tiểu vùng:
i) Tiểu vùng Đồng bằng, ven biển phía Đông
Tiểu vùng này bao gồm 6 đơn vị hành chính: huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ,
Phù Cát, An Nhơn, Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn, chiếm khoảng 39,6%
diện tích và 80,9% dân số toàn tỉnh. Tiểu vùng Đồng bằng, ven biển phía Đông
có lợi thế về biển, có diện tích đất đồng bằng khá lớn, lợi thế về lao động và có
khá đầy đủ các loại hình giao thông (đặc biệt là cảng biển Quy Nhơn). Các hình
thức TCLTKT tiêu biểu, đó là: các vùng chuyên canh (lúa, dừa, mía), NTTS;
các KCN, CCN; khu du lịch, tuyến du lịch quốc gia và nội tỉnh; KKT duy nhất
của tỉnh (Nhơn Hội); HLKT quốc lộ 1A; TP Quy Nhơn: đô thị hạt nhân, trung
tâm kinh tế của tỉnh cùng với các đô thị vệ tinh.
ii) Tiểu vùng Trung du, miền núi phía Tây
Tiểu vùng này bao gồm 5 đơn vị hành chính: huyện Tây Sơn, Hoài Ân,
An Lão, Vĩnh Thạnh và Vân Canh với diện tích khá lớn chiếm đến 60,4% diện
tích và 19,1% dân số toàn tỉnh. Tiểu vùng Trung du, miền núi phía Tây với lợi
thế về địa hình, nguồn nước, đất đai và rừng và nằm ở cửa ngõ phía Tây của
tỉnh. Các hình thức TCLTKT tiêu biểu đó là: trang trại, các vùng chuyên canh

(mì, mía); điểm công nghiệp (thuỷ điện); một số KCN, CCN, khu du lịch, tuyến
du lịch quốc gia; HLKT quốc lộ 19.
2.4 Đánh giá chung về tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định
- Ưu điểm
Dựa vào điều kiện tự nhiên, đặc điểm phát triển KT - XH, các hình thức
TCLTKT trên địa bàn tỉnh đã đóng vai trò rất cần thiết đối với sự phát triển kinh
tế của địa phương. Nổi bật là đô thị hạt nhân, HLKT quốc lộ 19, HLKT quốc lộ
1A gắn liền với cảng biển và các KCN.
Các đô thị ở Bình Định có sự phân bố dọc theo quốc lộ và tỉnh lộ. Trong
đó, thành phố Quy Nhơn đóng vai trò là đô thị hạt nhân. Với tiềm lực kinh tế,
đô thị này sẽ ảnh hưởng tới các khu vực xung quanh với độ dài bán kính là 20 -
30 km. Các trung tâm khác (thị trấn Diêu Trì, Tuy Phước, Bình Định và Đập
Đá) là vệ tinh, chúng đã liên kết với nhau tạo nên mạng lưới trung tâm làm
khung phát triển lãnh thổ. Trong hệ thống trung tâm ấy, mỗi trung tâm có chức
năng riêng.
Ngoài ra dọc theo tuyến quốc lộ 1A và dải ven biển còn có chuỗi các đô
thị, đó là các thị trấn như Bồng Sơn, Tam Quan, Bình Dương, Phù Mỹ và Ngô
Mây, đóng vai trò là trung tâm giao lưu hàng hoá trong toàn huyện, ngành
thương mại, dịch vụ nơi đây khá phát triển cùng với một số ngành nghề TTCN.
16
Riêng vùng trung du, miền núi của tỉnh, mặc dù có diện tích tự nhiên lớn,
nhưng đô thị kém phát triển. Đáng chú ý nhất, chỉ có thị trấn Phú Phong (thị
trấn huyện lị huyện Tây Sơn), với ưu thế về vị trí, là cửa ngõ phía Tây của tỉnh
trên trục đường 19 nên động lực phát triển đô thị khá rõ nét.
Đối với Bình Định, vấn đề phát triển Dải hành lang ven biển với cửa ra
Quy Nhơn trong thế liên kết với Dải ven biển miền Trung và đón trước cửa ra
cho khu vực Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Thái Lan qua
HLKT quốc lộ 19 được coi là ưu tiên số một. Lợi thế lớn nhất của Bình Định là
liên kết để tận dụng HLKT quốc lộ 19 với cửa ngõ là cảng Quy Nhơn và cảng
Nhơn Hội (tương lai). Nếu biết liên kết những lợi thế này với lợi thế của các

tỉnh khu vực Bắc Tây Nguyên thì sẽ hình thành được một khu vực kinh tế có
khả năng cạnh tranh lớn. Đặc biệt, giao thông vận tải đường biển kết hợp với
đường sắt, đường bộ tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa
giữa Bình Định với các địa phương khác trong vùng.
Ngoài ra, dọc hơn 130 km đường bờ biển Bình Định có nhiều bãi tôm, cá
với diện tích đất và mặt nước nuôi trồng thủy sản khá lớn, có một số nguồn tài
nguyên khoáng sản có giá trị, tài nguyên du lịch biển - đảo và di tích văn hoá,
lịch sử khá hấp dẫn. Vì vậy, HLKT quốc lộ 1A dọc ven biển của tỉnh đã trở thành
vùng kinh tế động lực với các ngành mũi nhọn, đó là: ngành khai thác, nuôi trồng
và chế biến thủy sản, khai thác và xuất khẩu quặng sa khoáng ti tan, khai thác và
xuất khẩu đá granit, du lịch biển kết hợp với du lịch văn hoá tâm linh.
Các KCN, CCN đã được đầu tư xây dựng tương đối hoàn chỉnh, thu hút
nhiều doanh nghiệp đến đăng ký đầu tư, đã và đang đi vào hoạt động sản xuất.
Tỉ lệ lấp đầy KCN ở Bình Định rất cao, đạt gần 90%. Riêng 2 KCN Phú Tài và
Long Mỹ đã chiếm đến 38,5% kim ngạch xuất khẩu và 12,1% GTSXCN toàn
tỉnh, đóng góp khá lớn vào ngân sách của tỉnh, mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu
với nhiều quốc gia trên thế giới. Mặt khác, hai KCN đã góp phần giải quyết việc
làm ổn định, thường xuyên và tăng thu nhập cho người dân địa phương, đặc biệt
đối với các huyện như Tuy Phước, An Nhơn và thành phố Quy nhơn.
Sự phát triển của hình thức trang trại và vùng chuyên canh cũng mang ý
nghĩa rất lớn cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Việc hình thành và phân
bổ các loại hình trang trại và vùng chuyên canh trên địa bàn tỉnh đã tạo ra
nguồn nông sản hàng hoá khá lớn đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu và
cung cấp nguồn nguyên liệu cho ngành công chế biến của tỉnh.
Nhìn chung, các hình thức TCLTKT đã tận dụng tối đa những lợi thế
trong quá trình phát triển và bước đầu đã được tỉnh chú trọng đầu tư, nhất là về
cơ chế chính sách. Chắc chắn, các hình thức TCLTKT đã và đang hình thành,
sẽ mang lại hiệu quả và có tác dụng rất thiết thực đối với sự phát triển kinh tế
của địa phương trong thời gian tới.
- Nhược điểm

Các hình thức TCLTKT phát triển còn mang tính rời rạc, chưa đảm bảo
quy hoạch tổng thể. Việc quản lí của chính quyền địa phương đối với các hình
17
thức TCLTKT còn bị chồng chéo. Một số chính sách về xúc tiến đầu tư, về thủ tục
thuê đất, giao quyền sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, chính sách vay vốn, thế
chấp vẫn còn những vướng mắc cần phải tháo gỡ. Trong mỗi tiểu vùng, các
ngành kinh tế, cực kinh tế chưa được xác định một cách cụ thể, chưa thể hiện
được tính đồng nhất các mối liên kết không gian và sự phân hoá chức năng của
từng tiểu vùng trong tổng thể nền kinh tế của tỉnh một cách hợp lí. Đây chính là
một trong những cơ sở quan trọng để xác định phương án và đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện TCLTKT tỉnh Bình Định trong thời gian tới.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ
TỈNH BÌNH ĐỊNH
3.1 Định hướng tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định
3.1.1 Cơ sở của định hướng TCLTKT BìnhĐịnh đến năm 2015 và tầm nhìn
đến năm 2020
3.1.1.1. Sự phát triển của vùng KTTĐ miền Trung
So với ba vùng KTTĐ phía Bắc, phía Nam và vùng ĐBSCL, vùng kinh tế
này đứng thứ 2 về diện tích, thứ 3/4 về dân số, thứ 4/4 về quy mô GDP và
GDP/người, nhưng lại có tiềm năng lớn về cảng biển trung chuyển, phát triển
du lịch nghỉ dưỡng (chiếm phần lớn các dự án khu nghỉ mát biển của cả nước)
và di sản thế giới (chiếm phần lớn các di sản thế giới tại Việt Nam). Đặc biệt,
vùng KTTĐ này có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, chính
trị, văn hóa và an ninh quốc phòng. Năm 2000, Bình Định là tỉnh thứ 5 đã được
Chính phủ phê duyệt đưa vào vùng KTTĐ miền Trung, là cơ hội cho Bình Định
được chú trọng đầu tư phát triển.
3.1.1.2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định đến
năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020
Mục tiêu chiến lược phát triển KT - XH tỉnh Bình Định đến năm 2015 và

tầm nhìn đến năm 2020 đã được xác định [15], [63] :
- Phát triển kinh tế: Bình Định nằm trong vùng KTTĐ miền Trung, đang
có sự đầu tư đúng hướng, cùng với những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh
vực kinh tế - xã hội, đó chính là cơ sở cho việc định hướng các chỉ tiêu quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh trong thời gian tới.
- Phát triển kết cấu hạ tầng: trọng tâm xây dựng kết cấu hạ tầng của tỉnh
Bình Định trong thời gian tới là đầu tư cho giao thông, cảng biển, khu kinh tế
Nhơn Hội và thủy lợi để tạo bước đột phá về phát triển nông nghiệp, công
nghiệp, du lịch, dịch vụ cảng biển và đón trước nhu cầu phát triển của khu vực
trên HLKT Đông - Tây.
3.1.1.3. Phát triển kinh tế - xã hội Dải ven biển miền Trung theo Chiến
lược biển Việt Nam
Được hình thành trên tiềm năng kinh tế biển, Dải ven biển miền Trung
đang ngày càng có tác động lớn đến sự phát triển của miền Trung, Tây Nguyên
18
và cả nước, trở thành đối tác quan trọng đối với sự phát triển của Tiểu vùng
sông Mekong, đồng thời đang trở thành một trục kinh tế biển hùng mạnh của
Việt Nam. Riêng vùng ven biển và biển Bình Định có ý nghĩa chiến lược về
kinh tế, an ninh, quốc phòng, có nhiều tiềm năng có thể khai thác để đẩy nhanh
nhịp độ phát triển kinh tế của tỉnh.
3.1.1.4. Phát triển Tam giác 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia
Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia là một tam giác phát
triển nằm ở khu vực ngã ba biên giới của ba nước Việt Nam, Lào và
Campuchia. Với lợi thế của mình, HLKT đường 19 là một trục hành lang quan
trọng trong việc tạo lối ra cho các sản phẩm hàng hoá của khu vực biên giới
ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế và
giao lưu thông thương với quốc tế của một khu vực đang được coi là chậm
phát triển này. Việc phát triển kinh tế tỉnh Bình Định và hành lang ven biển
với cửa ra cảng Quy Nhơn đã đặt ra yêu cầu phát triển và hình thành một khu
vực hấp dẫn trong thế liên kết HLKT đường 19 với hành lang ven biển.

3.1.2. Định hướng TCLTKT tỉnh Bình Định đến năm 2015 và tầm nhìn đến
năm 2020
3.1.2.1. Định hướng chung
Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH tỉnh Bình Định đến năm 2015 và
tầm nhìn đến năm 2020 đã xác định các quan điểm chung phát triển như sau
[14], [61]:
- Quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH tỉnh Bình Định thời kỳ 2015-
2020 phải phù hợp với Chiến lược phát triển KT - XH chung của cả nước, với
vùng kinh tế Duyên hải Nam Trung bộ và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với
vùng KTTĐ miền Trung gắn với HLKT Đông - Tây, với các tỉnh Tây nguyên,
các tỉnh Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Thái Lan.
- Khai thác tối đa hiệu quả nguồn lực bên trong và bằng mọi cách thu hút
các nguồn lực từ bên ngoài nhằm khai thác tốt các lợi thế của tỉnh, tăng sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng tăng công nghiệp và
dịch vụ. Tập trung phát triển nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra sản phẩm hàng hóa, cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp và xuất khẩu. Ưu tiên phát triển du lịch và dịch vụ, công nghiệp sử
dụng nguyên liệu địa phương và mở rộng công nghiệp sử dụng nguồn nguyên liệu
từ bên ngoài tỉnh.
- Đầu tư có trọng điểm vào một số địa bàn động lực như xây dựng Quy Nhơn
thành trung tâm du lịch, nghỉ dưỡng của cả nước và khu vực; KKT Nhơn Hội
thành trung tâm công nghiệp chế biến hải sản, cơ khí, chế tạo điện tử…và cảng
biển; các đô thị, vùng sản xuất hàng hoá dọc quốc lộ 1A gắn với hai cực Đà Nẵng
và Nha Trang, dọc quốc lộ 19 gắn với các tỉnh Bắc Tây Nguyên.
- Phát triển KT - XH gắn với phát huy yếu tố con người, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
19
3.1.2.2. Định hướng cụ thể
Dựa trên cơ sở kết quả đánh giá những mặt đã đạt được và chưa đạt được

về thực trạng TCLTKT tỉnh Bình Định; tính liên tục về mặt không gian Địa lí theo
các tiểu vùng; bối cảnh trong nước, khu vực và quy hoạch phát triển KT - XH của
tỉnh Bình Định đến năm 2020, theo tác giả, phương án TCLTKT tỉnh Bình Định có
thể được phân chia theo 3 tiểu vùng kinh tế. Đối với mỗi tiểu vùng, các cực kinh tế
và hướng ưu tiên phát triển sẽ được xác định một cách cụ thể .
i) Tiểu vùng phía Nam
Phạm vi giới hạn của tiểu vùng này dọc quốc lộ 19, phía Nam quốc lộ 1A
và thành phố Quy Nhơn, bao gồm các huyện: Tây Sơn, An Nhơn, Vân Canh,
Tuy Phước và thành phố Quy Nhơn. Đây là vùng kinh tế động lực của tỉnh Bình
Định - có ý nghĩa chiến lược về kinh tế, quốc phòng và an ninh, có nhiều tiềm
năng để phát triển kinh tế. Tập trung phát triển nhiều KCN, CCN, khu, tuyến du
lịch, vùng nguyên liệu gắn chế biến, khu chăn nuôi tập trung gia súc nhỏ; cực phát
triển: TP Quy Nhơn (trung tâm kinh tế) và các đô thị khác ; cực tăng trưởng: KKT
Nhơn Hội, Phú Phong, Bình Định (sát nhập cả Đập Đá); các tuyến - lực: HLKT
QL19, HLKT QL1A (cửa ra là cảng biển Quy Nhơn và Nhơn Hội).
ii) Tiểu vùng phía Đông
Phạm vi giới hạn của tiểu vùng này là đồng bằng, ven biển và ven quốc lộ
1A, bao gồm các huyện: Hoài Nhơn, Phù Mỹ và Phù Cát. Đây là vùng đồng
bằng, ven biển có nhiều tiềm năng về lao động, kết cấu hạ tầng đã có bước phát
triển đáng kể. Phát triển các KCN, CCN, khu, tuyến du lịch, vùng nguyên liệu gắn
chế biến, khu chăn nuôi tập trung gia súc lớn và nhỏ; cực tăng trưởng: thị xã Bồng
Sơn, Cát Tiến; cực phát triển: các đô thị khác; tuyến - lực: HLKT QL 1A.
iii) Tiểu vùng phía Tây
Phạm vi giới hạn của tiểu vùng này là vùng Trung du miền núi, bao gồm
các huyện: An Lão, Hoài Ân và Vĩnh Thạnh. Vùng này có nhiều tiềm năng về
đất đai chưa được khai thác hoặc khai thác chưa có hiệu quả, hệ thống hạ tầng
kém phát triển hơn so với các vùng khác trong tỉnh. Phát triển một số CCN,
tuyến du lịch, vùng nguyên liệu gắn chế biến, khu chăn nuôi tập trung gia súc
lớn; cực phát triển: các đô thị.
3.2. Giải pháp về TCLTKT tỉnh Bình Định đến năm 2015 và tầm nhìn đến

năm 2020
Để định hướng TCLTKT trở thành hiện thực và mang ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế ở địa phương, cần thiết triển khai đồng bộ các giải
pháp về TCLTKT tỉnh Bình Định đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, đó là:
3.2.1. Giải pháp về quy hoạch và quản lí lãnh thổ
- Về quy hoạch TCLT theo ngành:
+ Đối với nông nghiệp:
Để phát triển trang trại, Tỉnh và được sự trợ giúp của Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn cần có chính sách hỗ trợ về vốn, kinh nghiệm trong TCLT
sản xuất và quản lí, về tích tụ ruộng đất để mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao
20
năng lực kinh doanh, giúp người nông dân tham gia vào mạng lưới thị trường
để tiêu thị sản phẩm, mang lại thu nhập cao và ổn định.
+ Đối với công nghiệp:
Các ban, ngành cần phải đẩy nhanh công tác bồi thường, giải phóng mặt
bằng hình thành thêm nhiều khu, cụm công nghiệp, nhất là ở khu vực nông thôn,
chỉnh trang đô thị và các dự án khác để thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
+ Đối với du lịch: đẩy nhanh tiến độ quy hoạch chi tiết các khu du lịch,
tuyến du lịch trọng điểm, tạo ra các loại hình và sản phẩm du lịch đặc thù của
tỉnh, đó là du lịch văn hóa - tâm linh và du lịch biển.
- Về quy hoạch phát triển HLKT quốc lộ 19: trong quá trình phát triển,
bên cạnh nỗ lực tự thân, Bình Ðịnh rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ và các Bộ,
ngành Trung ương tạo dựng tiền đề cho vấn đề quy hoạch phát triển HLKT
quốc lộ 19.
- Về quy hoạch phát triển KKT Nhơn Hội: hoàn chỉnh chi tiết các khu
chức năng trong KKT Nhơn Hội, đó là KCN, khu phi thuế quan, khu cảng, khu
đô thị, khu du lịch và khu tái định cư.
- Về quy hoạch xây dựng phát triển hệ thống đô thị, điểm dân cư nông
thôn: cần phải từng bước đầu tư quy hoạch thành phố Quy Nhơn trở thành trung
tâm kinh tế lớn của khu vực miền Trung và Tây Nguyên, quy hoạch phát triển

hệ thống đô thị dọc theo các HLKT quốc lộ 19, quốc lộ 1A.
3.2.2. Giải pháp về đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng
Trên cơ sở quy hoạch các hình thức TCLTKT trong tương lai, tỉnh kết hợp
với Chính Phủ và Bộ Giao thông vận tải nên có kế hoạch lồng ghép các nguồn vốn
đầu tư các chương trình trên địa bàn tỉnh để phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản
xuất và dân sinh, coi trọng các công trình giao thông, thuỷ lợi, cấp thoát và xử lí
nước trong các KCN, trang trại, đô thị
- Tập trung đầu tư nâng cấp cảng hiện có và đầu tư xây dựng thêm hệ thống
cảng mới đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế, mở
rộng giao thương, đặc biệt cảng Quy Nhơn với chức năng cảng tổng hợp quốc gia
phục vụ chủ yếu cho các KCN và trung chuyển các sản phẩm dầu.
- Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu: tập trung đầu tư có trọng
điểm một số công trình giao thông và thuỷ lợi; xây dựng hệ thống cấp, thoát
nước và quản lí chất thải rắn đô thị và KCN; tập trung đẩy nhanh tiến độ xây
dựng kết cấu hạ tầng kĩ thuật và các công trình dịch vụ, tiện ích công cộng, đối với
KKT Nhơn Hội tạo bước đột phá về phát triển công nghiệp của tỉnh.
3.2.3. Giải pháp về cơ chế chính sách
- Chính sách thu hút, hỗ trợ đầu tư phát triển: tỉnh cần ban hành cơ chế,
chính sách vượt trội để các nhà đầu tư quan tâm và đến đầu tư tại Bình Định
trong thời gian tới. Đặc biệt, đối với KKT Nhơn Hội sẽ thực hiện mức giá cho
thuê đất thấp nhất đối với các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng.
- Chính sách xúc tiến kêu gọi đầu tư: phối hợp với Trung tâm xúc tiến đầu
tư miền Trung tổ chức các hội thảo xúc tiến đầu tư. Ba lĩnh vực được địa phương
21
đưa ra để thu hút đầu tư trong thời gian tới đó là: khu công nghiệp - khu kinh tế,
du lịch và cơ sở hạ tầng.
- Riêng đối với nông nghiệp: tỉnh sớm hoàn thiện việc giao đất, cho thuê
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, tạo điều kiện cho các hộ
gia đình, trang trại yên tâm đầu tư sản xuất; cần có hướng dẫn cụ thể khi giao
đất cho các chủ trang trại, gắn giữa quy hoạch các vùng sản xuất với các cơ sở

chế biến; phải coi đất là loại hàng hoá đặc biệt để nông dân thế chấp vay vốn
ngân hàng…
3.2.4. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực
- Bình Ðịnh tiếp tục quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo nguồn nhân lực
có trình độ chuyên môn và tay nghề cao, tổ chức đào tạo lao động tại chỗ để
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho KKT, KCN và khu du lịch. Phấn đấu
đạt tỉ lệ lao động qua đào tạo, bồi dưỡng nghề khoảng 55%. Mỗi năm tạo việc
làm mới cho 25000 đến 30000 lao động [14].
- Cần phải xây dựng cơ chế sử dụng, đãi ngộ nhân tài để họ yên tâm cống
hiến nhiều hơn. Quyết tâm thực hiện việc chuyển đổi cơ chế quản lí nhằm thỏa
mãn ngày một tốt hơn các nhu cầu chính đáng của nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Nâng cao trình độ học vấn và nhận thức cho người dân một cách toàn diện về
mọi mặt, đặc biệt cư dân sống ở vùng ven biển.
- Đẩy mạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản trị doanh
nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đủ
khả năng tiếp cận những tiến bộ về khoa học quản lý, công nghệ mới, biết dự báo
và tiếp cận với thị trường, chủ động hội nhập vào tiến trình toàn cầu hoá.
- Đối với nông nghiệp: hiện còn chiếm gần 65% lao động và đang tạo ra
38% GDP toàn tỉnh, cần có một số giải pháp đặc thù: tăng cường tổ chức dạy
nghề cho nông dân, tăng cường đầu tư xây dựng và phát triển đội ngũ khuyến
nông cơ sở, tăng cường hỗ trợ cho nông dân tiếp cận với các thông tin về sản
xuất, thị trường, đặc biệt tổ chức các lớp bồi dưỡng những kiến thức cần thiết
cho các chủ hộ, chủ trang trại, mở rộng hình thức tư vấn (tư vấn về đầu tư, pháp
lí…), thành lập các câu lạc bộ (như câu lạc bộ chủ trang trại, chủ hộ…)
3.2.5 Giải pháp về khoa học và công nghệ
Để tạo điều kiện cho người sản xuất ở các hình thức TCLT, tỉnh cần chú
trọng một số biện pháp cụ thể:
- Đầu tư mạnh hơn nữa cho các Trung tâm nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ thuộc các Sở, ban ngành, các trường Đại học, Cao đẳng, các trường
chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh để tìm ra các quy trình công nghệ sản xuất mới,

các giống mới có năng suất và chất lượng cao.
- Các Sở, ban ngành cần chú trọng việc chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa
học - công nghệ cho người sản xuất để tạo bước đột phá về năng suất, chất lượng,
hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành hàng nông sản.
- Có chính sách ưu tiên và đãi ngộ cho những công trình nghiên cứu ứng
dụng khoa học và công nghệ vào trong các lĩnh vực kinh tế.
22
3.2.6. Giải pháp về thị trường, hợp tác phát triển
Thi trường là yếu tố quyết định phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng sản xuất hàng hoá, tác động tới sự phát triển các hình thức TCLTKT
như hộ, trang trại, KCN…
- Đối với thị trường nông nghiệp và nông thôn: tỉnh và các Sở chức năng
cần phối hợp chặt chẽ để tạo lập đồng bộ các điều kiện vật chất, tổ chức mạng lưới
thị trường. Cần khuyến khích mọi thành phần tham gia vào quá trình sản xuất, chế
biến và tiêu thụ sản phẩm của các hình thức TCLTNN. Các hộ, trang trại thực hiện
rộng rãi việc kí kết hợp động kinh tế với các cơ sở sản xuất. Tỉnh cần phải hỗ trợ
cho nông dân và các trang trại tiếp cận thị trường bằng cách tổ chức hội nghị
khách hàng, hội chợ triễn lãm hàng nông sản ở trong tỉnh và ngoài tỉnh.
- Bình Định cần chú trọng xu thế và triển vọng thị trường của vùng
HLKT Đông - Tây (khu vực hấp dẫn là tuyến hành lang đường 19), các tỉnh,
thành trong vùng Duyên hải miền Trung.
3.2.7 Giải pháp về nguồn vốn
- Đối với nông nghiệp :
Đối với một số hình thức TCLTNN như trang trại, tình trạng thiếu vốn
cho đầu tư thâm canh và mở rộng sản xuất khá phổ biến. Chính quyền địa
phương cần phải ban hành quy định về lãi xuất hỗ trợ người nông dân.
- Đối với công nghiệp, du lịch và KKT :
+ Việc tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển các điểm, cụm, KCN, khu du
lịch phải đồng thời gắn với lập quy hoạch chi tiết.
+ Khuyến khích các nhà đầu tư có dự án đầu tư vào các KCN, khu du

lịch, KKT góp vốn hoặc tự bỏ chi phí xây dựng mặt bằng.
+ Tăng cường tìm kiếm nguồn vốn ODA, nguồn FDI để xây dựng cơ sở
hạ tầng như cảng biển, sân bay, chỉnh trang đô thị, nâng cấp và mở rông các
tuyến tỉnh lộ để thu hút nhiều nhà đầu tư đến địa bàn tỉnh phát triển sản xuất,
kinh doanh trong các KCN, khu du lịch.

KẾT LUẬN
1. Tổ chức lãnh thổ kinh tế được hiểu đó là sự "sắp xếp" và " phối hợp"
các đối tượng trong mối liên hệ đa ngành và đa lãnh thổ trong một vùng cụ thể,
nhằm sử dụng một cách hợp lý các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lý
kinh tế - chính trị và cơ sở vật chất kỹ thuật đã và sẽ được tạo dựng, để đem lại
hiệu quả kinh tế - xã hội cao và nâng cao mức sống dân cư, đảm bảo sự phát
triển bền vững của một lãnh thổ. TCLTKT bao gồm TCLT theo ngành kinh tế
và TCLTKT theo không gian. Các hình thức TCLTKT là hết sức đa dạng.
2. Cho dù trên lãnh thổ Việt Nam hoặc trên địa bàn tỉnh, các hình thức
TCLTKT luôn mang lại giá trị rất lớn cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Ở
Việt Nam và vùng kinh tế Duyên hải Nam Trung Bộ, các hình thức TCLTKT
có sự kết nối với nhau khá toàn diện, bao gồm: vùng kinh tế, vùng KTTĐ,
23
HLKT, KKT, đô thị, trang trại, KCN, khu du lịch Các hình thức TCLTKT này
đã mang lại hiệu quả kinh tế cao.
3. Bình Định là tỉnh thuộc vùng kinh tế Duyên hải Nam Trung Bộ, có vị
trí khá thuận lợi, gắn cảng biển với HLKT đường 19 và nằm ở phía Nam của
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Sự phân hoá về nguồn lực phát triển KT -
XH ở tỉnh Bình Định thể hiện khá rõ nét theo hai tiểu vùng kinh tế. Mỗi tiểu
vùng có những đặc trưng nổi bật về thế mạnh và khả năng hình thành, phát triển
các hình thức TCLTKT tiêu biểu.
Đối với tiểu vùng Đồng bằng, ven biển phía Đông có lợi thế về biển, về
lao động và có khá đầy đủ các loại hình giao thông (đặc biệt là cảng biển Quy
Nhơn). Các hình thức TCLTKT tiêu biểu, đó là: các vùng chuyên canh (lúa,

dừa, mía), NTTS; các KCN, CCN; khu du lịch, tuyến du lịch quốc gia và nội
tỉnh; KKT duy nhất của tỉnh (Nhơn Hội); HLKT quốc lộ 1A; TP Quy Nhơn: đô
thị hạt nhân, trung tâm kinh tế của tỉnh và các đô thị vệ tinh.
Tiểu vùng Trung du, miền núi phía Tây với lợi thế về địa hình, nguồn
nước, đất đai và rừng và nằm ở cửa ngõ phía Tây của tỉnh. Các hình thức
TCLTKT tiêu biểu đó là: trang trại, các vùng chuyên canh (mì, mía); điểm công
nghiệp (thuỷ điện); một số KCN, CCN, khu du lịch, tuyến du lịch quốc gia;
HLKT quốc lộ 19.
Các hình thức TCLTKT nổi bật như đô thị hạt nhân, khu công nghiệp, các
HLKT gắn liền với cảng biển đã, đang và sẽ mang lại lợi ích cho tỉnh Bình Định
cả về mặt kinh tế, xã hội, môi trường và đối ngoại.
4. Việc xác định phương án TCLTKT tỉnh Bình Định đến năm 2015 và tầm
nhìn đến năm 2020 theo 3 tiểu vùng với hướng ưu tiên phát triển khác nhau, trong
đó các ngành kinh tế, cực kinh tế được xác định một cách cụ thể.
Như vậy, ngoài thế mạnh về nông, lâm, thủy sản, Bình Ðịnh sẽ tập trung
đầu tư xây dựng và phát triển KKT Nhơn Hội trên diện tích 12000 ha liền kề thành
phố Quy Nhơn trở thành trung tâm kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển KT - XH
của tỉnh Bình Ðịnh và khu vực miền Trung; phát triển các tuyến du lịch trọng điểm,
phát huy vai trò của các đô thị trên các tuyến hành lang quốc lộ 19, quốc lộ 1A, khai
thác tối đa tiềm năng và lợi thế về biển, nâng cấp mở rộng cảng biển Quy Nhơn để
có thể định hướng bộ khung lãnh thổ vùng một cách hợp lí. Từ đó, đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp - dịch vụ.
5. Để các hình thức TCLTKT phát triển trên cơ sở phát huy tối đa nguồn
lực của địa phương và mang lại hiệu quả thiết thực, vấn đề đặt ra cần phải triển
khai đồng bộ các giải pháp nhằm hoàn thiện TCLTKT tỉnh Bình Định đến năm
2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Đặc biệt, các nhà quản lí cần phải có tầm nhìn
chiến lược về khả năng phát triển kinh tế ở địa phương gắn với vai trò của các
hình thức TCLTKT. Sự phối hợp chặt chẽ của các thành phần kinh tế, sự đồng
thuận giữa chính quyền địa phương với người dân sẽ tạo nên động lực hết sức
quan trọng đối với sự thành công của các hình thức TCLTKT ở tỉnh Bình Định.

24

×